Apr 18, 2024

Thơ xướng họa

Huệ Thu họa thơ Quách Tấn & Đọc Đêm Thu Nghe Quạ Kêu
Quách Tấn * đăng lúc 03:32:45 AM, Jan 06, 2024 * Số lần xem: 27720
Hình ảnh
Huệthu & Quách Giao
#1

 

Quách Tấn * đăng lúc 08:08:07 PM, Mar 07, 2015 * Số lần xem: 25128

Huệ Thu họa thơ Quách Tấn

Trong chuyến về thăm nhà tháng 5 năm 2007 tôi ra Nhatrang ghé vào căn nhà của cụ Quách
Tấn khi xưa ở chợ Ðầm gặp anh Quách Giao con trai cụ, anh Quách Giao đã tặng tôi mấy tập thơ của cụ thân sinh, tôi về đã chọn một số bài họa lại và đã gửi đến anh với lòng trân trọng :

*
Ca Tụng Quách Tiên Sinh

Ðường Thi từ có Quách Tiên Sinh
Chọn chữ lựa vần hết sức tinh
Lời cũ thật nhiều câu trác tuyệt
Ðời nay đâu hiếm khách tài tình
Xem rồi phút chốc buồn rơi lệ
Ðọc tới tự nhiên cũng giật mình
Cổ Ðiển? Tân Kỳ ? Thôi cũng một
Thơ hay như của bậc thần linh !

Ðọc Lại Mùa Cổ Ðiển

Ðọc Mùa Cổ Ðiển, Quách tiên sinh,
Chợt tỉnh cơn mê bỗng giật mình.
Cái mới lại nằm trong cái cũ !
Câu thương dễ lẩn giữa câu tình.
Ngõ Ô Y ấy không lưu dấu
Ðồng Tước đài kia vẫn hiện hình
Những kẻ yêu thơ ngàn thuở trước
Buồn cho thiên hạ tưởng văn minh

Huệ Thu

Ðọc Mùa Cổ Ðiển

Ông tuổi già như ông nội nhĩ ?
Thì ra cốt nhạc với nòi tình !
Mưa Thu dù nát niềm dâu bể
Gió lạnh còn đau nghĩa tử sinh
Nỗi nhớ chưa quên thời hỗn loạn
Cỏ thơm vẫn đọng dấu bình minh
Ôi Mùa Cổ Ðiển mà không cổ !
Tôi đọc thơ ông tưởng chính mình !

Một Chữ Tài

Mùa Cổ Ðiển giờ đọc lại ai,
Bảy mươi năm cũ tiếng than dài
Phong Kiều Dạ Bạc còn thao thức
Xích Bích Trung Thu cứ cảm hoài
Có phải cụ Hương ngày dĩ vãng ? (*)
Hay là cô bé thuở tương lai (**)
Một trăm tuổi chẵn như còn gặp
Nghĩ tiếc giùm cho một chữ tài !

(*) Cụ Trần Văn Hương
(**)Cô bé “Nói Với Em Lớp Sáu”

Huệ Thu
*
Họa thơ Quách tiên sinh

1. Thơ Về

Giấc mộng nghìn xưa đương mải mê,
Vùng nghe cảm hứng báo thơ về.
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm,
Gió trải tà mây chữ nhạn đề.
Vồn vã tiếng dương ngâm lại đọc,
Rỡ ràng sắc rớn điểm rồi phê.
Tứ tràn ra mãi trong cao rộng...
Thiên nữ bưng hoa rắc xuống tề.

Quách Tấn

Bài họa I
Giọng Sở Tề

Một giấc trăm năm tưởng ngủ mê
Chợt nghe trước cửa gió Thu về
Văn chương nghĩ lại tuy trường cửu
Cơm áo thành ra có vấn đề
Văn họ kẻ khen rồi kẻ tụng
Thơ mình ai điểm, biết ai phê ?
Thì thôi thời thế đành như vậy
Ta tưởng đâu đây giọng Sở Tề.

Bài họa II
Bọn Ta Tề

Ðời như còn đắm giữa sông mê
Rũ áo thôi đây lại trở về
Ðã hết ngày no lo buổi đói
Vẫn còn lúc hứng nghĩ thơ đề
Tống Ðường vốn dĩ không thành đạt
Lý Ðỗ nghe chừng vẫn phủ phê
A ! Giữa cuộc đời muôn vạn lối
Vui chung riêng một bọn ta tề !

Huệ Thu

2. Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu

Từ ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẩn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang

Quách Tấn

Bài Họa I
Cứ Mang Mang

Ô y dẫu chẳng quạ bay sang
Vương, Tạ ai xưa vẫn rộn ràng
Trăng bến Phong Kiều còn tưởng vọng
Rượu sông Xích Bích có mơ màng
Sầu từng thấy rớt đôi dòng lệ
Thu đã nghe rơi chiếc lá vàng
Tiếng quạ nửa đêm càng lảnh lót
Làm sao lòng dạ cứ mang mang

Bài Họa II
Gió Thu Sang

Chim bay theo với gió Thu sang
Tiếng quạ đêm sương thật rõ ràng
Song bạc nếu thương người khách lạ
Giếng khơi càng lạnh lá ngô vàng
Phong Kiều bến cũ trăng mờ nhạt
Xích Bích sông xưa gió muộn màng
Tâm sự với ai còn gửi lại
Tự nhiên lòng dạ cứ mang mang

Huệ Thu

3.Dưới Liễu Chờ Xuân

Tin Xuân gió rải khắp nơi nơi,
Dưới liễu chờ Xuân gắng gượng cười.
Bạn khắp non sông mà vắng vẻ
Tình trong gang tấc vẫn xa xôi !
Thân gầy với nguyệt bao phân nữa ?
Tóc rụng theo sương mấy lớp rồi !
Giòng cũ Ngân Hà sâu bến đợi,
Muốn đem sầu gởi nước trôi xuôi...

Quách Tấn

Nhớ Bạn

Ðem thơ thử rải khắp muôn nơi,
Mong góp về cho mấy tiếng cười.
Bốn bể dễ đâu còn vắng vẻ
Năm châu chẳng thấy cứ xa xôi
Trước sau tích cũ y nguyên đó
Hưng phế trăng xưa đã đổi rồi
Nhớ bạn bạn xa đành lỗi hẹn
Trường Giang dòng nước vẫn về xuôi

Huệ Thu

4 .Cảm Thu

Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu,
Ðây lòng ta đó một trời thu.
Gió vàng cợt sóng sông chau mặt
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu.
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy,
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu ?
Hỡi người chinh phụ nương rèm liễu,
Sùi sụt chi thêm bận vó câu.

Quách Tấn

Bài họa I
Bỗng Dưng Sầu

Tự dưng lòng lại bỗng dưng sầu
Có phải vì nghe ngọn gió Thu ?
Giở sách con còn bao nỗi nhớ
Soi gương cụ đã bạc phơ đầu
Lập trường nếu vậy đành như vậy
Chính nghĩa là đâu biết ở đâu ?
Tri kỷ lẽ nào không thể có ?
Gửi trao thôi gọi một vài câu

Bài họa II
Thoáng Bóng Câu

Từ thuở nào đây đã biết sầu
Lại thư bạn gửi giữa mùa Thu
Chưa chi má phấn chừng phai vẻ
Mấy chốc ngày xanh đã bạc đầu
Thương đó lại không còn nhớ đó
Tìm đâu mà biết gửi về đâu ?
Ai xưa vạn dặm đường xa ngái
Mắt dõi theo hoài thoáng bóng câu !

Huệ Thu

5. Trời Ðông

Chuông gióng Hàn San bẵng tiếng ngân,
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần...
Lá thương nhánh nặng bay hầu hết,
Trời sợ non côi xích xuống gần
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng
Quây quần mây khói liễu riêng xuân
Ðêm như dài lắm... người Vân Hớn,
Trong giấc thăm nhau được mấy lần

Quách Tấn

Ðã Bao Lần

Chợt nghe đâu đó tiếng chuông ngân
Sân vắng canh sương lại nhạt dần
Bạn hữu bốn phương trời dẫu rộng
Thơ văn vạn ngả bước thêm gần.
Xôn xao đất tạm ngàn câu nhớ
Vắng vẻ đường dài một tấc Xuân
Ta gửi tri âm vài nỗi nhớ
Mà sao hò hẹn đã bao lần

Huệ Thu

6. Trời Khuya

Sương buông màn lượt phủ bao la
Non nước chìm sâu trong giấc mơ.
Cung quế im lìm mây ấp nguyệt,
Song đào âu yếm gió hôn hoa.
Hương trà pha lẫn hương trầm thoảng
Tiếng dế hòa ăn tiếng địch xa.
Lẳng lặng thâu đêm người đối cảnh,
Hồn tan theo mộng tứ theo thơ.

Quách Tấn

Mấy Vần Thơ

Lại nhớ ngày xưa xóm Trữ La
Tây Thi giặt lụa cứ như mơ
Vừa đây sao vắng tanh tin bạn
Mới đó mà như cách mặt hoa
Cứ tưởng giai nhân người buổi mới
Mà rằng mặt ngọc lại như xa
Ðêm khuya trăng cũng soi đầu núi
Một chút gì như mấy vận thơ

Huệ Thu

7. Gió Khuya

Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào
Nửa phòng mây rộng một trăng cao.
Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu
Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng,
Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao.
Lòng chan chứa biết bao cay đắng,
Tan sạch còn lưa chút ngọt ngào.

Quách Tấn

Gió Bay Vào

Phòng riêng cửa mở gió bay vào
Mây vẫn tầng không lặng lẽ cao
Vườn cũ còn chăng hương dạ hợp
Nhà bên vẫn thắm đóa anh đào
Tưởng thương như vậy, thương là vậy !
Ôi nhớ là bao, nhớ biết bao !
Trong chốn trần gian đầy bụi cát
Ðường không cần bột lấy chi ngào

Huệ Thu

9.Mộng Thấy Hàn Mặc Tử

ÔỊ Lệ Thanh ! Ôi Lệ Thanh !
Một giấc trưa nay lại gặp mình.
Nhan sắc châu pha màu phú quí,
Tài ba bút trổ nét tinh anh.
Rượu tàn thu cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc , tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành

Quách Tấn

Nhớ Riêng Mình

Nhớ Mặc (*) hay là nhớ Lệ Thanh ?
Thật ra mình chỉ nhớ riêng mình !
Bạn đời tuy có bao nhiêu kẻ
Thơ cũ rằng không phải một anh
Ðọc Lá Mã Tiền chan chứa mộng
Xem Mùa Cổ Ðiển thiết tha tình
Ðêm nay tôi họa thơ người đó
Thấy gió canh khuya xịch bức mành

(*) Hàn Mặc Tử

Huệ Thu

10. Trơ Trọi

Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ !
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ !
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ !
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng,
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại ?
Con thước qua song lại ỏm ờ !

Quách Tấn

Chữ Yêu

Thương mình mình lại cứ làm lơ,
Phòng vắng canh sương cửa khép hờ
Trời lúc đêm mưa sùi sụt lệ
Lòng khi canh vắng lạnh lùng thơ
Chén mời rượu đắng vài câu sáo
Khúc cũ, ngày xưa mấy điệu tơ
Ta viết vào đây ngàn chữ hận
Chữ yêu muốn nói tại sao... ờ ?

Huệ Thu

11.Hiu Quạnh

Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi,
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi !
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp,
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi !
Lá rắc thêm sầu rơi gió một,
Chim đành riêng thú liệng trời đôi.
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh,
Cúc nở nhìn nhau mỉm miệng cười.

Quách Tấn

Ngẩn Ngơ Cười
Tặng bạn Ðà Lạt

Vừa đây sao đã cách xa rồi
Son sắt cầm bằng chuyện đãi bôi
Tình giống mây xa trôi mãi nhỉ !
Lòng như trăng lạnh, nhớ sao nguôi
Con đường vào xóm chia hai ngả
Theo bạn về làng lại lẻ đôi
Hoa bưởi thơm lừng quê mẹ đó
Nhìn nhau chỉ biết ngẩn ngơ cười

Huệ Thu

12. Nhắn Ai

Thềm xuân mấy lượt lệ hoa rơi,
Mấy lượt mưa thu liễu rối bời !
Nhớ chập chồng non mây sớm tối,
Tình lai láng biển nước đầy với.
Chiêm bao lẩn quẩn trăng dầm gối,
Tin tức nôn nao nhạn lạc trời.
Gương nhạt cảnh đời chung tấc bóng,
Tâm hồn riêng gởi nước non ai.

L.T. và Q.T

Biết Nói Cùng Ai ?

Tìm đọc thơ người bỗng lệ rơi
Gió Thu từng trận thổi bời bời
Nhớ theo cánh gió làm sao tới
Tình giống trăng sông chẳng dễ vơi
Thuở ấy bạn còn sau cánh cửa
Ðêm nay sao lại ở bên trời
Chao ơi ! Là mấy câu tâm sự
Biết nói cùng ai ? Gửi tới ai ?

Huệ Thu

13 . Lại Nhắn Ai

Còi xe đêm trước lọt rèm xưa,
Tin gởi vào ai đã đến chưa ?
Tỉnh mộng nằm ôm tràng mộng cũ,
Mong thơ lần giở xấp thơ xưa...
Cỏ sương rung động niềm thương nhớ,
Mây nước nôn nao ý đợi chờ.
Lơ đễnh bên người ôm mặt khóc,
Hỏi tra duyên cớ, ngại ngùng thưa.

T.T. và Q.T

Ngẩn Ngơ Thưa

Ðâu vì chén rượu hóa say sưa
Bạn đã đi rồi, đã đến chưa ?
Nghĩ vẫn còn đây như bữa trước
Tưởng vừa mới đó vẫn ngày xưa
Vì sao lỡ bước mà không khóc
Bởi tại lòng đau cứ muốn chờ
Muốn hỏi hỏi ai giờ đó nhỉ !
Ngoài trời chim thước ngẩn ngơ thưa.

Huệ Thu

14 . Chiều Xuân

Chim mang về tổ bóng hoàng hôn,
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn.
Cành gió hương xao hoa tỉ muội,
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn.
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng,
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.

Quách Tấn

Nẻo Cuối Thôn

Chỉ phớt qua thôi một nụ hôn
Mà nghe sóng biển biếc rêu cồn
Hẳn vì bởi bạn còn vô ý
Chẳng phải là mình cứ tự tôn
Thấy chốn đầu non chim mỏi cánh
Nghe nơi ngàn dặm bước chân dồn
Chiều nay khói bếp nhà ai vậy ?
Lại nhớ nhà mình nẻo cuối thôn

Huệ Thu

15. Ðêm Mơ

Thuyền ai neo nguyệt bến sông Ngân,
Khúc nhạc giao bôi rót xuống trần
Sương bạc vấn vương lòng quả phụ,
Trúc vàng tha thướt bóng giai nhân.
Hồ im vẻ ngọc mơ duyên lá,
Sân vén rèm hoa đón ý xuân.
Muôn dặm gió về say lảo đảo,
Cành hương chợt tỉnh ngát hương lân.

Quách Tấn

Tương Lân
gửi tặng bạn thơ Ðà Lạt

Ðêm thu vằng vặc một giòng ngân
Tưởng khoảng không gian sạch bụi trần
Chẳng thể tìm về nơi cố lý
Làm sao gặp lại các tao nhân ?
Phượng không còn nữa ve mùa Hạ
Bưởi hết thơm rồi ngọn gió Xuân
Biết gửi về đâu câu nhã ái
Tài tình trót nợ chữ tương lân.

Huệ Thu

*

16.Thi Nại Hoài Cổ

Thi Nại xưa kia vũng chiến trường,
Nổi chìm thế sự mấy sao sương ?
Non cao còn thoáng hơi binh dữ,
Biển thẳm chưa phai sắc máu hường.
Gành Ráng sóng vờn gương đế bá,
Phương Mai rừng đắp vết tang thương.
Bùi ngùi ngắm cảnh quay trông lại,
Lớp lớp xa ai rộn phố phường.

1932
Quách Tấn

Ngàn Năm

Trước chiến trường nay hóa hý trường
Miệt mài kim cổ mấy phong sương
Núi như vẫn chắn quân về ngược
Biển tưởng còn nguyên máu sắc hường
Lạ nhỉ cớ sao tha thiết nhớ
Tự nhiên mà lại ngậm ngùi thương !
Ngàn năm cảnh vật vô thường đó
Chỉ thấy xe ai chật phố phường !

Huệ Thu

17. Về Thăm Nhà Cảm Tác

Quê người nương náu bấy nhiêu lâu,
Vườn cũ về thăm cảnh dãi dầu !
Trống trải ba gian nhà nhện choán,
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo !
Cội tùng bóng ngả sương rơi lệ !
Ngõ trúc mây che quốc giục sầu.
Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ...
Giật mình ngỡ đến chốn nào đâu !

Quách Tấn
1932

Nhớ Ta Ngày Trước

Xa vắng quê nhà chốc bấy lâu
Tự nhiên cảnh vật thấy dầu dầu
Cuối vườn cỏ dại tha hồ mọc
Ðầu ngõ dây bìm mặc sức leo
Bóng xế khôn ngăn dòng lệ thảm
Thơ vui khó viết nổi lòng sầu
Ta về ta nhớ ta ngày trước,
Có thấy gì đâu, có biết đâu !

Huệ Thu

18. Ðêm Xuân

Lơ lửng từng mây vọng tiếng tơ,
Ðêm trong như kính dịu thu mờ.
Phấn sương điểm má đào thơ thớ,
Gương nước soi mày liễu nhởn nhơ.
Mượn lược nường trăng soi chải tóc,
Khai tình chị gió lá đề thơ.
Bồng lai một giấc muôn năm cũ,
Mơ ước chi cho bướm phỉnh phờ

Quách Tấn

Mấy Vần Thơ

Ðàn tưởng từ lâu bặt tiếng tơ
Bỗng nhiên ai hát dưới trăng mờ
Thương người xa ấy không về nữa
Nhớ tập thư này chẳng vết nhơ
Thôi vẫn còn đây vài nỗi nhớ
Chỉ còn lưu lại mấy vần thơ
Soi gương mới biết đâu còn trẻ
Mái tóc ngày đêm đã rối phờ

Huệ Thu

19. Ông Thích Chi

Người hỏi: bình sinh ông thích chi ?
Hoa thơm gái lịch với thơ hay.
Sống trăm năm đó chơi cho thú,
Chết một lần thôi sợ quái gì .
Chúa Phật hầu non: Nguyễn Uy Viễn,
Non tiên rêu biếc: Tràn Hy Di.
Chị em thương tớ đừng khuyên tớ...
Lúc hứng trời xanh bé tỉ ti .

Quách Tấn

Có Ngại Gì

Người hỏi ở đời chị thích chi ?
Thường thì chỉ thích những bài hay
Trẻ vui bè bạn và nhân nghĩa
Già chết ai đâu có ngại gì
Chùa Phật dẫu không cần đại ngộ
Tị Tần còn mãi dấu chim di
Chao ôi ! Một giấc Trang Sinh trước
Còn lại ngàn sau tiếng trúc ti.

Huệ Thu

20. Chút Lòng

Từ phen biển mộng khép trăng song,
Nửa mẫu vườn quê tạm náu lòng.
Ði đứng luống thương đường lối hẹp,
Ăn nằm dám phụ nước non chung.
Mười phương tin tức mây hờ hững,
Ba kiếp văn chương bút ngại ngùng!
Bạn tác ví thương tình gặp gỡ,
Ðừng đem mây ráng đọ nghi dung.

Quách Tấn

Ðã Bao Dung

Ðêm trăng mình lại dựa bên song
Dâu bể càng thêm nát tấm lòng
Riêng cách nghĩ suy do họ định !
Biết rằng sông núi của mình chung
Quốc gia ai hát càng tha thiết
Cách mạng khi nghe có ngượng ngùng !
Ðầu bạc đâu ngờ trên đất khách
Cám ơn nước bạn đã bao dung.

Huệ Thu

21. Qua Xuân

Ðôi tiếng chim vàng nghe chửa nhuyễn,
Nhìn xuân bóng ngựa đã xa lơ...!
Biết bao tươi thắm sai hò hẹn,
Còn chút thơm thanh dám hững hờ.
Cánh phấn ấp iu cành nhả kén,
Nhụy hồng dan díu nhện trương tơ.
Một mai trăng chở thu về cúc,
Rèm cuốn sương hương tỏa lững lờ.

Quách Tấn

Chỉ Còn Lưu Lại

Ðôi tiếng vành khuyên cành liễu nhuyễn
Mấy tầng mây trắng bóng xanh lơ
Vườn thơ thuở ấy chưa vun luống
Cửa sổ phòng ai lại khép hờ
Vẫn thấy giờ đây muôn lối mộng
Chỉ còn lưu lại mấy đường tơ
Rèm tương ai cuốn đêm nay nhỉ,
Dòng nước Trường Giang có lững lờ ?

Huệ Thu

22. Bóng Giai Nhân

Sen vàng từ độ cách trùng dương,
Ðâu nửa ? Khi xuân đón hải đường.
Nắng gợn ly đào son hé ngọc,
Gió nâng tà lụa tuyết vương hương...
Bồi hồi trăng nước say cơn mộng,
Thao thức cầm thi lạnh ải sương.
Thoảng cánh buồm mây nương ráng lại,
Lòng thu vời vợi sóng tiêu tương

Quách Tấn

Bến Sông Tương

Ðàn ai bỗng trổi khúc du dương
Ta đã xa nhau vạn dặm đường
Vốn biết nhớ hoài tình bạn hữu
Làm sao quên được chuyện quê hương
Ðành rằng buổi ây nhiều cay đắng
Phó mặc từ nay những gió sương
Bạn ở Lâm Viên mình ở Mỹ
Chiều hôm ai ngắm bến sông tương

Huệ Thu

23. Lại Tản Cư

Vừa mới hồi cư đã tản cư !
Vận nhà vận nước biết nên hư ?
Máu xương chiến đấu thương đà lắm,
Nanh vuốt xâm lăng giận chửa trừ !
Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp,
Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư.
Gió sương chếch chóng hồn ly loạn,
Ước nguyện bình sinh nửa có như ?

Trường Ðịnh 1947
Quách Tấn

Bài họa I
Có Y Như

Một đời mấy bận phải di cư,
Chân giả làm sao biết thực hư ?
Cách mạng tưởng đâu là phép cộng,
Dân sinh mới biết chỉ đem trừ.
Cứ xem năm bốn (54) vào năm ngựa,
Lại nhỉ Ba Mươi dạo tháng Tư.
Ta thuộc thơ Ðường từ thuở trước
Người sau chẳng hiểu có y như ?

Bài họa II.
Chỉ Biết Bây Giờ

Chỉ biết bây giờ đã định cư,
Rằng nên mà thật cũng rằng hư.
Cơ trời dẫu khó, thay bằng được,
Giặc nước làm sao có thể trừ ?
Ðã biết cùng làm đều nghĩa vụ,
Thôi đừng nghĩ đến chuyện riêng tư.
Mai về không thẹn cùng sông núi
Trăm khó ngàn khăn vẫn cứ như.

Huệ Thu

24. Lánh Cư

Khôn tới đào nguyên tránh loạn ly,
Thôn côi nương náu tạm qua thì.
Mây trưa mống xế chung thời tiết,
Rẩy mít vướng thơm ít thị phi.
Phòng vắng ngẩn ngơ hồn Tử Mỹ
Ngày dài gượng gạo giấc Hy Di.
Ðem đêm nằm đợi canh gà giục,
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri.

Phú Ân 1947
Quách Tấn

Vườn Ðào

Vườn đào ngày trước buổi chia ly
Ðời thế thì thôi đã thế thì...
Nhìn lại chỉ toàn là khốn khổ
Tìm đâu cho thấy vẻ phương phi
Thăng trầm buổi ấy câu dang dở
Dâu bể từ xưa chuyện chuyển di
Trên bước đường đời may vẫn gặp
Thiếu gì cao đẹp kẻ tương tri.

Huệ Thu

25. Nhớ Tản Ðà

Ðà Giang từ độ rụng văn tinh,
Tản Lĩnh đìu hiu rọi bóng mình.
Móng đỏ in sâu lòng tuyết trắng,
Tơ vàng mang nặng nợ dâu xanh.
Hàm Rồng nắm cỏ chưa tròn mộng,
Khê Thượng nguồn thơ luống quăn tình.
Chén rượu đêm nay nồng nã nhớ,
Hồn ai lai láng ánh trăng thanh

Phú Phong 1949
Quách Tấn

Man Mác Buồn Chưa

Ðã rụng văn tinh, rụng tửu tinh,
Bơ vơ còn lại chỉ riêng mình.
Cây đa bến cũ trời thêm rộng
Bãi cỏ bờ xa sắc vẫn xanh.
Thơ dẫu trên bàn, man mác nhớ
Rượu chưa kịp rót chưa chan tình.
Từ nay Lý Ðỗ ai giùm nhắc,
Man mác buồn chưa giọng Thái Thanh !

Huệ Thu

26. Lại Bị An Trí

Vườn quê hẩm hút thú ăn làm
Mỗi bận nghi tình mỗi bắt giam !
Năm nắng mười mưa thân đã dạn,
Ba cha bảy mẹ phận đành cam.
Lạnh lùng tiếng ngựa run cơn bấc !
Da diết lòng chim vọng nhành nam.
Lắm lúc thẫn thờ ven nẻo mộng,
Trời cao bể rộng giọt sương lam.

Phú Nhiêu 1953
Quách Tấn

Cũng Muốn

Cũng muốn theo ai cũng muốn làm
Nhưng mà thân lại bị kiên giam
Tình ngay ý thật thôi thì được
Tay kẹp, chân cùm thế cũng cam
Nghĩ lại ngựa Hồ và gió Bấc
A mà ! Chim Bắc đậu cành Nam !
Ta còn gì nữa ngoài tư tưởng
Trời vẫn trong và núi vẫn lam

Huệ Thu

27. Bước Cùng

Năm ngoái năm nay gặp bước cùng,
Lỡ bề gánh xách lỡ bề bưng !
Văn xưa dạy học trườn bôn thải,
Sức yếu làm thuê thế chẳng dùng.
Thân thích khó nhờ, sơ khó cậy,
Ruộng nương thì có, lúa thì không !!
Ngày mùa đành vẫn ăn cơm ghé,
Cha nhịn con ăn vợ nhịn chồng.

Phú Phong 1953
Quách Tấn

Thương Kẻ Tài Hoa

Thương kẻ tài hoa bước khốn cùng
Trong, ngoài tin tức kín như bưng
Thay nghề dạy học, ai người mướn
Muốn thử làm thơ mấy kẻ dùng !
Không vạn muôn đây mà vẫn có
Có bao nhiêu nữa cũng là không
Miễn sao trên dưới còn sum họp
Ríu rít còn riêng vợ với chồng.

Huệ Thu

28. Trời Chiều

Năm lụn ngày qua thân mỏi mòn
Buồn trông thoi thóp ráng đầu non...
Ấm no trước đã không cha mẹ,
Thiếu hụt rày thêm khổ vợ con !
Lặng lẽ mây trôi làn viễn vọng.
Ngập ngừng sương úa giọt hoàng hôn.
Trăng non một mảnh tình lưu luyến...
Người có như trăng khuyết để tròn ?

Phú Phong 1953
Quách Tấn

Lại Sẽ Tròn

Tưởng bước phiêu linh gót đã mòn
Nhìn lên trăng vẫn sáng đầu non
Người tuy ở đấy bao thơ phú
Cụ vẫn còn đây những vợ con
Cho dẫu đã lìa nơi tứ các
Lại thừa riêng nhận bóng hoàng hôn
Dĩ nhiên người cũng như trăng chứ
Trăng khuyết rồi trăng lại sẽ tròn

Huệ Thu

29. Xí Xóa

Bóng dâu đã xế mái đầu xanh,
Mà việc chi chi cũng chửa thành !
Tình nghĩa thoảng qua cơn huyễn mộng,
Văn chương rớt lại chút hư danh !
Chừ đây mới biết vàng là quí
Năm ngoái còn mua sách để dành !
Phải quấy sự đời thôi xí xóa,
Kìa đoàn con trẻ nhịp đồng thanh...

Phú Phong 1954
Quách Tấn

Bóng Trăng Thanh

Nhìn ra ngăn ngắt một màu xanh
Giấc mộng ngàn xưa vẫn chẳng thành
Chạy mãi vẫn thua đời thực tại
Sống hoài còn lại chút hư danh
Mấy câu ngụy ngữ thôi cần xóa
Một chữ chân tâm cứ để dành
Cơm áo biết rằng muôn khổ cực
Trời riêng đãi ngộ bóng trăng thanh

30.Chiều Xuân

Chim mang về tổ bóng hoàng hôn
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tỷ muội
Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.

Quách Tấn

Có Hẹn Nhau Về

Ta gửi nàng trăng một nụ hôn
Nhớ thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn
Cỏ thơm dẫu vắng giày Du tử *
Mắt biếc còn trông bậc chí tôn
Những tưởng Hương Giang con nước đợi
Ðã nghe Thiên Mụ tiếng chuông dồn
Hỏi cô yếm đỏ trưa nay gặp
Có hẹn nhau về nẻo cuối thôn

* du du phương thảo Ðịa
Cổ thi

Huệ Thu
Sơ Thu năm Kỷ Hợi 2007



****

Image result for vầng+trăng mai kiem images


 Ðọc “Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu” của Quách Tấn

         
Quách Tấn là bạn vong niên mà chí thiết của Chế Lan Viên, và Hàn Mặc Tử ; khi Quách Tấn đã là thông phán thì Chế Lan Viên Chỉ là học sinh trung học đệ nhất cấp, Hàn Mặc Tử chỉ là một ký giả tầm thường ở Sài Gòn, nhưng họ rất thân nhau.

Ông Quách Tấn có kể một chuyện, hồi ấy “ông già Bến Ngự” tức cụ Phan Bội Châu khen thơ Hàn Mặc Tử hay.... Một bậc đại danh như cụ Phan khen ai thì tất thơ người ấy phải hay lắm. Mà Hàn Mặc Tử bấy giờ còn nhỏ quá. Cụ Phan hơn Hàn phải vài ba chục tuổi. Cụ Phan là Thái Sơn, Bắc Ðẩu của làng chữ nghĩa Việt Nam lúc bấy giờ. Cụ Phan khen, lại khen thơ của một anh chàng trẻ tuổi, theo Tây học cũng là một điều lạ.

Thời ấy đôi khi Hàn Mặc Tử có làm thơ Ðường, nhưng ít lắm . Thơ của ông là thơ mới. Thơ mới chưa có chỗ ngồi ổn định trong thi ca . Hàn Mặc Tử chỉ viết có một bài luật thi mà cụ vội khen, vậy mới biết con mắt của cụ khám phá thật phi thường.

Khi đó Quách Tấn làm thơ lại chỉ đặc biệt làm thơ luật. Cả làng thơ, làng báo Việt Nam ngỡ ngàng. Ông lội ngược giòng, nói như nhà thơ trào phúng Tú Mỡ . Nhưng thơ ông dần dần được thưởng ngoạn . Qua hai tập thơ Lá Mã Tiền và Mùa Cổ Ðiển ông đã nổi tiếng. Lá Mã Tiền toàn thơ tứ tuyệt và Mùa Cổ Ðiển toàn thơ luật. Lúc bấy giờ thanh niên mới tiếp xúc với văn minh Tây phương. Người ta thích những từ mới, ý mới. Quách Tấn không chịu mới. Ông thích dùng điển tích, thích dùng chữ Nho, là đùa úy kỵ của thời thế ! Bài Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu là một chứng cớ.

Từ Ô Y hạng rủ rê sang

     Ô Y Hạng là cái gì ? Ở đâu ? Ngõ Ô Y là ngõ của hai họ quyền quý xưa thường ở. Ở đó người nhà họ Vương, họ Tạ thường mặc áo đen. Cho nên nghe tiếng quạ kêu Quách Tấn nghĩ đến ngõ Ô Y.
Quách Tấn thừa biết đàn quạ không xuất phát từ ngõ Ô Y. Người mặc áo đen có màu lông con quạ, ai cấm thi nhân nghĩ vớ vẩn rằng đàn quạ kia chính là con cháu nhà họ Vương họ Tạ rủ rê sang !
Quạ bay về Nam vào đêm trăng sáng, (nguyệt minh tinh hy ô tước nam phi, thử phi Tào Mạnh Ðức khốn ư chu lung giả hồ ? = trăng sáng sao thưa quạ bay về phương Nam đó có phải là lúc Tào bị nguy khốn vì Chu Du không ?)

Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng

Ðến đây tác giả đã nói rõ đề; Ðề là Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu
Rồi đến hai câu thực :

Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.


Tác giả nhắc đến Phong Kiều vì Trương Kế ở bài Phong Kiều Dạ Bạc rất nổi tiếng (Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên). Vậy thì Trương Kế đã ngủ ở bến Phong Kiều đầy sương, Quách tiên sinh tưởng như đang trong cảnh đó. Rồi ông nhớ đến Tào Tháo, Tào Tháo ngoài là một danh tướng ông còn là thi nhân. Ông đã thua lớn trong trận Xích Bích. Hỏa công đã đốt khiến ông chạy thục mạng mới thoát chết.Khổng Minh đã dùng hỏa công đốt đến vách núi bên sông thành màu đỏ, cái tên Xích Bích (vách đỏ) là do đó mà có. Trận đánh xảy ra vào mùa Thu. Cũng vào mùa thu, Tô Ðông Pha đi chơi thuyền trên sông Xích Bích có viết bài Thu Thanh Phú, Xích Bích Phú . Do một bài thơ mà nhắc đến vài bài thơ . Quách Tấn đối từng lời, từng chữ nhưng lời thơ vẫn tự nhiên, không gò bó.

     Câu dù lấy ý trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, cũng đêm trăng, cũng tiếng quạ trên bến Phong Kiều. Bến Phong Kiều đối với sông Xích Bích.Tào Tháo thua trận ở sông Xích Bích. Trương Kế nổi tiếng vì bến Phong Kiều.Thực đến như thế thật là tuyệt vời. Hai câu tả cảnh ấy làm sao thay thế được !

Ngày xưa họa sĩ Nguyễn Gia Trí có vẻ một bức tranh hoành tráng về Ngày Xuân. Có một khoảng trống ở dưới, có người hỏi cụ định vẻ gì ở đây ? - một bụi cỏ - Tại sao lại bụi cỏ ? - Cho đỡ trống , cụ trả lời.

Cũng vậy Quách Tấn nhắc đến sông Xích Bích nguyệt mơ màng , cũng như họa sĩ Lão thành Nguyễn Gia Trí với bụi cỏ. Giản dị thế mà thôi . Chúng ta tưởng là cầu kỳ nhưng những điển tích ấy, ở những gia đình cổ phong lưu, cha dạy con, khách nhắc chủ nhà, toàn chữ nghĩa thánh hiền, khiến người đọc không thấy bỡ ngỡ. Ai cũng iểu , ai cũng biết.
Ðến cặp trạng :

Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
.

Tại sao thương kẻ nương song bạc mà lại bồn chồn ? Vì người chinh phụ đang nhớ chồng. Mà chồng thì :”hiếu giao phu tế mịch phong hầu” (luống để chàng đi kiếm tước hầu) - Chàng thì còn nhớ đến công danh. Cho nên nàng buồn. Giai nhân buồn là nét đẹp muôn đời của bức tranh, cho nên Quách tiên sinh không thể bỏ qua .
Song bạc đối vói giếng vàng, thật không còn gì chỉnh hơn - Chính vì quá chỉnh nên đời sau có kẻ chê Quách tiên sinh không xuất xử tự nhiên, còn câu kỳ quá . Tình ý đang lan man như thế thì :

Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang


    Câu thơ chấm hết nhưng dư vị bài thơ vẫn còn. Tình còn hoang mang mà tứ cũng còn hoang mang . Hoang mang vì tiếng quạ kêu nửa đêm khi trăng sáng . Cái hay của bài thơ là vậy, uống cạn ly nước trà rồi mà vị ngọt của trà vẫn còn trong cổ họng.

Nói về tề chỉnh thì ít bài thơ được tề chỉnh đến thế . Có người cho đó là ưu điểm mà có người cũng cho đó là khuyết điểm của Quách Tấn , vì nó bằng phẳng quá !

Bài thơ này bảo cũ thì thật cũ mà bảo mới thì cũng rất mới. Tuy đầy chữ Hán nhưng thứ chữ Hán đã được Việt hóa, khiến những người ít học như chúng tôi vẫn hiểu và cảm nhận được.

Huệ Thu
2008

 
 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
Những Ðóa Hoa Thơ
Hue Thu Mar 07, 2015
tặng HT nhân đọc “Mùa Cổ Ðiển” của cố thi sĩ Quách Tấn và những bài họa thơ QT của HT.

Những đóa hoa thơ đẹp nõn nường
Tay ngà tô điểm, bút Thi nương
Tám câu rắc tám hàng châu ngọc
Năm vận cài năm đóa sắc hương
Lảnh lót lời oanh ca mỗi chữ
Tuyệt vời thức gấm dệt từng chương
Mến tài, ta dẫu xây kim ốc
E cũng chưa ngang giá Thịnh Ðường

SanJose, Trong Thu Ðinh Hợi 2007
Cung Diễm

Hà Thượng Nhân họa :

Thơ “chường” thật chẳng kém thơ “nường”
Ta cúi đầu xưng bậc đại nương
Lưu lạc vẫn tươi màu bút mực
Cô đơn càng thắm vẻ Quê Hương
Ngày xưa cụ Quách xây tân mộng
Nay đến bà Thu dệt cẩm chương
Ðồng ý với anh chàng Tú Lắc
Thơ ai trác tuyệt vị thơ Ðường

Hà.Thượng Nhân.

huệ thu đăng ngày 12/17/08 - 11:25 PM
huệ thu phụng họa :

Làm khó làm chi cái vận nường
Ta đâu xứng đáng bậc thi nương
Bởi vì ông Tú khoe tài Lắc
Mình cũng đua đòi dậm chút hương
Một chữ Huệ Thu dù đã cũ
Mấy phen vì thiếp tạ văn chương
Lấp cho đủ bộ năm vần cũ
Ðúng luật hay không cũng cứ Ðường ...

huệ thu
Kính gửi chị Huệ Thu , Lão Tiên Sinh Quách Tấn những bài thơ họa của donghoa NCH
Hue Thu Nov 17, 2012
Kính gửi chị Huệ Thu , Lão Tiên Sinh Quách Tấn những bài thơ họa của donghoa NCH
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Thế gian rồi sẽ ra sao

Kiếp người biết sẽ ra sao nhỉ ?
Cõi thế giờ đây mất chữ tình
Xã hội nhiễu nhương như sắp mất
Những ngày vui vẻ khó hồi sinh
Dằn lòng có nén lời di nguyện
Đấm ngực để quên tiếng thệ minh
Nhìn cảnh nam san chìm máu lửa
Lệ đâu ướt rũ trái tim mình

đông hòa NCH
16.10.2010

(*)Biết có ai thương

Cõi sống nhìn quanh chẳng thấy ai
Bạn xưa xa cách mấy năm dài
Canh khuya tôi đợi nghe sầu thức
Giấc ngủ hồn vay thấy cảm hoài
Bến cũ người tìm trăng quá vãng
Phương xa bước muộn mộng hoài lai
Cô đơn trong biển đời ly loạn
Biết có ai thương kẻ bất tài

đông hòa NCH
16.10.2010
Một vài cảm nghĩ
Hue Thu Nov 17, 2012
Một vài cảm nghĩ
Quang Hy Oct 16, 2010 xóa
Lần đầu tiên tôi nghe thơ Quách Tấn là lúc tôi trọ học ở nhà giáo sư Trần Bất ở Đà Lạt. Năm đó tôi mới 11 tuổi. Nhà giáo sư Bất ở ấp Đa Thuận, ngay bên cạnh trường Chiến Tranh Chính Trị. 1 số giảng viên của trường thường ra nhà giáo sư Bất để đàm luận thơ văn và nhờ đó mà tôi được nghe câu "Từ Ô Y Hạng rủ rê sang..."
Sau này lớn hơn 1 chút bắt đầu biết đọc thơ thì thực sự tôi không thích thơ Đường luật vì sự gò bó cua nó, và có lẹ vì vậy tôi không thích thơ Quách Tấn. Cho đến một ngày khi đọc bài Khúc Giang của Đỗ Phủ tôi mới biết là thơ Đường luật hay. Rồi sau này khi bắt đầu tập làm thơ thì lại càng phục những thi nhân biết làm thơ luật hơn nữa, vì thực sự cho tới giờ tôi vẫn chưa biết làm.
Đọc xong những bài thơ của cụ Quách Tấn và của Bà Huệ Thu, tôi thực sự bái phục tài năng của hai vị. Không dám phê bình thơ của cụ Quách Tấn, tôi chỉ muốn nói lên cảm nghĩ riêng của mình. Thơ của Huệ Thu nhẹ nhàng hơn, có lẽ vì chị là phụ nữ, đồng thời thơ của Huệ Thu chứa nhiều tình hơn vì thế dễ làm người đọc rung động hơn. Có lẽ vì tôi sống trong1 thời đại phóng khoáng hơn lãng mạn hơn nên có cảm nghĩ như vậy chăng. Cẩn Bút. Quang Hy
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
nhờ sửa Cực khổ trăm năm khổ lắm rồi / Cực khổ trăm năm xót lắm rồi

cảm ơn
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Buồn xuân lạc xứ

Quê hương lạc bước sống ngàn nơi
Một nỗi buồn thương khó mỉm cười
Tết đến cõi lòng mang dấu tích
Thu về tâm trí hóa hòn xôi
Phong ba số kiếp sầu chi nữa
Cực khổ trăm năm khổ lắm rồi
Chốn cũ ai tìm xin chớ đợi
Bởi vì tôi chẳng thể về xuôi...

Đông Hòa NCH
16.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Mùa xuân thương nhớ

Biển chiều ngọn sóng vẫn còn mê
Có phải chờ ai bước trở về
Tôi cố ngậm lòng quên tiếng hỏi
Tay ghì nén bút thả câu đề
Giang san một cõi tình chưa dứt
Biển cả ngàn thu giấc đã phê
Lầm lũi một mình đêm thương nhớ
Mùa xuân ngày cũ biết đâu tề

đông hòa NCH
16.10.2010
Kính gửi chị Huệ Thu , Lão Tiên Sinh Quách Tấn những bài thơ họa của donghoa NCH
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Thế gian rồi sẽ ra sao

Kiếp người biết sẽ ra sao nhỉ ?
Cõi thế giờ đây mất chữ tình
Xã hội nhiễu nhương như sắp mất
Những ngày vui vẻ khó hồi sinh
Dằn lòng có nén lời di nguyện
Đấm ngực để quên tiếng thệ minh
Nhìn cảnh nam san chìm máu lửa
Lệ đâu ướt rũ trái tim mình

đông hòa NCH
16.10.2010

(*)Biết có ai thương

Cõi sống nhìn quanh chẳng thấy ai
Bạn xưa xa cách mấy năm dài
Canh khuya tôi đợi nghe sầu thức
Giấc ngủ hồn vay thấy cảm hoài
Bến cũ người tìm trăng quá vãng
Phương xa bước muộn mộng hoài lai
Cô đơn trong biển đời ly loạn
Biết có ai thương kẻ bất tài

đông hòa NCH
16.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp
Hue Thu Nov 16, 2012
Nguyễn Chí Hiệp Oct 17, 2010 xóa
(*)Thương gửi tình xưa

Chiều mưa ngọn gió cũng quay lơ
Song cửa rèm thưa khép nhẹ hờ
Có phải nàng xuân sầu ngấn lệ
Hay là thiếu phụ nhớ con thơ
Bao năm ấp ủ tình duyên mộng
Một thuở mong chờ chuyện tóc tơ…
Trót lỡ nửa đời hương phấn nhạt
Thương nào gửi mãi tiếng âu ờ

đông hòa NCH
17.10.2010


(*)Tương tư

Nàng hoa sắp nở đón xuân rồi
Nhẹ lắm bên đường nắng khẽ bôi
Em đến má hồng tôi đã gặp
Mơ về áo tím mộng chưa nguôi
Đêm sang nỗi nhớ tình chung lối
Sớm lại đời mong sẽ có đôi
Khắc khoải trái tim nghe thổn thức
Cho nên miệng cũng khó tươi cười

đông hòa NCH
17.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Thương người xa xứ

Nhắm mắt tìm theo khúc nhạc ngân
Tâm tư giây phút bỗng trôi dần...
Trăm năm thấp thoáng tình vừa hết
Ngày tháng lân la đất đã gần
Xót phận rong chân đời lẻ bóng
Thương ai xa xứ buổi đầu xuân
Bây giờ sương ướp đầy trên tóc
Nỗi nhớ người xưa gấp vạn lần

Đông Hòa NCH
17.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Chốn cũ tình xa
(thuận nghịch độc)

Xa rời cảnh cũ chốn thương sầu
Bước muộn đêm về nhớ cuối thu
Ngà bóng trăng khuya mờ ngõ dưới
Xám vầng mây lạnh khuất sương đầu
Hoa rơi cánh rũ hồn vương vấn
Nụ úa mai tàn lệ gửi đâu
Hòa nhạc ý xuân vườn trúc liễu
Ca lời khẽ vọng tiếng ngâm câu

Đông Hòa NCH
17.10.2010
Một vài cảm nghĩ
Quang Hy Oct 16, 2010 xóa
Lần đầu tiên tôi nghe thơ Quách Tấn là lúc tôi trọ học ở nhà giáo sư Trần Bất ở Đà Lạt. Năm đó tôi mới 11 tuổi. Nhà giáo sư Bất ở ấp Đa Thuận, ngay bên cạnh trường Chiến Tranh Chính Trị. 1 số giảng viên của trường thường ra nhà giáo sư Bất để đàm luận thơ văn và nhờ đó mà tôi được nghe câu "Từ Ô Y Hạng rủ rê sang..."
Sau này lớn hơn 1 chút bắt đầu biết đọc thơ thì thực sự tôi không thích thơ Đường luật vì sự gò bó cua nó, và có lẹ vì vậy tôi không thích thơ Quách Tấn. Cho đến một ngày khi đọc bài Khúc Giang của Đỗ Phủ tôi mới biết là thơ Đường luật hay. Rồi sau này khi bắt đầu tập làm thơ thì lại càng phục những thi nhân biết làm thơ luật hơn nữa, vì thực sự cho tới giờ tôi vẫn chưa biết làm.
Đọc xong những bài thơ của cụ Quách Tấn và của Bà Huệ Thu, tôi thực sự bái phục tài năng của hai vị. Không dám phê bình thơ của cụ Quách Tấn, tôi chỉ muốn nói lên cảm nghĩ riêng của mình. Thơ của Huệ Thu nhẹ nhàng hơn, có lẽ vì chị là phụ nữ, đồng thời thơ của Huệ Thu chứa nhiều tình hơn vì thế dễ làm người đọc rung động hơn. Có lẽ vì tôi sống trong1 thời đại phóng khoáng hơn lãng mạn hơn nên có cảm nghĩ như vậy chăng. Cẩn Bút. Quang Hy
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
nhờ sửa Cực khổ trăm năm khổ lắm rồi / Cực khổ trăm năm xót lắm rồi

cảm ơn
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Buồn xuân lạc xứ

Quê hương lạc bước sống ngàn nơi
Một nỗi buồn thương khó mỉm cười
Tết đến cõi lòng mang dấu tích
Thu về tâm trí hóa hòn xôi
Phong ba số kiếp sầu chi nữa
Cực khổ trăm năm khổ lắm rồi
Chốn cũ ai tìm xin chớ đợi
Bởi vì tôi chẳng thể về xuôi...

Đông Hòa NCH
16.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Thương mùa xuân cũ

Hôm nay lại thấy cảnh xuân sang
Tâm trí hình như sớm buộc ràng...
Nhắm mắt giữa bình minh nhẹ thoáng
Nhập lòng trong ảo ảnh mê màng
Xa xa vẫn đó chòm mây bạc
Vi vút đâu đây giấc mộng vàng
Chậm rãi lụy tình tôi ứa mãi
Xót thương ngày cũ nỗi sầu mang

Đông Hòa NCH
16.10.2010
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Mùa xuân thương nhớ

Biển chiều ngọn sóng vẫn còn mê
Có phải chờ ai bước trở về
Tôi cố ngậm lòng quên tiếng hỏi
Tay ghì nén bút thả câu đề
Giang san một cõi tình chưa dứt
Biển cả ngàn thu giấc đã phê
Lầm lũi một mình đêm thương nhớ
Mùa xuân ngày cũ biết đâu tề

đông hòa NCH
16.10.2010
Kính gửi chị Huệ Thu , Lão Tiên Sinh Quách Tấn những bài thơ họa của donghoa NCH
Nguyễn Chí Hiệp Oct 16, 2010 xóa
(*)Thế gian rồi sẽ ra sao

Kiếp người biết sẽ ra sao nhỉ ?
Cõi thế giờ đây mất chữ tình
Xã hội nhiễu nhương như sắp mất
Những ngày vui vẻ khó hồi sinh
Dằn lòng có nén lời di nguyện
Đấm ngực để quên tiếng thệ minh
Nhìn cảnh nam san chìm máu lửa
Lệ đâu ướt rũ trái tim mình

đông hòa NCH
16.10.2010

(*)Biết có ai thương

Cõi sống nhìn quanh chẳng thấy ai
Bạn xưa xa cách mấy năm dài
Canh khuya tôi đợi nghe sầu thức
Giấc ngủ hồn vay thấy cảm hoài
Bến cũ người tìm trăng quá vãng
Phương xa bước muộn mộng hoài lai
Cô đơn trong biển đời ly loạn
Biết có ai thương kẻ bất tài