Apr 24, 2024

Đường thi Trung Quốc

Chính Khí Ca (Văn Thiên Tường - 文天祥, Trung Quốc)
Văn Thiên Tường (文天祥) - 1236 -1283) * đăng lúc 03:14:03 AM, Jan 06, 2024 * Số lần xem: 6520
Hình ảnh
#1

正氣歌

天地有正氣,
雜然賦流形,
下則為河岳,
上則為日星,
於人曰浩然,
沛乎塞蒼冥,
皇路當清夷,
含和吐明庭,
時窮節乃見,
一一垂丹青。
在齊太史簡,
在晉董狐筆,
在秦張良椎,
在漢蘇武節,
為嚴將軍頭,
為嵇侍中血,
為張睢陽齒,
為顏常山舌,
或為遼東帽,
清操厲冰雪,
或為出師表,
鬼神位壯烈,
或為渡江楫,
慷慨吞胡羯,
或為擊賊笏,
逆豎頭破裂。
是氣所磅礡,
凜烈萬古存,
當其貫日月,
生死安足論,
地維賴以立,
天柱賴以尊,
三綱實系命,
道義為之根。
嗟予遘陽九,
隸也實不力,
楚囚纓其冠,
傳車送窮北,
鼎鑊甘如飴,
求之不可得,
陰房闃鬼火,
春院閟天黑,
牛驥同一皂,
雞棲鳳凰食,
一朝蒙霧露,
分作溝中瘠,
如此再寒暑,
百沴自僻易,
哀哉沮洳場,
為我安樂國,
豈有他謬巧,
陰陽不能賊,
顧此耿耿在,
仰視浮雲白,
悠悠我心憂,
蒼天曷有極!
哲人日已遠,
典刑在夙昔,
風簷展書讀,
古道照顏色。

 

Bài "Chính khí ca" cũng là một tác phẩm hết sức nổi tiếng của ông, được Văn Thiên Tường làm khi đang ở trong nhà tù của quân Nguyên.

Chính khí ca
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thượng tắc vi nhật tinh
Ư nhân viết "hạo nhiên"
Bái hồ tắc thương minh
Hoàng lộ đương thanh di
Hàm hòa thổ minh đình
Thời cùng tiết nãi hiện
Nhất nhất thùy đan thanh
Tại Tề thái sử giản
Tại tấn Đổng Hồ bút
Tại Tần Chu Hợi truỳ
Tại Hán Tô Vũ tiết
Vi Nghiêm tướng quân đầu
Vi Kê thị trung huyết
Vi Trương Thư Dương xỉ
Vi Nhan Thường Sơn thiệt
Thanh tháo lệ băng tuyết
Hoặc vi Xuất Sư Biểu
Quỉ thần khấp tráng liệt
Hoặc vi độ giang tiếp
Khẳng khái thôn hồ yết
Hoặc vi kích tặc hốt
Nghịch thụ đầu phá liệt
Thị khí sở bàng bạc
Lẫm liệt vạn cổ tồn
Đương kỳ quán nhật nguyệt
Sinh tử an túc luân
Địa duy lại dĩ lập
Thiên trụ lại dĩ tồn
Tam cương thực hệ mệnh
Đạo nghĩa vi chi căn
Ta dư cấu dương cửu
Lệ dã thực bất lực
Sở tù anh kỳ quan
Truyện xa tống cùng bắc
Đỉnh hoạch cam như di
Cầu chi bất khả đắc
Âm phòng niết quỉ hỏa
Xuân viện bí thiên hắc
Ngưu ký đồng nhất tạo
Kê thê phụng hoàng thực
Nhất triêu mông vụ lộ
Phân tác câu trung tích
Như thử tái hàn thử
Bách lệ tự tích dịch
Ai tai tự như trường
Vi ngã an lạc quốc
Khởi hữu tha cù xảo
Âm dương bất năng tặc
Cố thử cảnh thảm bại
Ngưỡng thị phù vân bạch
Du du ngã tâm bi
Thương thiên hạt hữu cực
Triết nhân nhật dĩ viễn
Điển hình tại túc tích
Phong diêm triển thư độc
Cổ đạo chiếu nhan sắc
Bài ca chính khí
Bản dịch: Hoàng Tạo

Trời đất có chính khí
Tỏa ra cho muôn loài
Là sông núi dưới đất
Là trăng sao trên trời
Đầy rẫy cả vũ trụ
Khí hạo nhiên của người
Gặp cảnh đời bình trị
Triều thịnh vang lời vui
Khi cùng, tiết tháo rõ
Sử xanh ghi đời đời.
Ở Tề, sách Thái Sử
Ở Tấn, bút Đổng Hồ
Ở Tần, chùy Bác Lãng
Ở Hán, cờ họ Tô
Đầu Nghiêm thách trước giặc
Máu Kê trên áo vua
Răng Trương công chửi địch
Lưỡi Kiều Khanh mắng thù.
Hoặc là mũ Liêu Đông
Vẻ băng tuyết phau phau
Hoặc là biểu "Ra quân"
Lẫm liệt quỷ thần sầu
Hoặc qua sông gõ nhịp
Khảng khái nuốt quân Hồ
Hoặc giật hốt đánh giắc
Phường tiếm nghịch toang đầu.
Khi ấy tràn ngập tới
Oai nghiêm muôn thuở còn
Khi đã vượt nhật nguyệt
Sống thác chuyện con con!
Khuôn đất nhờ đó vững
Cột trời nhờ đó còn
Ba giường được gìn giữ
Đạo nghĩa có gốc nguồn.
Xót ta gặp vận ách
Tướng sĩ thực hèn nhát
Dải mũ buộc thân tù
Xe chở lên cực bắc
Ninh nấu cũng cam lòng
Còn để ta mong mãi
Phòng sâu ma lập lòe
Viện xuân thành ngục tối!
Ngựa giỏi nhốt cùng trâu
Chuồng gà, phượng nhặt thóc
Thân này khi gió sương
Đành rãnh ngòi lăn lóc
Thế mà hai năm qua
Tránh xa bao khí độc
Thương ôi! Chỗ lội lầm!
Lại sống yên tối sớm
Phải đâu khôn khéo gì
Âm dương không dám phạm
Vằng vặc tấm cô trung
Ngẩng nhìn mây trắng nổi
Buồn thay! Nỗi lòng ta
Trời xanh cao vời vợi!
Thánh hiền khuất lâu rồi
Khuôn phép vẫn không mất
Hiên gió mở sách coi
Gương xưa soi trước mặt.

Bản dịch: Quốc Thái

Trời đất có khí chính
Phân hình thể khác nhau
Dưới hóa ra sông núi
Trên biến thành trời sao
Nơi người, "Hạo Nhiên" khí
Dâng tỏa khắp trời xanh
Gặp lúc thanh bình chỉ
Êm đềm và trọn lành
Khốn cùng mới rõ tiết
Thảy trọn nét đan thanh
Sử Tề ghi thẻ thắm
Bút Ðổng Hồ lưu danh
Trùy Trương Lương rửa hận
Cờ Tô Vũ dãi dầu
Ðầu Nghiêm Nhan bất khuất
Máu Kê Thiệu đẫm bào
Răng Thư Dương mắng giặc
Lưỡi Thương Sơn không sờn
Mũ Liêu Ðông ẩn sĩ
Trong sạch, tuyết không hơn
Khi là Xuất Sư Biểu
Hào khí cảm quỷ thần
Khi mái chèo Tổ Ðịch
Quyết thề chôn quân Hồ
Khi là hốt đánh giặc
Ðầu phản nghịch vỡ rời
Khắp nơi nơi, bàng bạc
Khí lẫm liệt muôn đời
Khi khí tràn nhật nguyệt
Cuộc tử sinh nhẹ hời
Khí dựng nên giềng đất
Khí làm cao cột trời
Tam cương là sinh mạng
Ðạo nghĩa là cội nguồn
Ta, lúc lâm nguy khốn
Bộ hạ chẳng ra hồn
Nên tù binh cam phận
Bị giải tận bắc phương
Vạc dầu sôi vị ngọt
Cầu mãi, trời không thương
Phòng giam ngập lửa quỉ
Viện xuân che tối trời
Bò, ngựa ăn chung máng
Phượng, gà nay sánh đôi
Chịu sương mù một sáng
Trong rạch thành sương khô
Trải hai mùa nắng lạnh
Trăm bệnh vẫn chưa vô
Thương thay, chốn ẩm thấp
Là nơi ta yên vui
Nào phải lo né bệnh
Tử thần sao chẳng mời ?
Lòng vẫn còn trong sáng
Trông mây trắng nổi trôi
Lòng thấy buồn man mác
Hiểu ta không, trời ơi !
Triết nhân ngày lại vắng
Gương xưa giờ im hơi
Gió bên hiên mở sách
Ðạo xưa soi mặt người

Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê (không đầy đủ)

Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh.
Tại người là hạo nhiên
Vũ trụ đầy anh linh
Khí hoà nhả trước sân
Là gặp lúc thanh bình
Thời cùng cao tiết hiện
Nhất nhất ghi sử xanh.
Ở Tấn, bút Đổng Hồ
Ở Tề, thẻ thái sử
Ở Tần, dùi Trương Lương
Ở Hán, cờ Tô Vũ
Là đầu Nghiêm tướng quân
Là huyết Kê thị trung
Là răng Trương Tuy Dương
Là lưỡi Nhan Thường Sơn
Hoặc là mão Liêu Đông
Tiết trong hơn băng, tuyết.
Hoặc là biểt xuất sư
Quỷ thần khóc tráng liệt
Hoặc gõ chèo qua sông
Khẳng khái nuốt rợ Hiệt
Cầm hốt đập bể sọ
Nghịch tặc phải rên siết.
Khi ấy nó bàng bạc
Lẫm liệt vạn cổ còn

Một chút lịch sử :
Tống vong tam kiệt (Nguyễn Hiến Lê – Sử Trung Quốc)
Quân Mông Cổ vào được Lâm An, bắt được Cung đế, thái hậu và mấy ngàn người đưa lên phương Bắc (1276)
Bọn di thần là Lục Tú Phu (tể tướng), Trương Thế Kiệt tôn vua Đoan Tôn lên ngôi, đưa xuống Phúc Kiến. Văn Thiên Tường đốc suất nghĩa quân chống Mông Cổ, mấy lần đều thua.
Năm 1277 Trương Thế Kiệt dắt Đoan Tôn xuống Quảng Đông, năm sau Đoan Tôn chết ở Can Châu (Quảng Đông). Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu lại lập em là Quảng Vương lên thay, đưa ra đảo Nhai Sơn (Quảng Đông). Mông Cổ bắt được Văn Thiên Tường rồi, tiến đánh Nhai Sơn. Không thể chống cự được nữa. Lục Tú Phu cầm kiếm xua hết cả vợ con phải gieo mình xuống biển, rồi cõng vua nhảy xuống theo (1279). Theo một học giả Nhật là Trung Sơn Cửu Tú Lang làm thống kê thì số trung thần nghĩa sĩ tử tiết là 274 người. Có người còn bản rằng hàng trăm người Trung Hoa noi gương đó cũng tự trầm mình chứ không chịu hàng Mông Cổ.
Trang sử cuối cùng của nhà Tống đó bi thảm nhất mà cũng vẻ vang nhất. Có thể nói là trang sử vẻ vang duy nhất của triều đình nhà Tống.
Văn Thiên Tường bị bắt về Yên Kinh, Trương Thế Kiệt vẫn chưa tuyệt vọng, dò đường thuỷ qua Việt Nam, mưu sự khôi phục. Nhưng giữa đường gặp bão, thuyền chìm, chết.
Văn Thiên Tường bị giam bốn năm ở Yên Kinh, Hốt Tất Liệt dụ dỗ ông, ông nhất định không chịu nhận uy quyền của vua Nguyên. Tôi chép lại dưới đây đoạn Will Durant khen khí tiết của ông.
"Trong một đoạn văn vào hàng nổi danh nhất của Trung Hoa, Văn Thiên Tường viết: "Ngục của tôi chỉ có hai con ma trơi chiếu sáng, không một ngọn gió nào thổi vào chỗ tối tăm, tịch liêu này cả.....Sống trong sương mù và trong không khí ẩm thấp, tôi thường nghĩ rằng sắp chết tới nơi, vậy mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lảng vảng chung quanh tôi. Riết rồi tôi thấy cái ngục nền đất ẩm thấp, hôi hám này là một cảnh thiên đường. Vì thế mà tôi giữ vững được ý chí, ngắm mây trắng trôi trên đầu mà lòng buồn mênh mông như vòm trời vậy"
"Sau cùng Hốt Tất Liệt sai người dẫn ông tới trước mặt mình hỏi: "Ngươi muốn gì" Văn Thiên Tường đáp: "Thiên Tường này đội ơn nhà Tống mà được làm tể tướng thì sao có thể thờ hai nhà được, ta chỉ xin được chết thôi". Hốt Tất Liệt chấp nhận. Khi lưỡi búa của tên đao phủ hạ xuống, ông quay mặt về Nam Kinh, như thể vua Tống còn ở đó, mà vái dài".
Will Durant chê hành động đó của Hốt Tất Liệt là "man rợ". Mấy hàng "nổi danh nhất" của Văn Thiên Tường. Will đã dẫn ở trên ít người được biết, nhưng bài chính khí ca của ông "tráng liệt như cầu vồng vắt ngang trời, mỗi lần ngâm lên thấy máu sôi trong lòng", nghe như một bài tiến quân ca, thì nhà nho Trung Hoa, Việt Nam thời xưa không ai không thuộc nó các vị như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Nguyễn Trung Trực......của ta tất đã nhiều đêm vung bảo kiếm, nhìn ngân hà mà ca:

Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thượng tắt vi nhật tinh......
(Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh......

Bài này tôi đã trích dịch trong Đại cương văn học sử Trung Quốc, cuốn III, trang 58 )
Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu được đời sau gọi là Tống vong tam kiệt (Ba hào kiệt thời Tống mất nước) . Có ba vị đó với Nhạc Phi, Tống cũng đỡ tủi..

Ảnh hưởng của Văn Thiên Tường trong thơ ca Việt Nam:

Bài "Chính Khí Ca" đã được nhiều kẻ sĩ VN thưởng thức, ái mộ. Vào năm 1882 khi thành Hà Nội thất thủ, Tổng Ðốc Hoàng Diệu tự tử. Nhà thơ Nguyễn Văn Giai đã lấy cảm hứng từ bài "Chính Khí Ca" ngày xưa để làm thành một bài "Hà Thành Chính Khí Ca" thương tiếc, có những câu như sau:
...
Chữ trung còn chút con con
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao, bể rộng, đất dày
Núi Nùng, Sông Nhị chốn này còn ghi
...
Và bài thơ sau:


Quá Linh Ðinh Dương Văn Thiên Tường Trần Trọng San dịch

Đây là bài gốc có câu này của Văn Thiên Tường:

Văn Thiên Tường còn là một nhà thơ, nhà văn. Văn chương ông có lời lẽ khảng khái, hào hùng của kẻ sĩ trong thời nước nhà lâm nạn. Khí tiết của Văn Thiên Tường ảnh hưởng rất nhiều đến sĩ phu đời sau. Hai câu thơ:

人生自古誰無死
留取丹心照汗青
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Xưa nay hỏi có ai không chết?
Hãy để lòng son chiếu sử xanh

đã được Nguyễn Công Trứ dùng trong bài hát nói "Chí Nam Nhi" nổi tiếng của mình:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu

Đây là bài gốc có câu này của Văn Thiên Tường:

Quá Linh Đinh Dương
Tân khổ tao phùng khởi nhứt kinh,
Can qua liêu lạc tứ châu tinh.
Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,
Thân thế phù trầm vũ đả bình.
Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng,
Linh Đinh dương lý thán linh đinh.
Nhân sanh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Qua biển Lênh Đênh
Cay đắng do từ một sách kinh
Bốn năm quạnh quẽ cảnh đao binh
Bông tung gió: vỡ tan sông núi
Gió đập bèo: chìm nổi kiếp mình
Ghềnh Sợ Hãi kể niềm sợ hãi
Biển Lênh Đênh than nỗi lênh đênh
Xưa nay hỏi có ai không chết
Hãy để lòng son chiếu sử xanh

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.