QUAN SAN NGUYỆT,
THƠ LÝ BẠCH (701 - 762)

關山月

明月出天山,
蒼茫雲海間。
長風幾萬里,
吹度玉門關。
漢下白登道,
胡窺青海灣。
由來征戰地,
不見有人還。
戍客望邊色,
思歸多苦顏。
高樓當此夜,
歎息未應閑。

Quan san nguyệt

Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán hạ Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.

DỊCH THƠ:

TRĂNG QUAN SAN

Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
                               
                    TẢN ĐÀ dịch

TRĂNG NƠI QUAN ẢI

Thiên San nhô trăng sáng
Biển xanh ánh mây ngàn
Gió lùa trăng vạn dặm
Trẩy đến Ngọc Môn quan
Bạch Đăng quân Hán đóng
Hồ dòm Thanh Hải loan
Xưa nay vào chiến địa
Mấy ai về an toàn..!!
Chinh phu ngùi đối cảnh
Nhớ nhung ánh mắt tràn
Đương khi bên lầu vắng
Chinh phụ rầu... thở than..!!

NGUYỄN MINH THANH cảm dịch


LIÊN HỆ CHIẾN TRANH VIỆT NAM :

XÓT DẠ TRÙNG TRÙNG

Ba mươi năm binh lửa điêu tàn
Cây rừng không đủ chít khăn tang
Triệu người vượt biển tìm đường sống
Sông núi ngoảnh nhìn hoạ Bắc phang..!!
                                     
                             NGUYẼN MINH THANH