CỔ THI, NHỮNG BÀI THƠ LIÊN HỆ MÙA  XUÂN
                                
NGUYỄN MINH THANH sưu tầm & dịch

 
           Từ cổ chí kim, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; có lẽ Xuân và Thu là hai mùa gieo nhiều cảm hứng nhứt cho thi nhân. Nhân mùa Xuân sắp tơí, mời đồng cảnh, đồng hương cùng nhau thưởng lãm những bài thơ Xuân, hoặc có liên quan đến mùa Xuân của cổ nhân. Theo trình tự thời gian, chúng ta lần lượt điểm qua 8 thi nhân Trung quốc và 9 thi nhân Việt Nam ( kể từ Sư Mãn Giác.......):Trần Đào, Thôi Hộ,Vương Xương Linh, Đỗ Phủ,Bạch Cư Dị, Trịnh Cốc, Đỗ Mục, Sư Mãn giác, Trần Quang Khải, Sư Huyền Quang, Trần Nhân Tôn, Chu Văn An, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Trãi,Hải Thượng Lãn Ông,  Nguyễn Du .

1=/ TRẦN ĐÀO,không rõ năm sanh, tử.Ông sống vào đời Hậu hán, với bài Lũng Tây Hành, cực kỳ xót xa cho con  người thời chiến tranh. Người xông trận mạc điêu tàn, mà người chốn khuê phòng cũng vô vàn đau khổ:

     LŨNG TÂY HÀNH

Thệ tử Hung Nô bất cố thân
Ngủ thiên điêu cẩm* táng Hồ trần
Khả liên Vô Định** hà biên cốt
Do thị Xuân khuê mộng lý nhân
   TRẦN ĐÀO

* Áo mặc bằng da điêu thử ( loại chuột to ) cho ấm.
**Điạ danh, tên con sông hay thay đổi dòng ( vô định ), cũng là chiến trường xưa.

   HÀNH QUÂN VÀO LŨNG TÂY

Ra đi quyết diệt lũ Hung Nô
Điêu cẩm năm ngàn chôn đất Hồ
Vô Định xót thương xương cốt rụi
Xuân phòng thiếu phụ vẫn hoài mơ..!!
         NGUYỄN MINH THANH dịch

   HÀNH QUÂN VÀO LŨNG TÂY

Ra đi quyết diệt Hung Nô
Năm ngàn chiến sĩ đất Hồ mạng vong
Đống xương Vô Định mênh mông
Xuân phòng thiếu phụ mộng trông người về..!!
         NGUYỄN MINH THANH  cảm dịch

2=/ THÔI HỘ , vào đời Đường , không rõ năm sanh, tử; tên chữ Ân Công, làm chức Lĩnh Nam Tiết Độ sứ.Ông có bài thơ rất nỗi tiếng là bài ĐềTích Sở Kiến Xứ.Chuyện xưa chép: Thôi Hộ, một hôm du Xuân, ngang qua trang viện, thấy bên trong rào thấp thoáng bóng giai nhân lẫn với hoa đào đang rộ nở;Ông vờ xin nước uống.Người đẹp đem cho, từ gĩa. Năm sau, cũng đúng ngày gặp giai nhân, Ông lại du xuân.Khi ngang qua nhà người đẹp năm xưa, nhìn mãi không thấy bóng hồng, chỉ có hoa đào phơ phất y như mùa xuân trước.Buồn tình, Ông viết bài thơ rồi cài lên cổng rào.Người đẹp từ quê ngoại trở về đọc bài thơ, thất tình, sinh bịnh ,chết...!!!. Ngay đang khi liệm xác người ngọc, Thôi Hộ đến, tỏ rõ nguồn cơn, Ông xin phép gia chủ cho ông khấn nguyện đôi lời..!! Lạ thay sau khi Ông khấn xong ,người đẹp tỉnh dậy. Nghĩ rằng thiên duyên tiền định, gia đình cho phép hai người kết hợp phu thê! Tuyệt diệu..!! Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, lúc Kim Trọng thọ tang chú, từ Liêu Dương trở về tìm lại nhà cũ thăm Thúy Kiều có câu:
                          Trước sau nào thấy bóng người
                          Hoa đào năm ngoái còn cười gío đông

          Chính là điển tích này. Ngoài ra các sách chưa thấy bài thơ nào khác của ông.Và sau đây là bài:

   ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
          THÔI HỘ

ĐỀ CHỖ THẤY NĂM TRƯỚC

Cửa này năm ngoái cũng hôm nay
Hồng thắm đào hoa chen má ai
Người ngọc bây giờ đâu chẳng thấy
Hoa đào vẫy gío vẫn cười say.
        NGUYẼN MINH THANH dịch

ĐỀ CHỖ THẤY NĂM TRƯỚC (lục bát)

Cửa này năm ngoái hôm nay
Hoa đào chen với má ai ửng hồng
Bây giờ nơi cửa vắng không
Hoa đào vẫn vẫy gío đông mỉm cười
                    NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

3=/ VƯƠNG XƯƠNG LINH (694 - 756), tự là Thiếu Bá, đời Thịnh Đường, thơ ông rất trao chuốt, hàm xúc, ít từ nhiều ý, như bài KHUÊ OÁN, chứa nỗi buồn mênh mang của thiếu phụ bên thúy lâu chợt nhớ chồng.                                    

 KHUÊ OÁN

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
VƯƠNG XƯƠNG LINH

 NỖI BUỒN CHỐN KHUÊ PHÒNG

Phòng the thiếu phụ biết chi sầu
Trang điểm ngày xuân lên thúy lâu
Chợt thấy đầu đường dương liễu sắc
Tiếc để chồng đi kiếm tước hầu..!!
NGUYỄN MINH THANH dịch

NỖI BUỒN CHỐN KHUÊ PHÒNG

Phòng the thiếu phụ chẳng sầu
Ngày xuân trang điểm thượng lầu hoài mơ
Đầu đường liễu rũ lơ thơ
Anh tìm ấn tước em ngơ ngẩn hồn...
          NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

4=/ LÝ BẠCH (701 - 762), tự Lý Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, mẹ ông người Hồ, nên ông cũng rất thông chữ Hồ. Mười hai tuổi đã biết làm thơ... Càng lớn lên càng lừng lẫy tiếng tâm về thi tài.Chuyện chép, một đêm Ông nằm mơ thấy ngòi bút( bút lông ) của ông đang viết tự dưng nở hoa. Kể từ ấy thơ Ông càng trác tuyệt; đặc biệt là càng uống rượu thơ càng hay..!! Sau có người tiến cử, vua Huyền Tông tức Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi trọng dụng, được ba năm thì ông từ quan và ngao du sơn thủy. Nhà vua rất qúi ông, nên trước khi gĩa biệt cho phép ông uống rượu miễn phí, bất cứ quán xá nào cũng đều được qui vào công khố...

Rồi lại làm quân sư cho phản vương, nhờ có người cứu cho khỏi tội chết, bị đi đày. Sau cùng , sống nhờ nhà người anh họ ở Đang Đồ và qua đời vì bịnh. Có người cho rằng ông say rượu rồi nhảy xuống sông Thái Bạch ôm trăng mà chết..!!
Thơ của ông thì nhiều, nhiều lắm, ở đây xin đan cử vài bài:

    XUÂN TỨ

Yên thảo như bích ty
Tằm tang đê lục chi
Đương quân hoài qui nhật
Thị tiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi?
              LÝ BẠCH

    Ý XUÂN

Cỏ Yên biếc màu tơ
Dâu Tần xanh mịt mờ
Khi chàng mong trở lại
Thiếp sầu nhớ ngẩn ngơ
Gió Xuân nào quen biết
Cớ sao vào trướng thơ?
  NGUYỄN MINH THANH dịch

 XUÂN NHẬT TÚY KHỞI NGÔN CHÍ

Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Sở dĩ chung nhật túy
Đồi nhiên ngọa tiền doanh
Giác lai miên đình tiền
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật?
Xuân phong ngữ lưu oanh
Cảm chi dục thán tức
Đối chi hoàn tự khuynh
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.
LÝ BẠCH

   NGÀY XUÂN SAY RƯỢU TỈNH DẬY NÓI CHÍ MÌNH

Sự đời giấc mộng lớn
Cớ sao lại nhọc nhằn
Nên suốt ngày say khướt
Trước hiên ngủ nằm lăn
Tỉnh dậy ngó ra sân
Trong hoa con chim hót
Bửa nay ngày mấy nhỉ? ( mà )
Chim ca hòa gío Xuân
Tự dưng ta buồn khan
Rồi nghiêng bầu uống nữa
Hát vang chờ trăng sáng
Dứt hát cơn buồn tan.
      NGUYỄN MINH THANH dịch

5=/ ĐỖ PHỦ (712 - 770), đời Đường, còn có tên Đỗ Thập Di, Đỗ Thiếu Lăng...ông nổi tiếng thông minh ngay từ thuở nhỏ. Nhưng cuộc đời ông rất lận đận và rất nghèo. Ông để lại gần hai ngàn bài thơ cho đời. Sau đây là vài bài thơ Xuân của Đỗ Phủ:

     XUÂN VỌNG(1)

Giang bích điểu du bạch
Sơn thanh hoa dục nhiên
Kim Xuân khan hựu quá
Hà nhật phục qui niên
            ĐỖ PHỦ

      XUÂN NHỚ

Sông biếc chim trắng phau
Núi xanh hoa rực rỡ
Mùa xuân đang qua mau
Ngày về ôi năm nào?!
 NGUYỄN MINH THANH dịch

   XUÂN VỌNG(2)

Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn câm (kim)
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trâm.
  ĐỖ PHỦ

   TRÔNG XUÂN

Núi sông còn, nước phá
Xuân về cỏ hoang dã
Cám cảnh hoa rơi lệ
Hận biệt chim biến ca
Ba tháng trời khói lửa
Vạn đồng cánh thư nhà
Đầu bạc tóc thêm ngắn
Trâm cài lại rớt ra..!!
   NGUYỄN MINH THANH dịch

6=/ BẠCH CƯ DỊ (772 - 846), hiệu Hương Sơn cư sĩ, người Thiểm Tây, thuở nhỏ nhà nghèo, đỗ Tiến sĩ làm quan cao đời Đường, sau bị đày làm Tư Mã Giang Châu...
Rồi được trở về kinh đô làm Thái Tử Thiếu Phó (thầy dạy thái tử), và trí sĩ với chức Hình Bộ Thượng Thư.Ông chủ trương thơ văn nên giản dị, dễ hiểu, gắn liền với đời sống hiện thực và phục vụ nhân sinh, cho nên mỗi khi làm xong bài thơ, Ông đọc cho người nhà ( người ở ) nghe.Rồi hỏi có hiểu không, chỗ nào chưa rõ, Ông sửa chữa lại.Đọc thơ Ông lòng chúng ta cảm thán khôn cùng..!! Như: Tần Trung Ngâm, Ông cảm thông nỗi thống khổ của dân nghèo..!! Ông để cho đời hàng ngàn bài thơ, tiêu biểu TRƯỜNG HẬN CA, TỲ BÀ HÀNH...và thơ Xuân là:

   THƯƠNG XUÂN KHÚC

Thâm thiển thiềm hoa thiên vạn chi
Bích la song ngoại chuyển hoàng ly
Tàn trang hà lệ há liêm toạ
Tận nhật thương Xuân Xuân bất tri
                    BẠCH CƯ DỊ

   BÀI CA TIẾC XUÂN

Trước thềm mờ tỏ nở đầy hoa
Mành lụa ngoài song vàng yến ca
Phấn nhạt bên rèm ngồi ứa lệ
Thương Xuân, Xuân hỡi biết chăng là..!!
     NGUYỄN MINH THANH dịch    

XUÂN ĐỀ HỒ THƯỢNG

Hồ thượng Xuân lai tự hoạ đồ
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô
Tùng bày sơn diện thiên trùng thúy
Nguyệt điểm ba tâm nhất khỏa châu
Bích thảm tuyết đầu trừu tảo đạo
Thanh la quần đái triển tân bồ
Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ
Nhất bán câu lưu thị thử hồ
        BẠCH CƯ DỊ

ĐỀ THƠ TRÊN HỒ XUÂN

Xuân đến hồ xuân tranh mượt màu
Lặng im phăng phắc núi vờn bao
Đồi nghiêng lớp lớp tùng lam ngọc
Nước chiếu lung linh nguyệt thúy châu
Thảm biếc trổ bông nương lúa mới
Lụa xanh trải lá đám bồ cao
Hàng Châu lưu luyến chưa từ giã
Phân nửa hồ thương nỗi dạt dào..!!
              NGUYỄN MINH THANH dịch

7=/ TRỊNH CỐC, không rõ năm sinh, thi nhân đời Đường, với bài thơ tiễn bạn trên bến sông:

HOÀI THỦY BIỆT HỮU

Dương Tử giang đầu dương liễu xuân
Dương hoa sầu sát độ giang nhân
Sổ thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu tương ngã hướng Tần
          TRỊNH CỐC

TIỄN BẠN Ở BẾN SÔNG HOÀI

Dương Tử đầu sông dương liễu xuân
Dương hoa da diết khách sang sông
Ly đình sáo muộn buồn trong gío
Anh hướng Tiêu Tương, tôi hướng Tần.
            NGUYỄN MINH THANH dịch `

TIỄN BẠN Ở BẾN SÔNG HOÀI

Đầu sông Dương Tử liễu xuân
Dương hoa da diết ngập ngừng sang sông
Gió đưa sáo muộn não nùng
Tiêu tương bạn hướng tôi trông đường Tần
            NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

8=/ ĐỖ MỤC ( 803 - 852 ), tự MỤC CHI, hiệu Phàn Xuyên, người Thiểm Tây, thuộc quí tộc, người thanh tú, tính tình phóng túng, còn nhỏ ông đã nổi tiếng văn tài. Thơ ông rất ưu thời mẫn thế,nặng lòng với quốc dân. Cũng có những vần thơ lãng mạn, nhưng không suy đồi mà mơ mộng hay thơ mộng và buồn buồn.Có bài Tiếc Xuân:
                           
 TÍẾC XUÂN

Hoa khai hựu hoa lạc
Thời tiết ám trung thiên
Vô kế diên xuân nhật
Hà năng trú thiếu niên
Tiểu tùng sơ tán điệp
Cao liễu  tức văn thiền
Phồn diễm qui hà xứ?
Mãn sơn đề đỗ quyên
     ĐỖ MỤC

 TIẾC XUÂN

Hoa nở rồi tàn hoa
Thời tiết thầm đi qua
Vô kế giữ xuân lại
Không thể kềm tuổi xanh
Tùng nhỏ bướm bay biệt
Liễu cao ve ru cành
Nét xuân ôi về đâu?
Đỗ quyên núi vang sầu..!
     NGUYỄN MINH THANH dịch

9=/ Sư MÃN GIÁC (1052 - 1096), vào đời nhà LÝ (VN), Ông là Thiền sư, trụ trì chùa Giáo Nguyên, thế danh là Nguyễn Trường hay Lý Trường. Trước khi viên tịch ông để lại bài thơ có tính Thiền Tông là:

CÁO TẬT THỊ CHÚNG

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trực nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
               Sư MÃN GIÁC

CÓ BỊNH BẢO MỌI NGƯỜI

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến nở trăm hoa
Sự việc bày trước mắt
Tóc bạc báo tuổi già,
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
     NGUYỄN MINH THANH dịch

Chuyển dần thời tiết mưa qua
Ngẫm ra xót dạ tuổi già hư hao

10=/ TRẦN QUANG KHẢI (1241 - 1294),là con thứ 3 của Trần Thái Tôn, em ruột của vua Trần Thánh Tôn, ông học rông, biết nói nhiều thứ tiếng .Ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương và nắm chức Thái Sư, ông để lại một ít bài thơ; thơ ông chứa hào khí ngất trời của trang dũng tướng như bài Tòng Gía Hoàn Kinh,Xuân Nhật Hữu Cảm... Sau đây là 2 bài Xuân Nhật Hữu Cảm:
 
 XUÂN NHẬT HỮU CẢM  (! )

Vũ bạch phi mai tế nhược ty
Bế môn ngột ngột toạ thư si
Nhị phần xuân sắc nhàn sai quá
Ngũ thập xuy ông dĩ tự tri
Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện
Ân ba hải khoát túng lân trì
Sinh bình đởm khí luân huân tại
Giải đảo đông phong phú nhất thi
                   TRẦN QUANG KHẢI

  NGÀY XUÂN CẢM XÚC

Giăng tơ mưa bụi hoa mai
Thư phòng nghĩ ngợi những ngày đã qua
Sắc xuân phí nửa phần gìa
Tới năm mươi tuổi hiểu ra suy rồi
Nước non mỏi cánh chim trời
Nguồn xưa sông chảy cá bơi ngược dòng
Bình sinh hào khí còn phong
Ngâm thơ át ngọn gió đông ào ào...
              NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

XUÂN NHẬT HỮU CẢM (2)

Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan
Đông phong đặc địa khởi xuân hàn
Phiên không liễu nhứ niêm cao các
Giác mộng Tương quân bốc họa lan
Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ
Kinh tâm hồng thoái tích thì nhan
Khử sầu lại hữu tam bôi tửu
Phủ kiếm du du ức cố san
            TRẦN QUANG KHẢI

NGÀY XUÂN CẢM XÚC (2)

Trăng mơ mờ bóng đêm tan
Đông phong lành lạnh xuân đang trải dài
Gió dìu bông liễu cao bay
Lay cành trúc biếc hiên ngoài âm ba
Chuyển dần thời tiết mưa qua
Ngẫm ra xót dạ tuổi già hư hao
Giải sầu chuốc chén nghêu ngao
Vỗ gươm nhớ thuở ra vào quan san / tử sinh...
             NGUYỄN MINH THANH cảm dịch
   
11=/ Sư HUYỀN QUANG (1251 - 1334), là vị Tổ thứ Ba, dòng Trúc Lâm Yên Tử đời Trần có bài thơ mô tả thiếu nữ mười sáu tuổi xuân vừa thêu gấm vừa ngắm xuân:

    MỘ XUÂN TỨC SỰ

Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh* hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ trì

           Sư HUYỀN QUANG
           * Tên loài hoa

   TỨC CẢNH CUỐI XUÂN

Kiều nữ lơi tay dải gấm thêu
Dưới hoa thánh thót, lắng oanh kêu
Nỗi thương xuân lắm hòa xuân ý
Là lúc ngưng thêu chẳng mở lời.
           NGUYỄN  MINH THANH dịch

12=/ TRẦN NHÂN TÔN, vua thứ 3 Nhà Trần,tên húy là Khâm (1258 - 1308),vị minh quân cùng với ông Trần Quốc Tuấn nhiều lần đánh bại quân Mông Cổ xâm lăng nước ta.

Ông với 3 vai trò: làm vua, làm chiến sĩ, làm thiền sư, cả 3 vai đều xuất sắc. Nên trong thơ Ông hàm chứa chuyện chiến chinh với sĩ binh hùng tráng, đồng thời cũng có ý vị thiền tông :

XUÂN CẢNH

Dương liễu hoa xuân điểu ngữ trì
Hoa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi
          Vua TRầN NHÂN TÔN

 CẢNH XUÂN

Cành liễu hoa xuân chim hót lơi
Mây chiều nghiêng bóng trước thềm khơi
Sự đời khách đến không bàn bạc
Cùng dựa lan can ngắm cảnh trời.
             NGUYỄN MINH THANH dịch

 CẢNH XUÂN ( lục bát )

Cành liễu xuân  chim hót lơi
Mây chiều nghiêng bóng chơi vơi trước thềm
Sự đời hờ hững bỏ quên
Lan can chủ khách kề bên nhìn trời.
              NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

XUÂN NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG

Tì hổ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
               Vua TRẦN NHÂN TÔN

NGÀY XUÂN VIẾNG CHIÊU - LĂNG*

Quân hùm khắp cửa đủ
Văn quan bảy phẩm đông
Bạc đầu người lính cũ
Chuyện kể thời Nguyên Phong**
          NGUYỄN MINH THANH dịch

*Chiêu Lăng:lăng của vua Trần Thái Tôn
**Nguyên Phong:niên hiệu của vua Trần Thái Tôn

13=/ CHU VĂN AN ( ? -- 1370 ), tự là Tiều Ẩn, đậu Thái Học Sinh ,nhưng không ra làm quan, mà ở ẩn và dạy học.Học trò Ông khá đông và có nhiều người làm nên danh phận.Đến đời vua Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử giám Tư nghiệp, dạy học cho Thái Tử.

Đời vua Trần Dụ Tông ,Ông dâng Thất Trảm Sớ xin giết 7 tên nịnh thần, nhà vua không nghe,Ông từ chức về ở ẩn tại Chí Linh, Hải Dương (?). Ông Chu Văn An có để lại khá nhiều tác phẩm, song, thất lạc gần hết. Người đời sau chỉ mới sưu tập được một số ít thơ của Ông qua Toàn Việt Thi Lục. Sau đây là bài thơ Xuân Đán:

XUÂN ĐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê vân sắc thiên như túy
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lãnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh Xuân mộng tàn.
                  CHU VĂN AN

SÁNG MÙA XUÂN

Cảnh nhàn núi thẳm với gian nhà
Mành trúc nghiêng che rét thoảng da
Mây biếc trời cao say giấc điệp
Ánh hồng sương sớm đượm cành hoa
Thân như mây lẻ non vương vấn
Tâm tựa giếng xưa sóng nhạt nhòa
Mùi khói thông tan trà đã nguội
Suối bên chim hót tiễn Xuân qua.
  NGUYỄN  MINH THANH dịch

14=/ LÊ CẢNH TUÂN ( ? - 1416 ),người Thanh Hoá, đỗ Thái Học Sinh dưới triều Hồ,Nhà Hồ bị Quân Minh xâm lăng và dứt ngôi. Ông mưu đồ chống quân Minh cứu nước.Bị bại lộ, ông trốn thoát. Nhưng sau đó ông cải trang làm người ra kinh đô chơi, rồi ở lại dạy học để thăm dò tình hình. Bọn quân Minh phát giác, bắt ông giải về Yên Kinh, và chết trong ngục thất..!! Thơ ông không nhiều, tính trầm buồn tâm trạng của người mất nước, có mấy bài về Xuân:

 NGUYÊN NHẬT

Lữ quán khách nhưng tại
Khứ niên Xuân phục lai
Qui kỳ hà nhật thị ?
Lão tận cố hương mai  
   LÊ CẢNH TUÂN

   NGÀY ĐẦU NĂM

Quán trọ khách nằm dài
Năm qua Xuân trở lại
Ngày về biết khi nao?
Quê nhà mai thêm lão..!
           N M T dịch

 NGUYÊN NHẬT GIANG DỊCH

Hảo cảnh phùng nguyên nhật
Vô gia mẫn thử thân
Khách sầu hồn giảm khứ
Lão mãn khán thanh Xuân
LÊ CẢNH TUÂN

NGÀY ĐẦU NĂM Ở TRẠM TRÊN SÔNG

Cảnh đẹp ngày đầu xuân
Xa nhà xót cho thân
Nỗi buồn vơi nhè nhẹ
Khi ngắm trời đang xuân
           N M T dịch

GIANG TRUNG PHÙNG LẬP LẬP XUÂN

Hành sắc thương mang tuế chính lan
Tiêu tiêu phong tuyết biệt ly tan
Sơn trùng thủy phục khách trình viễn
Đông tận xuân sinh thiên đạo hoàn
Vạn sự vô tâm tùy tiết biến
Thử sinh nhậm vận cánh thùy ban
Phượng thành nhị nguyệt hoa như hải
Chuẩn nghĩ thiều quang nhất phá nhan
                  LÊ CẢNH TUÂN

TRÊN SÔNG NGÀY LẬP XUÂN

Dặm xa mờ mịt năm dần tàn
Gío tuyết ào ào cảnh hợp tan
Sông núi gập ghềnh ngăn khách bộ
Đông xuân lặng lẽ bước thời gian
Sự đời biến chuyển theo giai tiết
Vận số nên hư bởi vũ hoàn
Thành Phượng tháng hai hoa rạng rỡ
Chúa xuân tô thắm đẹp dung nhan.
NGUYỄN MINH THANH dịch

15=/ NGUYỄN TRÃI (1380 - 1442 ), hiệu Ức -Trai là khai quốc công thần đời Hậu Lê, con ông Nguyễn Ứng Long (Phi Khanh), người Hải Dương. Ông là người văn võ song toàn, đã mưu lược giúp vua Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) nên công đại định là giải phóng non sông Đại Việt thoát khỏi sự đô hộ tàn bạo của giặc Minh.

Về thơ văn đã để lại nhiều tác phẩm rất hay: Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai thi tập, Gia Huấn ca, Điạ Dư chí...
Xót thương đời Ông bị oan nghiệt trong vụ án Lệ Chi Viên"Tru Di Tam Tộc!!!".
 Thơ Ông rất nhiều, và vài bài thơ Xuân là:

 MỘ XUÂN TỨC SỰ

Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
             NGUYỄN TRÃI

    TỨC CẢNH CUỐI XUÂN
Suốt ngày nhàn nhã bế thư phòng  
Bè bạn cửa ngoài mãi vắng không
Nghe tiếng quốc kêu xuân đã muộn
Trước sân mưa bụi phủ đầy bông
     NGUYỄN MINH THANH cẩn dịch

     TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ

Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên
           NGUYỄN TRÃI

  BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI

Bến Xuân cỏ biếc mơ màu khói
Phơi phới mưa Xuân nước nối trời
Vắng khách đường quê buồn quạnh quẽ
Suốt ngày gối bãi chiếc đò ngơi.
     NGUYỄN MINH THANH cẩn dịch

16=/ HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC (1721 - 1791) đời Lê Trung Hưng, người Hải Dương, sau dời về Hà Tĩnh, con ông Lê Hữu Mưu & bà Bùi Thị Thưởng. Ông là một danh y, từng được chúa Trịnh chiếu chỉ ra kinh đô Hà Nội trị bịnh cho Thế Tử. Sách thuốc Ô. để lại Y Tông Tâm Lĩnh rất qúi trong ngành Đông Y của nước nhà. Về văn có Thượng Kinh Ký Sự, với những bài thơ xen kẽ khi hứng khởi. Ngoài ra nghe nói Ô. còn có HƯƠNG SƠN THI TẬP(chưa thấy). Trong Thượng Kinh Ký Sự có bài thơ tả cảnh chùa (tưởng tượng) trên núi không đề tựa, căn cứ vào nội dung, người dịch mạo muội xin tạm đặt tựa là Ỷ Sơn Tự như sau:

   Ỷ SƠN TỰ

Y sơn cương tác tự
Bạng thạch giá sơn chung
Tế vũ miêu Xuân thảo
Minh hà lạc vân tùng
Nhân ngâm tàn chiêu lý
Điểu ngữ loạn lâm trung
Phụng chiếu xu hành dịch
Cần lao tiếu Lãn Ông
     HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

CHÙA TỰA SƯỜN NÚI

Sườn non chùa cheo leo
Chuông chùa mỏm đá treo
Mưa râm cỏ Xuân mướt
Ráng đỏ rọi thông chiều
Người ca ngùi bóng xế
Vang rừng chim tiếng kêu
Luyến cảnh chân bước rảo
Lãn Ông cười lao đao..!!
     NGUYỄN MINH THANH cảm dịch

17=/ NGUYỄN DU (1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Hiệp Lộ, người Hà Tỉnh, con cụ Nguyễn Nghiễm. Ông Nguyễn Du làm quan dưới đời Lê Trung Hưng. Nhà Lê Trung Hưng mất ngôi, Ông ở ẩn. Vua Gia Long biết ông có tài , triệu ra phong quan, có lần đi sứ sang Trung Hoa, ngang qua aỉ Nam Quan(1813) Ông đã làm bài thơ"Trấn Nam Quan" bằng chữ Nho tả cảnh:" Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện, Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm".Trong Truyện Kiều mô tả lúc Từ Hải trước khi ra hàng, có câu:

             " Bó thân về với triều đình
              Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu "
 
            Phải chăng đây chính là tâm sự của chính Ông " Hàng thần lơ láo !! " Ông dùng chữ" lơ láo " thật là tuyệt vời..!! Ông để lại rất nhiều tác phẩm văn học gía trị. Nổi bật là Truyện Kiều, nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.Bài thơ Xuân của Nguyễn Du sau đây nói lên tâm sự của ông ban đêm xa quê:

  XUÂN DẠ

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)

NGUYỄN DU

ĐÊM XUÂN

Đêm đen nào thấy ánh xuân hồng
Rặng liễu mơ màng trước chấn song
Bịnh trải đường dài xao xuyến dạ
Xuân về đêm quạnh xót xa lòng
Bao năm đất khách bên đèn khóc
Nghìn dặm quê nhà dưới nguyệt trông
Ngoài xóm Nam Đài Long thủy chảy
Cổ kim sóng lạnh cuốn chung dòng..!!
             NGUYỄN MINH THANH cẩn dịch

Đến đây, để kết thúc trang cổ thi nhỏ này, cũng để dàn trải tâm sự chung của những anh chị em đồng cảnh và đồng cảm đang lưu lạc xứ người, đang luân lạc xứ người, xin mượn hai câu của cụ Nguyễn Du trong bài thơ trên:
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm..!!
(Bao năm đất khách bên đèn khóc
Nghìn dặm quê nhà dưới nguyệt trông)
 
                   Đường về cố quốc xa thăm thẳm
                   Núi đứng ngùi trông mây trắng bay...

Ngoài ra, nhân mùa Xuân sắp về nơi Cố quốc xa xăm, và đang về trong tâm thức của những con chim Việt ly hương, người viết xin mượn lời chúc của người xưa gởi đến quí đồng cảnh đồng hương:

NIÊN TĂNG TUẾ NGUYỆT, NHÂN TĂNG THỌ
XUÂN ĐÁO CÀN KHÔN , PHÚC MÃN ĐƯỜNG. Trân trọng
                                                                     
NGUYỄN MINH THANH
(GA, Đông lạnh 2008)