Oct 12, 2024

Thơ dịch

LES LUSIADES (BÀI 6)
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh * đăng lúc 02:41:10 PM, Feb 06, 2023 * Số lần xem: 354
Hình ảnh
#1

OS LUSÍADES  (BÀI  6)

LES LUSIADES

THI HÀO LÚIS DE CAMÕES

THIÊN TRƯỜNG CA BẤT TỬ BỒ ĐÀO NHA

 

NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH

Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne

Chuyển ngữ thơ lục bát

 

THI CA KHÚC V

Vasco de Gama tiếp tục kể chuyện du hành. Tả các nước lạ khác nhau ở  dọc bờ biển Phi Châu.

Gặp quái nhân khổng lồ Asdamastor. Tiếp tục cuộc du hành đến Mélinde, nơi đó được sự tiếp đãi ân cần của nhà vua, được che chở và nghỉ ngơi.

 

1.

Ông lão dứt lời tỏ bày,

Lệnh khởi hành chuyến ra đi đã truyền.

Chúng tôi mở cánh buồm lên,

Một làn gió nhẹ, con thuyền rời ra.

Dây cột buồm kéo căng qua,

Tiếng kêu từ biệt, vang xa thủy đoàn.

Đám đông : « Tạm biệt, bình an ».

Bắt đầu chuyển động đoàn thuyền ra khơi.

 

2.

Ánh quang rực rỡ bầu trời,

Thời gian Sư Tử, giờ hoàng đạo lên.*

Thế giới thời đời trăm năm,

Thời kỳ Đệ Lục, vận hành thế gian.*

Tính toán thiên văn lệ thường,

Mặt Trời nay đã hoàn thành vòng quanh.

Mười bốn trăm, tám mươi bảy năm,

Đến nay năm chuyến khởi hành đi xa.

 

3.

Nhìn quanh, thuyền đã đi qua,

Biển sông non núi quê nhà yêu thương.

Sông Tajo xa cách dặm trường,

Sinta nước mát, đồi vườn nở hoa.

Trái tim tổ quốc lìa xa,

Nỗi buồn vương vấn, đậm đà thương yêu.

Khuất trong tầm mắt tiêu điều,

Chỉ còn biển cả sáng chiều trời xanh.

 

4.

Chúng tôi vào biển mênh mông,

Mà bao thế hệ chưa từng đi qua.

Không xa đảo mới tìm ra,

Henri vinh hiển, mới đà thám du.

Bỏ qua phía trái mịt mù,

Núi non thị trấn thành trì Mauritanie.

Antée cùm gông trị vì,

Và phía bên phải, biết chi đất nào.

 

5.

Vượt đảo Madère núi cao,

Tên mang từ cánh rừng nào cây xanh.

Đảo đầu tiên mới di dân,

Thiên nhiên vui sống tiếng danh đất lành.

Địa đầu thế giới vô danh.

Vệ Nữ nếu biết, chắc Thần say mê.

Sống vui hoan lạc phụng thờ,

Quên Chypre và Cnide, Paphos và Cythère.*

 

6.

Bỏ bờ khô cằn Massylie,*

Nơi dân Azenègues chăn bầy bò dê.*

Không có nước trong bao giờ,

Các cánh đồng cỏ cháy khô tiêu điều.

Đất cằn cổi mọi cây trồng,

Chim muông bới sắt mà ăn, tìm mồi.

Nơi này nạn đói tả tơi,

Phân chia man rợ với người Ethopie.

 

7.

Qua đường vĩ tuyến mặt trời,

Xe vàng ánh sáng tới nơi Bắc Cầu.

Con Clymène lái chệch xe mau.*

Đổi màu da trắng hóa màu mun đen.

Xa hơn, sông lớn Sénégal,

Khí hậu mát mẻ đất càng tốt hơn.

Mũi Arsinaire mất tên,*

Và chúng ta đặt tên thành Cap-Vert.

 

8.

Đi qua  quần đảo Canaries,

Ngày xưa đảo gọi tên là Fortunées.*

Tàu đi giữa Hespérides,

Nơi các cô gái xưa là Hespéros.

Thủy thủ biết tự bao giờ,

Kể chuyện kỳ diệu bến bờ hân hoan.

Nơi đây neo lại đoàn thuyền,

Lấy thêm nước uống, thức ăn cần dùng.

 

9.

Đoàn thuyền vào đảo viếng thăm,

Đảo đá được đặt tên thành Santiago.

Vị thánh giúp Tây Ban Nha.

Từng gieo tàn sát quân Maurs kinh hoàng.

Gió Borée thổi cánh buồm,

Chúng tôi chẳng trể dong thuyền ra khơi.

Đại dương mặn, biển xa mờ,

Sau khi có nước, lương khô đủ dùng.

 

10.

Thuyền theo dọc biển Phi Châu,

Rồi đi qua tận địa đầu phía Đông.

Vùng Jalofe ấy địa danh,*

Dân da đen với hàng trăm tộc nhà.

Madingue đất rộng mỏ nhiều,*

Kỹ nghệ khai thác đất giàu quặng kim.

Gambie phì nhiêu đồng xanh,

Dòng sông nước chảy vào vùng Đại Tây Dương.

 

11.

Vượt qua Dorcades tích truyền,*

Nơi đã sinh sống trong miền tối tăm.

Ba chị em một mắt nhìn,

Thay nhau vui thú trong tầm sáng tươi.

Mình người, bính tóc buông rơi,

Neptune giữa sóng trong trời biển xanh.

Xấu xí hơn cả nào bằng,

Nhúc nhô rắn độc cát hồng nóng ran.*

 

12.

Tiến về Nam Cực đoàn thuyền,

Chúng tôi lái hướng ra miền xa khơi.

Tránh xa Sierra-Léon đá lồi,

Palmes là mũi chúng tôi thời thay tên.

Thủy triều cao nơi cửa sông,

Bãi bờ danh tiếng di dân đến rồi.

Đặt cho tên Thánh là người*,

Nghi ngờ sờ vết thương nơi cạnh sườn.

 

13.

Congo vương quốc mênh mông,

Chúng tôi đã giảng đức tin Chúa Trời.

Zaïre trong vắt sông dài,

Nước dòng uốn khúc xưa thời vô danh.

Thuyền qua ngoài khơi đại dương,

Callistô hướng về Nam Cực thời.

Đi qua làn ranh nóng rồi,*

Quả địa cầu ở nửa vời, trung tâm.

 

14.

Quan sát trước mặt trong tầm,

Ngôi sao sáng chói ở Nam Bán Cầu.

Các dân khác chẳng biết đâu,

Nghi ngờ nó có, dãi dầu thời gian.

Chúng tôi vào vùng trời đen,

Ngàn sao sáng tỏ ít hơn trong trời.

Vùng cực băng tuyết lạnh thôi,

Nơi bắt đầu đất, cuối nơi biển ngàn.

 

15.

Chúng tôi đi vào một vùng,

Hai lần ánh sáng của thần Apollon.

Hai mùa hạ, hai mùa đông,

Xoay vòng hai cực trong vòng thời gian.

Lặng yên, Éole xoay tròn,*

Chúng tôi đã thấy được chòm Hùng Tinh.*

Bất chấp Junon cạnh mình,

Tầm mắt trên sóng Neptune bạt ngàn.

 

16.

Dài dòng kể chuyện hải hành,

Biển kinh hoàng nổi lên cơn bão bùng.

Sấm chớp và sóng cao kinh,

Những làn chớp sáng vạch vùng trời đêm.

Bóng đen tăm tối kinh hồn,

Mưa tuôn xối xả, cao dâng thủy triều.

Tất cả sai, nếu thấy nhiều,

Tưởng tôi là sắt đanh, điều mắn may.

 

17.

Thủy thủ kinh nghiệm dạn dày,

Những điều khó tưởng, thấy ngay tức thời.

Phán đoán sự việc bên ngoài,

Tưởng rằng chắc chắn, chuyện thôi thật tình.

Ý người phán xét muốn tin,

Chẳng dò bí mật ảo huyền thế gian.

Bằng lý luận, trí thông minh,

Cho nên giải thích xấu, lầm luôn luôn.

 

18.

Tôi đã trông thấy rõ ràng,

Thủy thủ tất bật suốt trong hải hành.

Tin tưởng thiêng liêng vô cùng,

Trong lúc gió dữ, bão giông điên cuồng.

Chạy nhảy, leo cao cột buồm,

Chẳng có phép lạ nào, càng phục hơn.

Khi thấy mây nước nổi lên,

Xoay vần cơn lốc biển ngàn thẩm sâu.

 

19.

Tôi thấy chắc chắn vì đâu,

(Tôi không nghĩ mắt nhìn mau sai lầm.)

Một làn khói nhẹ bay lên,

Thành làn khói lạ tung bên vùng trời.

Một cơn gió xoay vòng thôi,

Kéo theo mây khói bầu trời mênh mông.

Một ống mỏng mắt vời trông,

Tạo thành hơi nước, hơi thành ra mây.

 

20.

Dần dà ống lớn to thay !

Trở nên rộng đứng thẳng ngay cột buồm.

Nơi teo lại, nơi rộng hơn,

Bơm lên một khối nước càng lớn lao.

Làm cho sóng cả dâng cao,

Trên đầu tụ lại, mây mau lớn dần.

Rồi sức mạnh mỗi lúc tăng,

Để rồi đổ xuống nước cùng mưa tuôn.

 

21.

Như con đĩa hút máu lên,

Dính vào con thú vô tình uống đi.

Trên suối nước trong chẳng hay,

Bởi vì quá khát, máu tuôn lạ lùng.

Càng hút thân càng căng phồng,

Cái thân nở rộng lại càng căng lên.

Chiếc ống đầy nước biển ngàn,

Đám mây to mãi với làn mây đen.

 

22.

Sau khi thành mây hoàn toàn,

Nó kéo chân khỏi trên vùng biển khơi.

Cột nước thành mây cao vời,

Và thành mưa xuống khắp trời không gian.

Trả lại lượng nước hút lên,

Nhưng mùi muối mặn mất không còn gì.

Các nhà thông thái nghĩ suy,

Giải thích bí mật lạ kỳ thiên nhiên.

 

23.

Nếu các triết gia xưa từng,*

Đi qua nhiều nước để tìm huyền vi.

Biết được bao điều diệu kỳ,

Mà tôi đã biết từ khi dong buồm.

Biết bao điều sẽ viết thành,

Bao tinh tú, dấu hiệu từng thấy trông.

Nhiều điều lạ, nhiều vô cùng,

Không cần dối trá, nói lòng thật chân.

 

24.

Hành tinh, ta thấy đầu tiên,

Năm lần nhanh chóng, nửa vầng tròn trăng.

Từ khi rẻ sóng biển xanh,

Chòi cao thủy thủ đứng trông cột buồm.

Mắt nhìn chăm chú xa xăm,

Bỗng kêu lên : “Đất liền ! trông đất liền.”

Trong thuyền túa ra thủy đoàn,

Mắt nhìn về phía xa xăm chân trời.

 

25.

Dáng núi từ phía xa khơi,

Bắt đầu hiện rõ, chân trời mờ sương.

Chúng tôi chuẩn bị xếp buồm,

Và rồi neo mỏ, đến gần bỏ neo.

Để biết chắc chắn nơi nào,

Nhìn thiên văn chúng tôi vào phát minh.

Trí tuệ tế nhị xét xem,

Những vùng xa lạ đã tìm đến nơi.

 

26.

Chúng tôi đổ bến cát dài,

Rãi người quan sát đất nơi lạ lùng.

Đất dân không để dấu chân,

Và tôi muốn biết đâu, vùng đến thăm.

Tôi hội các chỉ huy thuyền,

Trên vùng bờ biển cát vàng, bến yên.

Tính toán chiều cao trời lên,

Và so sánh với nó trên bản đồ.

 

27.

Chúng tôi khám phá ra rồi,

Đã hoàn toàn vượt qua trời Ngư-Dương.

Chính giữa cực lạnh cực Nam,

Một phần thế giới bí huyền nhiều hơn.

Và đây chung quanh đồng hành,

Tôi thấy người lạ với làn da đen.

Sống mãnh liệt trong núi non,

Đi hái mật, tổ ong thơm dịu dàng.

 

28.

Bất ngờ, họ sợ kinh hoàng,

Như người chưa thấy hãi hùng hiểm nguy.

Tiếng tôi họ chẳng hiểu chi,

Tôi chẳng hiểu họ khác gì Polyphène.*

Cục mịch và để làm quen,

Tôi tặng họ những mạ kim sáng ngời.

Vòng bạc, gia vị ngon thôi.

Vật ấy chẳng xúc động người man di.

 

29.

Tôi tặng lại vật thường ngày,

Chuổi thủy tinh, lục lạc hay mũ nồi.

Sắc màu rực rỡ tươi vui,

Và tôi y dấu người bằng tay.

Ra vẻ thích thú tỏ bày,

Và tôi đã thả họ đi trở về.

Xóm làng của họ cận kề,

Để họ giới thiệu xóm quê, gọi mời.

 

30.

Hôm sau đến đông đảo người,

Màu da đen tối, khắp nơi trần truồng.

Xuống đồi hồ hỡi vui luôn,

Muốn nhận quà giống kẻ từng được trao.

Thấy họ cũng vui lòng nào,

Fernão Veloso muốn vào viếng thăm.

Chẳng gì nguy hiểm xa xăm.

Và ông theo họ đi băng qua rừng.

 

31.

Veloso ỷ sức mình,

Cho nên tin tưởng đã không ngại gì.

Thời gian trôi, quá lâu đi,

Lòng tôi lo lặng bấc chì ra sao ?

Người chẳng thận trọng thế nào,

Ngước lên thấy hắn, đồi cao chạy về.

Hắn nhanh chân đến biển bờ,

Trở về gấp rút hơn là lúc đi.

 

32.

Ca nô Coelho nhanh đón ngay,

Trước khi chạy đến một người Ethopien.

Hung bạo nhắm về Véloso.

Nghĩ rằng hắn chẳng thể nào thoát đi.

Một kẻ khác đến tức thì,

Véliso thấy hiểm nguy bước đường.

Tôi vội tiếp cứu chèo nhanh.

Người đen đã đến đông trên bờ rồi.

 

33.

Tên, đá lao vào chúng tôi,

Như mưa dày đặc, vụt rơi trước thuyền.

Không phải ném hụt hoàn toàn,

Vì tôi trở lại chân còn vết thương.

Trả đủa lại thủy binh đoàn,

Bắn nhanh vào những kẻ lòng dã man.

Chỉ còn màu mũ đỏ hồng,

Lẫn trong màu đỏ nhuộm trên cát vàng.

 

34.

Véloso cuối cùng thoát thân,

Chúng tôi vội vả chèo nhanh về thuyền.

Nhổ neo ra đi chóng nhanh,

Chẳng còn gì với người thành dã man.

Hung dữ, tráo trở, bạo tàn,

Thông tin về Ấn Độ càng ước mong.

Cái tên vẫn còn xa xăm,

Đoàn thuyền theo gió thong dong buồm lèo.

 

35.

Đồng hành cười ngạo Véloso,

(Quây quần bao kẻ nói vô chọc cười.)

“Ôi ! Véloso bạn xuống đồi,

Sao chạy nhanh thế, hơn thời lúc lên.”

“Vâng rằng tôi phải chạy nhanh,

Vì đàn chó dữ theo chân đuổi hoài,

Nếu tôi không chạy nhanh thôi,

Thì bạn không thể thấy người bạn đâu !”

 

36.

Rồi thì kể chuyện trước sau :

“-Chúng không muốn vượt qua mau núi rừng.

Mưu toan phục kích bên đường,

Bắt tôi, mồi nhữ cả đoàn đến đây.

Rơi vào ở giữa vòng vây,

Cho hết cả đám thành ngay âm hồn.

Rồi thì chúng sẽ lên thuyền,

Cướp đoạt tất cả của còn nhiều hơn.”

 

37.

Năm lần đi qua ánh dương,

Từ khi rời bến, ra đường biển khơi.

Trời trong, gió nhẹ buồm trôi,

Con tàu qua chốn chẳng người đời qua.

Một đêm thanh thản nhìn xa,

Chẳng lo âu lái buồm ra con thuyền.

Một làn khói mỏng bay lên,

Bổng nhiên sầm tối, nặng đen bầu trời.

 

38.

Mây âm u, nặng kinh người,

Gieo bao sợ hãi, bồi hồi trong tim.

Biển gào gầm thét nổi lên,

Như đập vào vỡ tan trên đá ngầm.

Tôi than: “Ôi Đấng Vạn Năng,

Thánh thần hung hãn ẩn trong ảo huyển.

Điều gì đến, chẳng gió ngàn,

Mà hơn bão tố, lốc cuồng phong ba.”

 

39.

Đám mây nhìn bỗng hiện ra,

Con vật to lớn, trông ra dáng người.

To kềnh như tượng khổng lồ,

To kinh hoàng, chẳng bao giờ thấy trông.

Mặt tối, râu tóc tủa cong,

Trong đôi hố mắt chớp bùng toả lên.

Râu cằm rũ một màn đen,

Răng vàng và miệng đen ngòm lớn to.

 

40.

Chân tay, mình dáng khổng lồ,

Như tượng đảo Rhodes bên bờ biển trông.*

Trong Bảy Thế Giới Kỳ Quan,

Gọi chúng tôi tiếng gầm vang lưng trời.

Tiếng kinh hoàng thô bạo cười,

Như vừa ra khỏi đáy khơi biển ngàn.

Nổi da gà, tóc dựng lên,

Máu như trở lạnh, ngược dòng về tim.

 

41.

“Ôi ! Dân bạo nhất thế gian,

Chẳng dân nào cả, dám làm vinh danh.

Sau bao thắng trận chiến tranh,

Chẳng thèm vui sướng cuối cùng nghỉ ngơi.

Tại sao vượt khỏi sức người,

Dám dong tàu giữa xa vời biển khơi.

Ta lâu năm coi biển trời,

Chẳng ai vượt sóng, người đời đến đây.”

 

42.

“Người khám phá huyền bí này,

Không gian ẩm ướt, phơi bày thiên nhiên.

Chưa anh hùng nào dám làm,

Người xem là dễ, sức kham thiên tài.

Lắng nghe, nguy hiểm họa tai,

Dự định chẳng quản cho ai đợi chờ.

Biển sâu, sóng gió bất ngờ,

Trên vùng đất khó còn chờ đấu tranh.”

 

43.

“Đoàn thuyền người, thuyền đầu tiên,

Người đã táo bạo ra miền biển khơi.

Kẻ thù đất lạ các nơi,

Trải bao gió dữ trong trời bão giông.

Đoàn thuyền vượt biển đầu tiên,

Chinh phục sóng gió đến miền xa xăm.

Chịu đựng gian khổ cực hình,

Nỗi đau còn lắm hơn ngàn nguy nan.”

 

44.

“Ta có thể chắc chắn rằng,

Trừng phạt những kẻ đã tìm ta thôi.

Phá ta an giấc nghỉ ngơi,

Tìm điều chưa biết, chân trời mênh mông,

Ngược lại nếu ta chẳng làm,

Như người đã biết tháng năm đắm tàu.

Bao điều thảm họa ra sao !

Chỉ ít đau khổ, khi nào chết đi.”

 

45.

“Đầu tiên vinh dự chỉ huy,

Thiên tài, sự nghiệp cao bay tận trời.

Đất dù quên mộ, người đời,

Vinh danh phán xét từ nơi thánh thần.

Đội thuyền Turcs dù vang danh,*

Cũng tàn, chiến tích, chiến công lẫy lừng.

Quiloa, Mombaça trị trừng,*

Với ta nhận lãnh việc ngừng thành công.”

 

46.

“Có kẻ khác đến, tiếng danh,*

Cao sang, lịch thiệp, với cùng phu nhân.

Người tình xinh đẹp hợp hôn,

Bao nhiêu hạnh phúc, vô cùng nên duyên.

Kiếp buồn gặp phải vận đen,

Đắm tàu khủng kiếp, thoát thân nhọc nhằn.

Tạ ơn Chúa được toàn thân,

Thoát được cái chết trong lần gian nan.”

 

47.

“Lũ con vừa thoát biển ngàn,

Lại chết đói, khổ, đau lòng mẹ cha.

Cafres cướp biển lại chẳng tha,

Lột hết quần áo, vật quà chiến công.

Trẻ đẹp da trắng trong ngần,

Trần truồng trong nóng, lạnh căm biển trời.

Bờ biển khô cằn lạc loài,

Bàn chân thon cháy bỏng nơi cát hồng.”

 

48.

“Ai chứng cảnh thảm thương chăng ?

Mắt ai theo dõi vợ chồng khổ đau ?

Lạc trong rừng rậm lao đao,

Truông rừng nguy hiểm với bao thú rừng.

Mất hy vọng, đắng cay lòng,

Bao dòng nước mắt cũng mềm đá thôi.

Hồn sum hợp bay xa vời,

Trẻ trung, xinh đẹp giữa nơi mịt mù.”

 

49.

Quái vật còn kể chần chừ,

Bao nhiêu số phận đến từ gian truân.

Đứng dậy, tôi thét lời rằng :

“Ông là ai  ? đám đoán bằng tiên tri.”

Mắt long lanh, miệng cong đi,

Tiếng kinh hoàng giọng lạ kỳ vang xa.

Như từ hang vực vang qua,

Tôi thầm hiểu hắn rất là khổ đau.

 

50.

“ Ta huyền bí mũi đá nào,

Mà người đời gọi Mũi Đầu Phong Ba.

Ptolémé, Pomponius chưa qua*,

Strabon, Pline xưa cũng chằng là biết đâu.

Cuối cùng bừ biển Phi Châu,

Mũi này đi mãi chẳng sao biết gì !

Đến tận Nam Cực xa vời,

Người kẻ táo bạo qua nơi mũi này.”

 

51.

“Ta Titan, con Đất đây,

Như Encelade, Trăm Tay và Égée.*

Ta tên gọi Adamastor,

Tham gia vào cuộc chiến tranh do Thần.

Phóng ra sấm sét Vulcain*,

Anh em ta bại, núi chồng lên non.

Nhưng ta vốn ở Đại dương,

Ta muốn chiếm giữ sóng ngàn Neptune.”

 

52.

“Vợ Pélée ta thầm thương,

Dấn thân vào những bước đường trái ngang.

Ta khinh thần nữ cõi thiên,

Chỉ yêu công chúa Đại dương một lòng.

Một ngày ta thấy dung nhan,

Cùng Néréides tắm khỏa thân bên bờ,

Tâm hồn ta đã thẩn thơ,

Lòng yêu còn mãi bây giờ chưa tan.”

 

53.

“Nhưng ta xấu xí vô vàn,

To kềnh, mắt quái ai nhìn chẳng ưa.

Chỉ cách ép dâm bất ngờ,

Nhờ Doris giúp mưu đồ cưỡng dâm.

Hoảng hồn, thần chẳng bằng lòng,

Nói cho nàng biết rõ rành âm mưu.

Nàng cười duyên dáng ngất ngư :

“Tình nào long nữ, đủ bù quái nhân.”

 

54.

“Ta tránh Đại Dương chiến tranh,

Ta tìm mọi cách giữ danh dự mình.

Tìm cách đỡ khổ thất tình,

Khi nghe thái độ khăng khăng của nàng.

Ta không nghe được tiếng lòng,

(Vì sự mù quáng cõi tình quá to.)

Lòng ta đau đớn bất ngờ,

Tim ta tràn ngập ước mơ xa vời.”

 

55.

“Ta điên, ảo ảnh đến hoài,

Đêm mơ Doris, giấc dài mộng du.

Nhìn xa hình bóng người yêu,

Téthys trắng nõn, dáng kiêu sa nằm.

Ta vội chạy nhanh đến gần,

Bàn tay rộng mở, ôm chầm cuồng điên.

Ngọc ngà, thần tượng tâm hồn,

Hôn môi, hôn vú, tóc mềm lửa yêu.”

 

56.

“Than ôi, cay đắng quá nhiều,

Chỉ là ảo ảnh hóa điều mộng mơ.

Tưởng người yêu dấu bất ngờ,

Ta xiết tảng đá bên bờ rừng gai.

Vuốt ve hôn mãi, hôn hoài,

Đá cứng và lạnh, chẳng ai thương rồi !

Ta hóa đá, chẳng thành người,

Đá ở cùng đá, lõm lồi phận chung.”

 

57.

“Long nữ đẹp nhất Đại Dương,

Còn ta quái dị, ai thèm mà mong.

Vì đâu tàn nhẫn lạnh lùng,

Dù mây hay núi, mơ mòng mà chi !

Tôi tức giận bỏ ra đi,

Lang thang trong mối sầu bi cuộc tình.

Tìm Thế Giới chỉ một mình,

Ai cười tôi khổ, chẳng trông mong đời.”

 

58.

“Lúc anh em Titans bại rồi,

Hư vô, sấm sét tả tơi tan tành.

Các Thần Bất Tử giận căm,

Đã chôn dưới núi, núi chồng đè lên.

Làm sao chống lại Olympe,

Tôi chỉ biết khóc nỗi riêng bạo tàn.

Tôi thấm thía với mơ màng,

Số phận ngang trái, phải mang nhọc nhằng.”

 

59.

“Thịt tôi thành đá, cứng lên,

Xương như đá tảng hoa cương dần dần.

Tứ chi, khuôn mặt kềnh càng,

Nằm dài trong biển, nước tràn phủ lên.

Cao lớn như tượng đá chồng,

Mũi xa xôi đã bao lần đổi thay.

Đớn đau tan nát tim này,

Nhìn nàng Téthys, quanh vây biển ngàn.”

 

60.

Nói rồi, nức nở khóc than,

Vụt xa tầm mắt, quái nhân trốn rồi.

Sương tan, tiếng vọng xa vời,

Vọng từ đáy nước, những lời gầm vang.

Tôi vươn tay cầu thiên thần,

Cho tôi chứng kiến lạ lùng quái nhân.

Cầu xin cứu giúp số phần,

Qua cơn khổ nạn Adamator lần báo tin.

 

61.

Xe vàng rực rỡ bình minh,

Phlégon, Pirois kéo cùng Eoüs, Ethon .*

Trước mắt mũi biển mênh mông,

Phơi bày bãi đá những ông khổng lồ.

Vượt qua khỏi mũi trông vô,

Biển ban mai rộng sóng xô trùng trùng.

Tàu đi một đỗi xuống vùng,

Lần thứ hai chạm đất liền chốn đây.

 

62.

Dân ở phía Đông biển này,

Éthiopiens đó, da người mun đen.

Tiếp đón chúng tôi đàng hoàng,

Khác dân đen khác dã man cướp mồi.

Họ nhảy múa, hát vui chơi.

Đông đảo bè bạn, biển dài cát tinh.

Đàn bà, con trẻ chạy quanh,

Cả bầy súc vật theo chân mọi người.

 

63.

Nắng cháy, phụ nữ cũng ngồi.

Bầy bò chậm chạp chân đồi đến đây.

Dê cừu, biểu tượng tiền tài,

Kết giao bè bạn, dân nơi tín sùng.

Bài ca đơn giản điệu vần,

Đi theo nhịp diệu hòa chung với nhau.

Hòa cùng điệu sáo vọng cao,

Giống Teytir tiếng nhạc nào đồng quê.

 

64.

Vẻ mặt vui vẻ hả hê,

Đón chúng tôi với say mê thật lòng.

Họ mang gà vịt, cừu ngon,

Đổi chúng tôi những vật dân cần dùng.

Cuối cùng, chúng tôi hỏi đường,

Xứ Ấn Độ chẳng biết thêm được gì !

Chúng tôi kéo neo ra đi.

Tiếp tục tìm kiếm, lòng vì phiêu lưu.

 

65.

Đi theo bờ Nam Phi Châu,

Giữa đường nóng bức từ lâu xa vời.

Nam Cực đã đi xa rồi,

Và đường Xích đạo giữa trời đang qua.

Bỏ sau quần đảo xưa xa,

Một đoàn thuyền khác cũng đà đến đây.*

Tìm Mũi Bão Tố chốn này,

Để lại cây trụ tháng ngày đi qua.

 

66.

Chúng tôi qua biển bao la,

Lúc gió dữ, lúc phong ba, lặng tờ.

Trải bao ước vọng mịt mờ,

Đi tìm Ấn Độ, đợi chờ thấy đâu ?

Chống chọi cùng với biển sâu,

Những điều xãy đến ra sao bất thường.

Con thuyền đi giữa đại dương,

Bổng gặp dòng hải lưu ngăn cản đường.

 

67.

Sức hải lưu, ngược đường thuyền,

Dòng nước chảy mạnh như dường đi lên.

Sức nước buộc phải lùi thuyền,

Mặc dù sức gió cánh buồm căng lên.

Như cố chống cự biển xanh,

Gió Notus thổi bùng lên ào ào.

Chống lại sức mạnh nước cao.

Chúng tôi chiến thắng vượt rào biển xanh.

 

68.

Mặt Trời ngày Thánh Vinh danh,

Ba vua từ cõi phương Đông, đến rồi.*

Chào Vua, chào Chúa ra đời,

Cả ba là một, Chúa Trời Ba Ngôi.

Chúng tôi đến bến sông nơi,*

Dân da đen tử tế người khách xa.

Để tưởng nhớ dân thật thà,

Chúng tôi đã gọi Quê Nhà Giáng Sinh.*

 

69.

Nước màu tươi mát xanh trong.

Giòng sông nước ngọt khiến lòng thảnh thơi.

Nhưng Ấn Độ vẫn xa vời,

Dân đây chẳng thấy, chẳng người biết chi.

Ôi ! Vua xứ nào tên gì ?

Khí hậu không biết, biển thì vô danh.

Nhưng lòng theo dấu kiên tâm,

Chúng tôi mong muốn phương Đông đi tìm.

 

70.

Tưởng tượng khốn khổ, khó khăn,

Chúng tôi tìm kiếm không gian mịt mờ.

Bao hiểm nguy trải qua rồi,

Biển cao, bão tố, đất trời mênh mông.

Mỗi ngày, ngày lại ước mong,

Hy vọng đang mất, sức trông mõi mòn.

Nhu cầu ăn đói nào hơn,

Sóng gào biển thẳm, sống còn thiên nhiên.

 

71.

Thức ăn hư hỏng, thối ung,

Không tốt, gây bệnh làm thân mệt nhoài.

Lại chẳng còn hứng chí ai,

Hy vọng ảo ảnh, tương lai mịt mờ.

Nếu hội binh sĩ Bồ Đào,

Tưởng rằng có thể ra sao lúc này ?

Cuộc phiêu lưu tiếp tục đi,

Trung với Vua, với chỉ huy vâng lời ?

 

72.

Nổi loạn tất cả mọi người,

Chống chỉ huy, biến loạn nơi thuyền tàu.

Một chút cũng đủ cứng đầu,

Hóa thành cướp biển, còn cầu mong chi !

Thất vọng, đói khát, sân si ?

A ! Lòng bền bỉ vượt đi khổ hành.

Chẳng gì gian khổ nản lòng,

Bồ Đào đức tính trung thành bền gan.

 

73.

Chúng tôi rời bến sông trong,

Đi vào biển mặn buồm căng sóng dồi.

Tránh gần bờ biển  ra khơi,

Đoàn thuyền tiếp tục đất trời viễn du.

Sợ rằng gió thổi êm ru,

Gió Notus mát hải lưu gần bờ,

Đưa vào dòng nước chẳng ngờ,

Safala giầu có là nơi xuất vàng.*

 

74.

Đi qua khỏi vũng nguy nan,

Thánh Nicolas giúp lại càng khéo tay.*

Thuyền này, thuyền khác cùng xoay,

Hướng vào bờ biển nơi đây sóng gầm,

Lòng hy vọng và ngại rằng,

Chẳng nên thử thách, mong manh gỗ thuyền.

Thất vọng qua, hy vọng lên,

Một xúc động mới trong lòng chúng tôi.

 

75.

Đến nơi gần bến bờ rồi.

Bãi cát, thung lũng bên đồi đã trông.

Đổ ra biển một dòng sông,

Bỏ tàu con xuống khỏi cung thuyền buồm.

À ! nơi đây có nhiều thuyền,

Biết đi xa những hải trình xa xôi.

Ước mơ thấy dấu hiệu rồi,

Những điều mong muốn chúng tôi kiếm tìm.

 

76.

Tất cả dân Éthopiens,

Đã biết giao hảo, bán buôn tốt lành.

Trong ngôn ngữ họ nói năng,

Vài tiếng Á Rập dễ phân biệt lời.

Trên đầu khăn vải nhẹ thôi,

Và những người khác, áo dài nhuộm xanh.

Lưng quấn dây đai vòng quanh.

Mọi người đều biết che phần hổ ngươi.

 

77.

Tiếng Á Rập không rành lời.

Farnand Martin hiểu thông nơi lời người.

Nhiều thuyền lớn như chúng tôi,

Cũng đi rẽ sóng ra khơi xa vời.

Hướng về vùng mọc mặt trời,

Nơi vùng biển rộng đất người phía Nam,

Phía Nam xuất hiện bình minh,

Như các ông, nước da dân ban ngày. *

 

78.

Chúng tôi thật vui mừng thay !

Dân đen này đã cho hay tin nhiều.

Dòng sông vui vẻ bấy nhiêu

Tín Hiệu Tốt được là điều đặt tên.

Cột trụ chúng tôi cắm lên,

Chôn sâu vào cát nói lên tinh thần.

Mang tên Thánh Raphaël,*

Thiên thần Tobias đến cùng Gabriel.

 

79.

Chúng tôi nạo rửa con thuyền,

Rong rêu, hào đóng suốt trên hành trình.

Cuộc du hành bao nhiêu tuần,

Đã bám chặt ở đáy trên con tàu.

Các người bạn giúp tay nhau,

Thong dong vẻ mặ́t đón chào tươi vui.

Cấp cây trái, thức ăn tươi.

Lòng tin tưởng với tình người ấm êm.

 

80.

Nhưng nào vui chẳng lâu hơn,

Niềm hy vọng lớn bỗng buồn thương đau.

Vui buồn định mệnh lẫn vào,

Darmonte thánh nữ * gây điều tai ương.

Trời phán quyết có bình tâm,

Nặng nề buồn thảm nẩy sinh mọi người.

Đau khổ bất biến trong đời,

Những điều tốt đẹp thì thời qua nhanh.

 

81.

Một căn bệnh dữ hoành hành,

Cướp đi bao bạn đồng hành chúng tôi.

Xác vùi đất lạ xa xôi,

Chẳng bao giờ trở về nơi quê nhà.

Ai tin, nếu không thấy qua,

Nếu sưng trong miệng, thịt thà phồng lên.*

Căn bệnh quái dị lạ thường,

Cùng lúc thịt đã thối ung dần dần.

 

82.

Thịt thối rữa, một mùi tanh,

Bay trên tàu, cả trong không khí gần.

Chẳng có lương y thuốc thang,

Chẳng người giải phẩu đàng hoàng nghề y.

Một người trong đoàn ra tay,

Cắt đi thịt đã trên đà thối ung.

Như người ấy đã chết xong,

Cần thiết để giữ, khỏi phần đớn đau.

 

83.

Trong rừng chẳng biết tên nào,

Để lại mãi mãi biết bao đồng hành.

Cùng nhau chia xẻ du hành,

Trên đường dài bỗng trở thành tai ương.

Đắp lên nấm mộ đau buồn,

Khi thì thủy tán sóng ngàn biển xanh.

Khi thì đất lạ gò hoang,

Đón nhận thân xác bạn hiền thân thương.

 

84.

Rời bến, tiếp tục hành trình,

Chẳng còn buồn lấy lòng tin lại rồi.

Cùng hướng dọc bờ đi hoài,

Tìm nơi tử tế đón mời khách xa.

Trước Mozambique đi qua,

Bài học phản trắc thật là bất nhân.

Những người gian trá, dối dang,

Giăng bẩy tàn bạo dân vùng Mombasa.

 

85.

Xót thương lòng Đấng Cao Xa,

Đưa thuyền đến kẻ cùng ta bạn bè,

Tấm lòng tử tế đón mời,

Giúp cho sức khỏe, nghỉ ngơi, sống còn.

Sự tiếp đãi mãn nguyện lòng,

Đã cho phẩm vật, thức cần đủ no.

Tôi kể tất cả ước mơ,

Với những chi tiết bến bờ viễn du.

 

86.

Và giờ Quân Vương biết đâu ?

Thế giới biết có cùng nhau con đường.

Énée, Ulysse chung cùng,

Trải qua biển dữ sóng ngàn cùng nhau.

Trải qua gian khổ thế nào,

Bao vần thơ viết ra sao về người.

Phần thứ tám, có thấy nơi ?

Lao động, khoa học tôi thời thấy trông.

 

87.

Thi nhân uống Suối Thi Thần,*

Bao nhiêu thành phố tranh giành nơi sinh.

Rhodes, Smyrne, Colophon,

Athènes, Ios, Argos cùng Salamine.

Thi nhân sáng chói Ausonie.*

Cung đàn lyre hát hợp ca thánh thần.

Nơi sinh Micio mơ màng,

Vùng Tibre hãnh diện vẫn còn ngạo kiêu.

 

 

88.

Thi ca các sách viết nhiều,

Danh anh hùng hóa bao nhiêu bán thần.

Sáng tạo Circé phù tiên *

Polyphène cùng với Syrène mơ màng.*

Hát quanh buồm lái sóng ngàn,

Cicone khủng kiếp trên vùng biển xanh.

Ăn chà là lú lẩn hồn,

Lái thuyền duy nhất sóng tràn tiễn chân.

 

89.

Đi trong bão tố cuồng phong,

Calypso nồng cháy giam trong tù tình.

Harpie phá hỏng thức ăn,

Đầy xuống Địa Ngục bao âm hồn cùng.

Tưởng tượng thiên tài phát sinh,

Trường ca vui thú ca ngâm hát hoài.

Chuyện tôi, sự thật vẽ vời,

Vượt qua tưởng tượng bao người tiếng danh.

 

90.

Tài Gama kể du hành,

Bao người kinh ngạc, lạ lùng lắng nghe.

Khi thuyền trưởng đã kể qua,

Những biến cố lớn, xông pha biển ngàn.

Nhà Vua mở rộng tâm hồn,

Như các vua chúa chiến trường đánh nhau.

Khuyến kích danh dự cổ xưa,

Với dân trung chính lòng thừa thanh cao.

 

91.

Tâm hồn nhân dân xuyến xao,

Mỗi người nhớ một đoạn nào thích nghe.

Nhìn khách da trắng say mê,

Những người từng trải đi về xa xăm.

Như thần Delos thanh xuân,*

Trong tay Téthys gối khăn êm đềm.

Lampétie thán phục lòng*.

Mới từ biển cả về cung điện mình.

 

92.

Để tưởng thưởng các anh hùng,

Xứng đáng công trạng, vinh quang hành trình.

Một bữa tiệc rượu say nồng,

Làm nên nghiệp lớn xứng công, khích lòng.

Lịch sử kể chuyện du hành,

Gợi bao cảm hứng công trình vinh quang.

Bao nhiêu anh hùng tiếng danh,

Đã làm thế giới muốn cùng theo chân.

 

93.

Alexandre le Grand hãnh diện chiến công,*

Achille có muốn anh hùng ngợi ca.

Homère ca ngợi ngâm nga,

Đấng anh hùng ấy vốn là kỳ công.

Thémistocle thẹn lòng,*

Khi Miltiade thơ dâng quá lời.

Chẳng nên nói mãi chuyện người,

Nên ca tụng những cuộc đời kỳ công.

 

94.

Vasco de Gama minh chứng hải hành,

Kể chuyện bởi các thi nhân công trình.

Chẳng bóng mờ, việc rõ rành,

Mà ca tụng bởi nhân quần ngạc nhiên.

Điệu vần ca ngợi vững bền,

Thật tài tình với cung đàn Mantoue.*

Tài, danh, thi sĩ nên câu,

Đài cung xây dựng dài lâu huy hoàng.

 

95.

Đất Bồ Đào, Scipion sinh thành,*

César, Auguste, anh hùng Alexandre.

Người nghe danh tiếng hùng anh,

Mà quên văn vẻ khinh thường thi ca.

Dù lo đế quốc, Octave*,

Vẫn luôn sáng tác lời thơ cung đàn.

Fulvie cơn giận nổi lên,*

Antoine ruồng bỏ vì tình Glaphyre.*

 

96.

César chiếm Pháp hoàn toàn,*

Vũ khí cũng chẳng cản ngăn tâm hồn.

Bút một tay, giáo một bên,

Và tài hùng biện sánh cùng Cicéron.*

Hãy xem Scipion,*

Tài năng bi kịch, tấm lòng thi ca.

Alexandre đọc Homère.

Trường ca chẳng lúc xa lìa bàn đêm.

 

97.

Hy Lạp, Ý các lân bang.

Các vị thủ lãnh văn thông, hiểu nhiều.

Đất nước tổ quốc ta yêu,

Tôi không nói dối những điều suy tư.

Tôi hổ thẹn sống dốt ngu,

Văn chương, thơ, cái thừa dư ích gì !

Văn nhân ít ỏi khinh khi,

Chẳng nghệ thuật, giá trị chi phẩm bình.

 

98.

Chẳng Homère chẳng Virgile,

Dù bao điều tốt đã sinh xứ này,

Chẳng Énée, Achille anh tài,

Chẳng hề xuất hiện, có hoài mong chi ?

Điều xấu nhất, đỉnh cao gì ?

Cất đầu kiêu ngạo chỉ vì chiến công ?

Sức lực nồng nhiệt chiến tranh,

Văn chương, nghệ thuật lặng câm như tờ !

 

99.

Gama, Thi thần viết lời,

Tình yêu tổ quốc đáng đời vinh danh.

Ca tụng lên, hát cung đàn,

Hiểm nguy công việc, vinh quang cao vời.

Không ông, cả một giống nòi,

Chẳng Calliope ca người sông Tage.

Ảnh hưởng như gấm vàng ngà,

Vinh quang thay, hát khúc ca tuyệt vời.

 

100.

Tiên nữ Tajo, ca ngợi tài,

Khát khao thúc đẩy người đời vinh danh.

Vần thơ ca tụng anh hùng,

Đưa vào vĩnh cửu công danh lưu truyền.

Tấm lòng mãi mãi sẽ còn,

Trái tim dũng cảm, công trình thanh tao.

Con đường vinh hiển đón chào,

Chẳng gì hơn, dũng cảm nào mạnh hơn ?

 

(Còn tiếp. Thi Ca khúc VI)

 

CHÚ THÍCH

1. Các tàu buồm thường được so sánh với loài chim, buồm là đôi cánh.

2. Thời gian Sư Tử : khởi hành tại Lisbonne ngày 8 tháng 7. Mặt Trời vào ngày 14  dấu hiệu Sư Tử.

Theo quan niệm thời bấy giờ theo Thánh Kinh, Chúa tạo Adam và Eve khoảng năm ngàn năm. Tuổi của trái đất có sáu thời kỳ : Thời kỳ Đệ Nhất là Khai Sáng và Đại Hồng Thủy. Thời kỳ Đệ Nhị cho đến Abraham ra đời. Thời kỳ Đệ Tam từ Abraham đến David, Thời kỳ Đệ Tứ cho đến Babylonne bị đánh chiếm. Thời kỳ Đệ Ngũ cho đến khi Jésus ra đời. Thời kỳ Đệ Lục cho đến ngày Phán Xét cuối cùng.

Do đó năm 1497 nằm trong thời kỳ Đệ Lục. Vũ trụ yếu ớt và chậm chạp, vì đã trải qua khoảng 5000 năm.

4. Trước người Bồ Đào Nha không có ai đi thám hiểm các vùng biển Madères và Açores . Camoẽs theo Barros. Thật ra theo  J.M Rodrigues, trước Henri la Navigateur có Laurentin năm 1351 và Catalan năm 1375, có thể khám phá do người thành Gène nước Ý, Manuel Pezagno do hai kế ước với vua Bồ Đào Nha năm 1317 bởi Daniz. Năm 1341 vua Alphose IV gửi một phái đoàn qua đảo Canaries.

6. Đoàn thuyền đi qua Maldère ngang vĩ tuyến của Casablanca, bờ biển sa mạc Saharienne phân chia giữa dân dã man Bắc Phi và Éthopie Phi Châu da đen.

7. Phaéton, con thần Apollon.

Le Sénégal dòng sông mang tên tù trưởng một bộ lạc Phi Châu  da đen.

8. Les Hespérides được cho là thuộc quần đảo Cap-Vert. Một nghiên cứu chi tiết bản đồ hải hành cho rằng đoàn thuyền Vasco de Gama đã đi trở lại đường ngày 7 qua kinh tuyến Cancer và ngày 8 lại vượt qua Canaries.

9. Đảo Santiago  trở thành Saint Jacques le Mineur nay là Saint Jacques le Majeur,  sự lẫn lộn có lẽ cố ý của tác giả.

10. Dân Mandingue bán vàng cho người Bồ Đào Nha.

11. Les Gorgones tạm dịch là Bà Chằng (Ovide. Mét IV.77) Les Dorcades được xác định là quần đảo Bijagos.

Méduse là một Gorgone yêu thần Neptune làm tình trong đền thờ Minerve, nên bị trừng phạt tóc hoá thành rắn. Persée chặt đầu máu sinh ra con ngựa bay Pégasse, Persée cỡi đến Libye, máu tiếp tục chảy sinh ra các loài rắn độc trên bãi cát.

12.* Niger.

*Vùng Nina giàu quặng mỏ,  Bồ Đào Nha khai thác từ năm 1482.

*Đảo São Tomé được đặt tên là Thánh Thomas, người nghi ngờ, sờ vào lổ thủng bị lính La Mã đâm nơi sườn của Jésus.

13. Đường Xích Đạo.

14. La Croix du Sud các dân ở Bắc Bán Cầu không thấy được,được xác định năm 1500  bởi Maître Jean. Thật ra đoàn thuyền Vasco de Gama chưa hề đến Nam Cực mà chỉ đi qua Mũi Hảo Vọng.

15. Trong vùng này Mặt Trời đi qua hai lần trong ngày, lần thứ nhất đi lên phía Bắc, Lần thứ hai đi về phía Nam, do đó có hai mùa hạ và hai mùa đông trong năm.

Éole: Thần Gió.

Callistô con gái Lycaon được Jupiter yêu và sanh con trai là Arcas, Junon (Héra) vợ Jupiter (Zeus) ghen biến thành con gấu. Arcas săn mồi, tưởng mẹ là con thú hoang dã toan giết. Jupiter bắt cả hai đặt vào bầu trời.  Callistô trở thành chòm sao Đại Hùng Tinh. Và Arcas thành Tiểu Hùng Tinh  Arctophylax. Nhưng Junon vẫn ghen không bằng lòng, xuống biển đòi Nữ thần Téthys cấm không cho người tình của Jupiter tắm trong nước trong.(Ovide, Mét, II.401-531)

18. Ngọn lửa thánh Elme do điện trong bầu trời, đôi khi trên đỉnh cột buồm. Tên gọi xuất xứ từ Erasme thành ra Erme rồi Elme. Giám Mục Campanie, tử vì đạo vào thế kỷ thứ IV.

22. Thời Camoẽs, hiện tượng cơn lốc biển, nước ta gọi là vòi rồng hút nước lúc bấy giờ chưa được xác định. Mãi đến thế kỷ XIX chống lại quan niệm Franklin, Perkins đưa ra giải thích hiện tượng giống như bão tố. Bằng chứng giả thuyết này là nước mưa không có vị mặn.

23. Camoẽs ngạo báng các triết gia ba hoa đi tìm huyền vi cuộc đời, mà không thấy kinh nghiệm thực tế trong khoa học.

24. Mặt trăng,

Đoàn tàu Vasco de Gama đi qua vịnh St Hélène ngày 4 tháng 11 năm 1497, sau ba tháng 27 ngày rời Lisbonne. Mặt trăng đi qua 4 lần trăng tròn.

25. Khoa học biển về hàng hải bắt đầu từ người Bồ Đào Nha, chuyến đi của Vasco de Gama.

43. Petro Alvares Cabral trở về từ Brésil có dừng chân tại mũi Hảo Vọng vì bão tố.

44. Bartolomeu Dias tìm ra Bonne-Espérance năm 1488.

45. D. Francisco de Almeida, Phó Vương đầu tiên tại Ấn Độ đã tấn công đánh phá Quiloa và Mombasa tại Phi Châu (X26-27). Đánh thắng đoàn thuyền liên quân Thổ Nhỉ Kỳ-Ai Cập tại Diu. Sau đó trên đường về Bồ Đào Nha năm 1508 rời mũi Hảo Vọng gặp giặc Cafres, ông bị một mũi tên xuyên qua cổ.

46. Nói đến việc Manuel de Sousa Sepúlvera bị đắm tàu tháng ba năm 1552. Người chỉ huy quân đội sau chiến thắng tại Ấn Độ kết hôn với D. Léonor de Sá, trở về Bồ Đào Nha với hai con trên tàu buồm Sait-Jean, bị bão tạt vào bờ Natal. Trên  năm trăm người chỉ có 25 người sống sót. Sepúlveda và vợ con bị giết bởi cướp biển Cafres.

50. Mũi Hảo Vọng thời Cổ Đại còn có các tên Mũi Arsinaire, Raptus, Bétis ..

Pomponius Mela : Nhà Địa dư La Mã.

51. Biarée và Hésiode có nói đến các Titan Khổng Lồ có 5 đầu và trăm tay.

Adamastor trong tác phẩm Sidoinne Apollinaire, thế kỷ thứ V sau CN đã nói đến. ( Trong Virgil. Énéide III ).

53. Mẹ Thétis vợ Nérée, thường lầm lẫn với Téthys, thần nữ biển cả vợ Pélée.

61. Tên hai trong bốn con ngựa xe thần Apollon. Hai con khác là Eous và Aethon (Ovide. Med II.153).

63. Camènes: Thần nữ Thi ca đảo Sicile.

Éthopie là một trong những nước dân da đen theo Thiên Chúa Giáo đầu tiên, và giữ truyền thống từ lâu đời, bên cạnh Ai Cập Sông Nil Xanh chảy qua, nơi cai trị của Nữ Hoàng Saba trong Thánh Kinh. Họ có một nền văn minh cao, dựng được những trụ đá 35 tấn. Họ đục núi đá, xây dựng những ngôi nhà thờ Thiên Chúa Giáo ẩn trong núi thật kỳ vĩ. Éthopie là nước dân da đen duy nhất đánh thắng Hồi Giáo, không bị Hồi Giáo đổi đạo. Thời thuộc địa đánh bại cả quân nước Ý xâm lăng. Éthopie là thành viên đầu tiên vận động thành lập Hội Quốc Liên tiền thân Liên Hiệp Quốc.

*Tytire tên một mục đồng được Virgile tả trong Églogues, diễn tả tình cảm trong thi ca và cũng tượng trưng cho Virgile, chính ông.

65. Ile de Cruz trong vịnh Algoa. Năm 1488, đoàn Bartholomeu Dias đã cắm cây Thập Tự, từ đó mang tên đảo.

68. Ngày ba vua Phương Đông theo vì sao Chổi đến dâng phẩm vật khi Jésus giáng sinh, sau Noël một tuần lễ . *Adamastrus là tên một người dân đảo Ithaque của Ulysse có nghĩa là bất khuất..

Jupiter Theo thần thoại Hy Lạp các Titans bị đánh bại bởi cha của Zeus là Kronos. Thần Thời Gian và bị chôn dưới núi.(Hésiode. Théogonie câu 626)

74. Thánh Nicolas, thánh phù hộ cho tàu đi biển.

77. Nước da dân ban ngày:  không phải là dân da đen.

78. Tín Hiệu Tốt, tiếng Bồ : Bon Sinais, tiếng Pháp: Bon Signal.

80, Némésis, được sùng bái ở Rhamnonte. Phi Châu.

81. Camoẽs quan sát căn bệnh ngày nay được xác định là scorbut, bệnh phù thủng, do ăn uống thiếu Vitamin C, trái cây tươi, rau sống.

87. Nói đến Homère, nhiều thành phố tranh giành là nơi ông sinh ra.

Trong thần thoại Boétie: núi Hélicon chảy ra hai dòng suối Aganippe và Hippocrene. Nơi Apollon thần Thi Ca và  chín nàng Thi Thần ý muốn nói đến Homère.

*Virgil sinh tại Minao, dân vùng sông Tibre hãnh diện kiêu ngạo nơi ông sinh ra.

88. Circé trong truyện Odyssée của Homère là tiên nữ phù thủy, biến đám lính của Ulysse tham ăm thành ra lợn.

*Polyphène: khổng lồ một mắt, bắt các bạn của Ulysse ăn thịt. Ulysse bày mưu  cho Độc Nhãn uống rượu say sưa, cùng các bạn đâm thủng con mắt bằng cọc gỗ nung lửa, và thoát thân theo đàn cừu.

*Syrène. Nhân ngư trên biển cả, đầu người, mình cá, cánh chim, tiếng hát làm mê hoặc các thủy thủ dừng chân, mê mệt làm tình chết thành các bộ xương trắng trên đảo Nhân Ngư. Khi đi ngang Ulysse dùng sáp ong bịt tai các bạn đồng hành, chỉ có mình trói chặt vào cột buồm nghe, khi nghe tiếng Nhân ngư hát, Ulysse vùng vẫy muốn đi theo, các bạn quấn dây trói thêm.

89. Chuyện Ulysse đến đảo Thần Gió.

*Chuyện tiên nữ Calypso, con Thần Atlas, khao khát có một tấm chồng, cứu Ulysse trôi dạt trên biển đến và trở thành người tình tù Ulysse làm  chồng được cung phụng đầy đủ, vật chất và thân xác như ở trên thiên đường suốt bảy năm, nhưng chàng anh hùng mưu trí buồn bả, chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc nhớ vợ con. Nhờ có Thần nữ Athénée bênh vực, Zeus ra lệnh Calypso phải thả Ulysse, giúp Ulysse đóng bè vượt bão tố về quê hương Ithaque, lại phải cùng con trai Télemaque và các gia nhân trung thành chiến đấu với trăm người đến cầu hôn vợ là Pénéloppe.. Thi hào Homère bác bỏ một thiên đường ăn không ngồi rồi hưởng lạc nơi trần gian.

Trong Énéides (III.209) Virgile kể chuyện Harpies là quái vật có cánh sống trên đảo Strophades, đến làm hư hỏng thức ăn của Énéee và đồng đội. Chỉ có Énée xuống Địa Ngục trong Odyssée, trong đoạn Ulysse cầu hồn người chết.

91. Lampétie là em gái Phaéton, con thần Apollon.

93. Đại Đế Alexandre le Grand khi đến Sigée. ca tụng trước mộ Achille. “Sung sướng thay chàng thanh niên được Homère ca tụng người biểu tượng của lòng dũng cảm.”

*Thémistocle được Eschyle ca tụng trong Les Perses là người vinh quang nhất thành Athènes.

95. Fulvie vợ góa Clodius giết bởi Milon, tái hôn với Marc Antoine, bị ông này bỏ rơi để yêu Glaphyra.

96. Scipion- Émilien thành lập ở Rome một hội tao đàn văn chương, nổi tiếng với tên Hội Scipions. Thi sĩ Térence được mời, ông bái phục trước các câu thơ bi hài của tao đàn.

100. Camoẽs báo trước ca tụng vinh quang cuộc thám hiểm Vasco de Gama Bồ Đào Nha với lòng chân thành để phụng sự tổ quốc. Ông cay đắng vì các nhà văn, người xuất bản, người trách nhiệm văn hóa đương thời, ganh ghét không muốn trường ca ông được phổ biến tại Bồ Đào Nha. Con cháu Vasco de Gama cũng tỏ ra hững hờ với trường ca ông.

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.