Apr 25, 2024

Tập thơ

Vui Tuổi Hac - Thơ Xướng Họa
Ðông Anh * đăng lúc 07:48:05 AM, Aug 17, 2008 * Số lần xem: 2542
Thơ Xướng Họa

Ðông Anh

Vui Tuổi Hạc

Tựa

Sau thơ xướng họa Hoa Giáp, Ðông Anh lại tiếp tục cho in Vui Tuổi Hạc. Cũng những bạn thơ cũ với những vần thơ xưa, nhưng bây giờ là tuổi bảy mươi chứ không còn là tuổi sáu mươi. Người xưa nói: “Lục thập nhĩ thuận. Thất thập tòng tâm sở dục, bất du củ.”... Sáu mươi tai thuận, nghĩa là biết lắng nghe, phải cũng nghe mà trái cũng nghe. Tất nhiên là biết phân biệt, nhưng trái ý thì để bụng mà suy ngẫm chứ không nông nổi phát ngôn bừa bãi. Bảy mươi thì lòng muốn là làm miễn là không bỏ nền nếp cũ. Ðỗ Phủ trong bài Khúc Giang viết: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Con người bảy mươi tuổi xưa nay hiếm. Bây giờ khoa học tiến bộ tuy già có tăng trưởng nhiều, nhưng tuổi bảy mươi vẫn là hiếm thật. Nếu bảy mươi mà còn mạnh khỏe, không bệnh tật, còn vui được với tuổi già.
Vui Tuổi Hạc. Ðó là một lời cầu nguyện. Ở tuổi bảy mươi mà còn có hàng chục bạn cùng lứa tuổi hoạ thơ lại mừng nhau, thật cũng là điều đáng quý. Mỗi ngày thi sĩ một hiếm. Mỗi ngày luật thi (lối thơ của trường ốc xưa kia) mỗi ít người xử dụng. Thế mà họa hàng chục bài vẫn có người hăng hái tham gia.
Tôi nghĩ không những Ðông Anh nên vui với tuổi hạc mà còn nên mừng rằng tóc bạc rồi nhưng bè bạn vẫn còn đông.
Hà Thượng Nhân

Lời Trình...

Sau mười năm, đọc lại Hoa Giáp Ðông Anh cùng các bài họa của bằng hữu bốn phương. Càng đọc càng thấy hay. Lời thơ như thấm vào lòng. Xin cảm ơn thi hữu đã ban cho những vần thơ qua tấm lòng cảm thông thương mến vô bờ.
Ðể một phần nào tạ lòng tri kỷ, Ðông Anh họa lại 12 bài. Bài họa này viết trong tuổi bảy mươi nên lấy tên là Bảy Chục. Ngày xưa sống đến bảy mươi thật là hiếm, nhưng ngày nay với tuổi này còn đi làm, còn lái xe, còn tham dự việc đời. Việc sinh hoạt xã hội đã làm năng động tuổi già nên cố gắng trong những vần thơ trẻ trung. Ðặc biệt trong Hoa Giáp Ðông Anh hận thù còn lắm, sân si cũng nhiều. Nay viết để quên đi sầu hận mà tiến tới cõi vô vi cho nên thơ ngả màu thiền, tìm tình yêu trong tha thứ. Tha thứ cho cả chính mình.
Thơ và cuộc đời nương nhau trong cuộc sống, làm đẹp cho nhau. Xin bằng hữu đọc để cùng chia xẻ và quên đi những nỗi buồn phiền, xin thông cảm cho những vần thơ cổ đang dần dần đi vào chốn lãng quên.
ÐA
2/2006


Bảy Mươi

Trần ai đã đến bảy mươi rồi
Một thoáng mười năm mây nước trôi
Vẫn nhớ Loa Thành nơi cố quận
Còn thương Hà Nội buổi tân thời
Non bồng muôn dặm đôi chân mỏi ...
Phúc lợi ngàn trùng một giếng khơi
Mới đó qua rồi Hoa Giáp cũ
Nâng ly chúc tụng hả hê cười

Cười lên trút sạch hết chua cay
Tuổi tác niềm vui một chút này
Cuộc chiến năm xưa tàn xứ Bắc
Trò chơi ngày trước phá bờ Tây
Trùng dương bạc sóng năm châu sáng
Trời đất xanh mây bốn biển đầy
Dọc cõi sơn hà cây trổ lá
Người từ gươm giáo vẫn còn đây

Ðây đó sương mờ khuất núi Lam
Mây thành tám hướng bỗng nhiên tan
Bên trời giông bão tuy còn động
Cuối ngõ phong ba thấy đã tàn
Thế sự không cần thêm biện luận
Trần gian chưa hẳn bớt oan hờn
Con thơ mẹ yếu mừng xum họp
Tươi mát thanh bình ngọn gió Nam

Gió Nam dìu dặt nghĩa văn chương
Soi sáng tầng mây vạn nẻo đường
Nghiên bút điểm tô tình huyết nhục
Thơ văn xướng họa nghĩa da xương
Gieo vần nối lại niềm hoan lạc
Ðọc sách quên đi nỗi đoạn trường
Ðạo hạnh trần gian soi nhật nguyệt
Sơn hà một giải ấm tình thương

Tình thương thay thế kiếp lao tù
Muôn cánh hoa vàng đón gió thu
Non nước ươm cao niềm hạnh phúc
Thời gian xóa hết mối oan thù
Bước chân thiền định soi tâm sáng
Giọt nước cam lồ sạch vết nhơ
Ba chục năm qua chừng đã đủ
Cho ai ra thoát đám sương mù

Sương tan đầu ngõ nắng soi đường
Cuộc thế trăm năm lộng hí trường
Rọi thấu trời cao tia nắng sớm
Ươm đầy ngõ hạnh ánh trăng vương
Chiều chiều thôn xóm vui đoàn tụ
Tối tối dân làng thoát nhiễu nhương
Lạc cánh hoa lan nơi đất lạ
Hồn còn mang nặng nét quê hương

Quê hương ngàn dặm gió trăng trôi
Sải vó thiên di cuộc đổi đời
Ngày tháng khi xưa gầy tuổi mộng
Bạn bè lúc trước đuổi ma trơi
Canh khuya tiếng mõ vang thanh thoát
Ðêm tối đèn chưng ánh lẻ loi
Muôn dặm đường dài hay sức ngựa
Nước non còn vẳng tiếng ru hời

u hời êm dịu gió trăng lung
Tiếng hát nghìn sau nghĩa chẳng cùng
Quan họ nòi tình vui khắp xóm
Hò lờ mái đẩy rộn bờ sông
Quên đi một thuở tay chân trắng
Vượt cả trăm khoanh sắt máu hồng
Ðủng đỉnh bò vàng vui tuổi hạc
Nắng chiều mây bạc gió thu không

Thu không vang vọng đỉnh thanh cao
Ban bố bình yên khắp lũy hào
Một dải biên cương còn vững chắc?
Năm tầng trận địa có tiêu hao?
Kinh cầu siêu thoát cơn hư trấn
Chuông gióng từ bi đợt sóng trào
Nghiêng mảnh trăng rằm soi tháp cổ
Giọt vàng linh hiển giữa đồng thau

Ðồng thau lẫn lộn chốn màn đen
Thôi vướng làm chi cảnh não phiền
Ðã hết cớ sao còn cố chấp?
Chẳng còn mà lại cứ đua chen?
Trăm năm cuộc sống nhiều mê hoặc
Bảy chục vòng quay chút tỉnh điên
Quăng lại sau lưng điều tục lụy
Ðầu ghềnh thanh thản bóng non tiên

Non tiên ảo diệu bước phiêu bồng
Rực rỡ bình minh ánh sáng hồng
Lòng nhẹ tênh tênh mây tím biếc
Nước ròng ngát ngát nắng vàng trong
Thiên đàng hạ giới đây hay đó?
Thế giới thiên đình có lại không?
Trời đất lòng người vui rộn rã
Trùng khơi đưa sóng cánh buồm dong

Buồm dong đi tới chốn yên vui
Vang khắp trần gian tiếng nói cười
Cuối ngõ thăng hoa con bướm lượn
Ðầu làng nương gió cánh đào rơi
Tuy già tâm trí còn soi mãi
Dẫu cỗi hồn thiêng vẫn sáng hoài
Hoa nở nơi nơi mừng tuổi hạc
Cuộc đời thất thập hỏi rằng ai?

Ðông Anh
2006

Ðông Anh

Ðông Anh là bút hiệu của Nguyễn Ðình Tạo, quê quán tại Huyện Ðông Anh trước thuộc tỉnh Phúc Yên, sau thuộc ngoại thành Hanoi.
Năm 1954 theo học khóa Cương Quyết Phụ Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường tháng 10 năm 1954. Ðơn vị sau cùng là Tiểu Khu Lâm Ðồng
Tù Cộng Sản 9 năm. Vượt biên tới Galang năm 1985. Qua Mỹ năm 1986. Hiện định cư tại San Jose, California.
Tác phẩm đã xuất bản: Chín Năm Tù Ngục 1989; Chim Di Trú 1997, Hoa Giáp Ðông Anh 2000 và Ngựa Vực Hồn Thơ 2002
Hiện là Thi Ðàn Trưởng Thi Ðàn Lạc Việt, San Jose

Hà Thượng Nhân

Hà Thượng Nhân tên thật là Phạm Xuân Ninh sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Hiện cư ngụ cùng gia đình tại San Jose, California.

Có bài đăng báo từ năm 1936. Chính thức làm báo từ 1945. Năm 1952 bỏ kháng chiến, vào thành, đi dạy học. Năm 1954 đồng hóa vào quân đội với cấp bậc Ðại UÔy trừ bị. Làm chủ bút một số báo Quân Ðội như Phụng Sư, Chiến Sĩ Cộng Hòa, Tiền Tuyến...
Liên tiếp trên 10 năm (từ đệ nhất đến đệ nhị Cộng Hòa) có chân trong Ban Giám Khảo Giải Thi Ca Toàn Quốc. Từng đại diện cho Việt Nam Cộng Hòa tham dự các hội nghị quốc tế như Thi Ca Lưỡng Niên, Văn Bút, Báo chí ở Pháp, Anh, Bỉ, Hòa Lan, Brazil, Nhật, Ðài Loan, Ðại Hàn, Phi Luật Tân v. v...
Viết mỗi ngày một bài thơ trào phúng cho nhật báo Tự Do trong 9 năm liền và nhật báo Ngôn Luận trong 6 năm (bút hiệu Nam Phương Sóc). Ngoài ra còn viết cho hầu hết các tạp chí Văn Học của Miền Nam.
Tổng cộng thơ đã in trên báo khoảng trên 5000 bài.
Ðã dịch các kịch phẩm Le Cid của Corneille và Andromaque của Racine ra thơ Việt. Dịch lại Chinh Phụ Ngâm theo nguyên điệu. Dịch hầu hết các bài cổ văn danh tiếng Trung Hoa gồm cả Sở Từ và Ly Tao của Khuất Nguyên.
Sách đã in:
• Dự thảo Lý Thuyết Chiến Tranh Chính Trị do Cục Tâm Lý Chiến ấn hành với bút hiệu Hà Thanh. Ðã được Bộ Quốc Phòng chấp nhận dùng làm tài liệu huấn luyên cho ngành CTCT.
• Vần Ðề Cải Cách Ruộng Ðất Ở Miền Bắc do Nha Chiến Tranh Tâm Lý ấn hành với bút hiệu Việt Hà.
• Vấn Ðề Ðoàn Kết, Một Chiến Thuật Nguy Hiểm của Cộng Sản do Nha Chiến Tranh Tâm Lý ấn hành với bút hiệu Việt Hà.
• Vấn Ðề Chỉnh Phong Ở Trung Quốc do Nha Chiến Tranh Tâm Lý ấn hành với bút hiệu Việt Hà.



Cổ Lai Hy
Hà Thượng Nhân

Ngoảnh đi ngoảnh lại đã già rồi
Mà cuộc đời chưa hết nổi trôi
Khó biết tại duyên hay tại số
Phải chăng vì thế hoặc vì thời
Phai màu tóc cũ vài phân tuyết...
Mỏi cánh chim bằng vạn dặm khơi
Hoa Giáp mười năm rồi đấy nhỉ
Góp chung bảy chục một cơn cười

Chưa cạn cùng nhau chén rượu cay
Còn riêng một chút nhớ thương này
Cuối năm chim nhạn lìa phương Bắc
Bạc tóc con người lạnh cõi Tây
Nghe gió thương nhà càng thổn thức
Nhìn trăng nhớ nước lại vơi đầy
Ai về cho gửi câu tâm sự
Người ở đây, lòng chẳng ở đây

Lại nhớ làm sao đỉnh núi lam
Rừng chiều sương sớm cũng vừa tan
Phỏng tà áo trắng màu chưa nhạt
Thấy cỏ bờ thơm sắc đã tàn
Dẫu muốn quên đi lời oán hận
Làm sao xóa được nỗi căm hờn
Ta không còn nữa thời son trẻ
Còn mãi trong lòng tiếng Việt Nam

Chao ôi! sách đọc cả ngàn chương
Ðường đã từng đi vạn dặm đường
Vẫn nhớ những ngày câm tựa hến
Chưa quên nhiều buổi đói trơ xương
Tạm dung mới đó không sơ ngộ
Chính giới từ lâu vẫn hý trường
Ðâu phải bây giờ mình mới biết
Ngàn năm còn đó cảnh tang thương

Cải tạo thành ra một lối tù
Thôi thì chẳng tiếp cũng đành thu
Quên sao cho nổi lời gian trá
Xóa dễ gì đâu chữ oán thù
Mưa cứ đổ hoài trên đất mẹ
Nước nào rửa sạch được bùn nhơ
Lòng ta mãi mãi là như thế
Có mắt làm sao lại chịu mù?

Hãy chỉ dùm nhau những ngả đường
Trăng treo ngõ trúc não canh trường
Vài câu cách mạng càng lơ láo
Mấy chữ đồng bào vẫn vấn vương
Việc nước hết gian rồi lại dối
Sự đời đã nhiễu lại thêm nhương
Ðêm nay nghe gió thu về muộn
Tiếng nhạn bên trời nhớ cố hương

Nhịp nhàng năm tháng lạnh lùng trôi
Nào có ra chi cái cuộc đời
Cộng sản coi như cơn mộng dữ
Tự do sao lại giống ma trơi?
Gió buồn trăng lạnh thân lưu lạc
Dặm mỏi đường dài bước lẻ loi
Lại nhớ điêu tàn thơ họ Chế
Tưởng nghe đâu đó tiếng ma Hời

Ma Hời bên gối mộng mông lung
Có phải đời ta lúc cố cùng?
Ngó tới những buồn cho gió bụi
Nhìn về lại thẹn với non sông
Vốn cầu khang há cầu gì thọ
Sao chẳng chuyên chỉ biết có hồng?
Phải dạy cách nào cho chúng hiểu
Ngàn năm có đấy cũng là không

Chẳng muốn trèo cao, muốn với cao
Có đâu dám ví bậc anh hào
Nếu con đường ấy nay còn đó
Thì đĩa dầu kia hẳn đã hao
Gió lạnh canh khuya còn thổi mãi
Sông sâu sóng mới lại dâng trào
Ta về trồng thử dăm hàng trúc
Còn kể gì vàng với lại thau

Bất quá như là cuộc đỏ đen
Can chi ngày tháng mãi ưu phiền
Dặm dài trước mặt tha hồ bước
Ðường rộng sau lưng mặc sức chen
Danh lợi vẫn còn chưa dễ tỉnh
Thăng trầm chẳng lẽ vẫn còn điên
Phong trần đã lợm mùi tân khổ
Ai đó người xưa vốn trích tiên?

Ngày xưa quán nhỏ tóc râu bồng
Ðời tưởng đâu tô một sắc hồng
Nhìn khắp bốn phương quên nước đục
Quay về tám hướng thấy đời trong
Chông gai dĩ vãng cho dù có
Vàng đỏ tương lai vẫn tưởng không
Nhớ lúc cánh buồm căng trước gió
Thấy như mình vẫn cứ thong dong

Sáu chục đang vui, bảy chục vui
Gặp nhau chưa thể tắt cơn cườiờ
Ðã đưa bạn đọc câu thơ đẹp
Nào sợ gì đâu nước mắt rơi
Bút mực tình kia còn lãi chán
Thi ca nợ ấy vấn vương hoài
Trời cho còn bạn bè đông đủ
Bốn bể còn ai vẫn nhớ ai

Hà Thượng Nhân


Nhân một lúc đọc lại bài xướng, nhà thơ Hà Thượng Nhân chợt nhận thấy rằng dù với tuổi bảy mươi, người ta cũng vẫn cần phải đấu tranh cho đất nước. Còn sống là còn phải tranh đấu. Do vậy tác giả làm bài thơ thứ hai có ý nói với nguyên xướng rằng: “Tấc dạ nếu còn mơ đất nước. Tấm lòng phải nghĩ đến non sông”. Chúng tôi xin giới thiệu cả hai bài xin mời độc giả thưởng lãm.

Cổ Lai Hy
Hà Thượng Nhân Bài 2

Bảy mươi đời đã đổi thay rồi
Mới thấy thời gian lắm nổi trôi
Mắt ngó khoan hòa điều ảo hóa
Tai nghe nhuần nhuyễn chữ tùy thời
Ðọc thơ người bạn chân trời rộng
Gửi lại lòng mình mấy dặm khơi
Hoa Giáp, Cổ Lai ghi có khác
Khác chăng tiếng khóc với câu cười

Có khác gì đâu nỗi đắng cay
Lòng ta thì vẫn tấm lòng này
Niềm thương lúc ấy mờ phương Bắc
Nỗi nhớ ngày xưa lạnh mái Tây
Chữ nghĩa dạo nào nghe đã cạn
Vần thơ thuở ấy vẫn còn đây
Súng gươm xếp lại non sông mất
Ta vẫn nằm đây vẫn ở đây

Về lại giá như chân núi Lam
Biết là thù hận có tiêu tan
Người tình má phấn chưa thoa sáp
Giấc mộng đầu xanh đã vội tàn
Bạn cũ thì không quên oán hận
Lòng ta đâu có muốn căm hờn
Trời ơi! thống nhất là sum họp
Hỏi biết tìm đâu nước Việt Nam

Ngày xưa mê mải truyện từ chương
Ngơ ngác nhìn nhau giữa ngã đường
Thành thử máu xương đầy biển cả
Biết chăng xác bạn chất đầy xương
Dối hờn đến cả nền dân chủ
Ðau đớn nào hơn chuyện lập trường
Cách mạng nếu quen phường bịp bợm
Thì tìm đâu nhỉ nghĩa yêu thương?

Cả nước thành ra những trại tù

Quên làm sao được cảnh mùa thu

Họ lôi khắp nước lời dân chủ
Chúng dạy cho ta nghĩa hận thù
Cứ nhận đồng bào trong đói khổ
Ðem dìm dân tộc dưới bùn nhơ
Muốn thiền cũng chẳng sao thiền được
Nhắm tới tương lai tối mịt mù

Ðốt đuốc làm thơ để chỉ đường
Lê dân ẩn nhẫn suốt canh trường
Ta làm như đúng loài tôi mọi
Chúng sống nào đâu khác đế vương
Chuyện nước đã không thù chẳng hận
Cuộc đời càng nhiễu lại thêm nhương
Vẫn còn món nợ chưa hề trả
Tóc bạc đêm ngày nhớ cố hương

Cho nên không thể để cho trôi
Bảy tám mươi năm chửa trọn đời
Bôi mặt họ như phường láu cá
Nhập nhằng chúng chỉ lũ ma trơi
Vì dân chẳng ngại gì cô độc
Yêu nước thì đừng sợ lẻ loi
Ðã đọc chuyện xưa người chắc nhớ
Làm ma vất vưởng lũ ma hời

Bạn đừng nghĩ ngợi quá mông lung
Chỉ biết giang sơn bước khốn cùng
Tấc dạ nếu còn mơ đất nước
Tấm lòng phải nghĩ đến non sông
Dân mình một thuở đầy xương trắng
Cờ chúng bao năm đẫm máu hồng
Ðủng đỉnh cưỡi bò Uy Viễn trước
Hỏi ông, ông có thuận hay không?

Chẳng muốn như ai chiếc ghế cao
Cũng không bắt chước bậc anh hào
Chỉ mong rót đĩa dầu khi cạn
Lại muốn châm ngòi bấc đã hao
Câu bỏ, lời quên chưa dễ nói
Niềm đau, nỗi hận chỉ mong trào
Bạn ơi nghĩ lại vì nhau với
Chẳng kể là vàng chẳng kể thau

Ai không máu đỏ với đầu đen
Thì chuyện non sông một nỗi phiền
Ðã hẳn bạn mong câu tái hợp
Phải đâu tôi thích chuyện bon chen
Nếu như bọn ấy vì nhân nghĩa
Ðâu dễ trong ngoài hóa đảo điên
Muốn ném sau lưng khôn dễ ném
Giữa đời gió bụi nói thần tiên

Bạn quên cái thuở hẹn tang bồng
Quỳ bắn cung thề với Lạc Hồng
Lòng vẫn đang vui, lưng vẫn thẳng
Thần còn chưa mỏi, mắt còn trong
Ðồng bào từng đợi đà hay chửa?
Nhiệm vụ đang chờ đấy biết không?
Sự nghiệp dở dang sao lại bỏ?
Ðịnh theo thiên hạ học thong dong

Tôi muốn anh em thật sự vui
Cùng nhau rộn rã những câu cười
Chỉ nghe sớm tối con chim hót
Ðừng thấy ngày đêm giọt lệ rơi
Ðẹp lắm đã đành lời nhã ái
Hay chi là những nỗi u hoài
Những ngày cải tạo chưa quên được
Ðành chẳng vâng lời phụ bụng ai

Hà Thượng Nhân




Cung Diễm
Cung Diễm
Tên Thật Hoàng Kim Dũng
Tuổi Nhân Mã
Sinh quán Quảng Nam
Ðịnh Cư tại Hoa Kỳ từ 1991
Hiện Ngụ tại San Jose, California



Cổ Lai Hy
Cung Diễm

Thoát chốc mà nay bảy chục rồi
Thời gian như nước hững hờ trôi
Mắt tuy choáng ngợp nền tân học
Lòng vẫn thương vương nếp cựu thời
Kỳ Ký vó từng muôn dặm ruổi ...
Hộc Hồng cánh đã vạn trùng khơi
Bão dông dễ chuyển thân tùng bách
Sừng sững đầu non ngạo nghễ cười

Cười để xua đi nỗi đắng cay
Lòng riêng thẹn với núi sông này
Gươm không vung để an bờ Bắc
Súng chẳng rền cho tĩnh cõi Tây
Nỗi nước, vườn khuya quyên thổn thức
Tình thơ, gác sớm chén vơi đầy
Quê hương ta ở phương trời đó
Thầm hỏi sao mình lại ở đây!

Ở đây chiều nhẹ phớt sương lam
Ðối cảnh lòng ơi, chợt nát tan!
Ðất khách những mong cơn gió trở
Trời quê còn đợi bóng đêm tàn
Bầu tiên muốn rót vào quên lãng
Lòng tục chừng quên nỗi oán hờn
Sông suối dù tuôn ra biển cả
Mưa nguồn lại mát đất phương Nam

Trời Nam thi phú đẹp giai chương
Vần điệu noi theo lối Tống Ðường
Chếnh choáng còn say men Lý Bạch
Gật gù những thích bút Vương Xương*
Hưng vong âu cũng trò tang hải
Ðắc thất cầm như cuộc hý trường
Còn rượu, còn thơ, còn xướng họa
Thân bằng tình lại đậm đà thương

Thương kẻ bao năm kiếp ngục tù
Heo may lòng đã dịu hơi Thu
Câu thơ mong kết niềm thân ái
Ngọn bút đừng mang nỗi hận thù
Thương Lãng sông kia trong với đục
Tâm tư lòng nọ sạch cùng nhơ
Ai ơi xin hãy cùng suy nghiệm
Ðừng mải chìm trong cõi mịt mù

Mịt mù xua sạch hãy lên đường
Rầm rập như đang giữa chiến trường
Ngạo nghễ mãi tung cờ Nguyễn Huệ
Oai hùng còn vọng trống Trưng Vương
Mong dân tộc thoát vòng tao loạn
Cầu xóm làng xa cảnh nhiễu nhương
Ba nhánh non sông chung một cội
Muôn lời hô lớn tiếng: Quê Hương!

Quê hương vời vợi dõi mây trời
Ðinh, Lý, Trần, Lê... trải mấy đời
Giữ nước chẳng gờm quân giặc dữ
Gìn nhà chi ngại lũ ma trơi
Sông xanh, núi biếc cùng tô điểm
Xóm dưới làng trên há lẻ loi
Vẫn đứng bên đình xinh dáng trúc
Võng trưa ngọt lịm tiếng ru hời

Ru hời theo gió thoảng mông lung
Âm điệu chao ôi! nói chẳng cùng
Kéo gỗ, câu hò vang vách núi
Mái nhì, giọng hát quyện ven sông
Chiều rơi, say đắm màn sương nhạt
Ðêm xuống, vui khơi bếp lửa hồng
Năm tháng tiêu dao cùng cảnh vật
Sự lòng ai có giống ai không?

Cùng ai chia xẻ thú thanh cao
Cái nghiệp văn chương đáng tự hào
Duyên bút ai không gieo lá thắm
Tình thơ ta mãi đợi âm hao
Niềm riêng đành gửi làn mây lượn
Tâm sự buông cho ngọn sóng trào
Phải buổi nhập nhằng thanh với trọc
Xin đừng lẫn lộn giữa vàng thau

Vàng thau cứ đánh lận con đen
Ðời lắm điêu ngoa lắm lụy phiền
Cái bả hư danh luôn quyến rũ
Miếng mồi chung đỉnh cố bon chen
Trèo non tránh bước chân người dại
Lội nước đừng theo gót kẻ điên
Mặc kệ ai hơn, mình chịu thiệt
Ung dung thơ thánh với bầu tiên

Bầu tiên vui thú cảnh non bồng
Suối hát chim ca dưới nắng hồng
Trí nhẹ nhàng mây, mây thắm biếc
Lòng trong veo nước, nước xanh trong
Thiền tâm, tỉnh ngộ câu không sắc
Phật tánh thấm nhuần chữ sắc không
Ðời có là chi mà bận mắt
Kho trời trăng gió mãi thong dong

Thong dong mong đất nước an vui
Phố thị thôn trang rộn tiếng cười
Nương sớm, vồng khoai con sáo nhảy
Ðêm thanh, cối gạo nhịp chày rơi
Hương quê hoa ngát mùi nhân ái
Cố lý lòng vương mối cảm hoài
Núi biếc, sông xanh, sông núi ấy
Nặng tình ai chắc cũng như ai

San Jose Mạnh Ðông 2006
Cung Diễm

* Vương Xương: Vương Xương Linh


Du Sơn Lãng Tử
Bút hiệu : Du Sơn Lãng Tử
Sinh năm Nhâm-Thìn tại Nha-Trang, tỉnh Khánh-Hòa
Ðịnh cư tại Hoa Kỳ năm 1980, hiện cư ngụ tại vùng bắc California.
Nghề nghiệp tự do: Businessman
Cựu học sinh các trường: Bá Ninh (Nha-Trang);
Thượng Hiền; Văn Học; Ðại học Khoa Học và Vạn Hạnh ( Sàigòn ).
Bắt đầu cộng tác với: Báo Khơi Nguồn; Thời báo;
Báo Saigon USA; Tuyển tập Văn Học Thời Nay.
Và có một số thơ đăng trên web.
Yêu thích thơ văn, âm nhạc và thể thao.
Rất mong kết bạn với các thi hữu bốn phương.
Ðịa chỉ liên lạc: dusonlangtu@yahoo.com


Lời Lãng Tử
Du Sơn Lãng Tử

Xa quê thắm thoát mấy năm rồi,
Lang bạt thời gian nhạt nắng trôi.
Thương quá Nha-Thành mùa hạ nắng,
Nhớ hoài Ðồng-Ðế thuở xuân thời.
Khung trời tung cánh chim bay bổng,...
Biển cả thuyền trôi sóng lướt khơi.
Dĩ vãng chờn vờn trong tiếc nuối,
Hướng về cố quận.. mỉm môi cười.

Môi cười đau xót nợ trần cay,
Nửa kiếp long đong mãi thế này!
Giấc mộng hùng anh tan đất Bắc,
Cơn mơ uy vũ xé trời Tây.
Tình thương bốn bể tâm tràn ngập,
Chí cả năm châu trí lấp đầy.
Nước chảy soi mòn muôn thế sự
Người về phá núi vẫn chờ đây.

Chờ đây. Cách biệt khoảng trời lam,
Gió cuốn hồn quê, mộng ước tan.
Mất nước âu sầu tim nức nở,
Xa nhà nhung nhớ máu đông tàn.
Chuyện đời thành bại thôi tranh cãi,
Quốc sự hơn thua bớt giận hờn.
Chỉ vọng an lành ôm đất Mẹ,
Thanh bình thổi ấm gió phương Nam.

Phương Nam lời biệt viết ngàn chương,
Gửi gấm câu thơ, khắp tuyến đường.
Chí khí nâng cao dòng huyết thống
Núi non rải rác mảnh thân xương
Vần gieo xướng họa thêm đoàn kết,
Tải đạo truyền thơ dịu đấu trường.
Chính khí an hòa phơi tuế nguyệt,
Giang sơn một cõi trải lòng thương.

Lòng thương chưa dịu cảnh ao tù,
Dân Việt nghèo, mòn đợi nắng thu.
Áo trận còn mang lằn máu hận,
Ngựa hoang chưa xóa vết lưng thù.
Nước Linh-Giang, rửa hoài cơn nhục,
Sông Bạch-Ðằng, tràn mãi bợn nhơ.
Dằng dặc bao ngày cơn bão đỏ,
Chờ thời mượn gió bạt trăng mù.

Trăng mù che mắt kẻ lầm đường,
Phận nước gian truân loạn đấu trường.
Sáo đã ra lồng trăng vẫn mộng,
Thuyền đà xa bến gió còn vương.
Cơn mơ thánh thiện mừng sum họp,
Ảo tưởng thanh bình sạch nhiễu nhương.
Nửa kiếp xa nhà thân viễn xứ
Hồn mang gáng nặng vọng hoài hương.

Hoài hương nhung nhớ tháng ngày trôi.
Bỏ xứ đi hoang đổi cuộc đời.
Kẻ lấy tình nhà vui để sống,
Người đem phận nước giởn làm trơi.
Trên chồng sách cũ thơ phai nhạt,
Dưới ngọn đèn mờ bút lém loi.
Ray rức canh trường tình nước dậy,
Lòng như trăn trở giọng ca hời.

Ca hời ru ngủ võng lay lung,
Mẹ hát con nghe Nước khốn cùng.
Dân khổ mang tiền chui vượt biển,
Người giàu lót bạc thoát ra sông.
Ai khôn tìm hướng băng rừng núi,
Kẻ khó vô phương trốn giặc hồng.
Sống sót cầy bừa qua tuổi mộng,
Xa nhà phú quý cũng như không.

Như không ta lại cảm trời cao,
Quy tụ về đây lắm kiệt hào.
Xướng họa cho gom tình thắm thiết,
Vần gieo để khỏi chí mòn hao.
Nhập đời kiếm sống lòng hư ảo,
Xuống phố tìm vui bút tự trào.
Ngắm áng mây hồng nung ý khí,
Ðổi đời cát bụi trộn vàng thau.

Vàng thau điên đảo. Nước càng đen,
Dân khổ triền miên nghĩ muộn phiền.
Kẻ trách tôi khờ tìm cách giúp?
Người chê ta dại kiếm đường chen.
Việc đời lên xuống khi mê tỉnh,
Cuộc sống thăng trầm lúc đảo điên.
Tục lụy trần gian thôi gác lại,
Tham thiền tâm định mộng thần tiên.

Thần tiên thấy lại cảnh Nha-Bồng,
Hạ giới đào nguyên nắng tỏa hồng.
Suối đảo mang mang ghềnh trắng biếc.
Biển hồ ngát ngát nước xanh trong.
Tháp-Bà lừng lẫy bao ngàn dặm,
Phật núi huy hoàng mấy khoảng không
Một kiếp trăm năm ai sống sót?
Ðiền viên theo gió cánh chim dong.

Chim dong thẳng tới phố phường vui,
Bay ngắm trần gian tiếng trẻ cười.
Khao khát tình quê tia nắng chiếu
Thì thầm câu chuyện giọt mưa rơi
Ba-Hồ suối mộng, cồn sôi mãi,
Ðại-Lãnh rừng mơ, nước chảy hoài.
Cẩm tú sơn hà. Ôi nhớ quá !
Ngày về cố quận biết còn ai?

Du Sơn Lãng Tử
2007


Hà Trung Yên
Hà Trung Yên
Tên thật Nguyễn Ngọc Châu
Bút hiệu thường dùng:
Lê Nhật Thăng; Hà Trung Yên; Nguyễn Hàn Sơn; Thanh Thịnh; Nguyễn Tâm Cơ....
Ðã in: Phúc Yên (hồi ký); Hồi Tưởng; Những Khối Vuông Tâm Tình; Niềm Xanh; Hương Xa; Gợn Chiều; Âm Vang Thơ Nhạc; Quê Lòng; Niềm Thơ; Hương Nắng; Suối Tiên; Hoài Âm; Ðường Thơ và Theo Vần (Thi Tập)

Sẽ In: Nguồn Giao Cảm; Hội Vần
Ðang Viết: Ngọn Cỏ Chiều Thu (thanh truyện).
Có một số cuốn các thể loại khác đang sửa.

Ðịa Chỉ: 935 Millbrook Court, Tucker, GA 30084, USA. (707) 270-9897

Ngẫu Hứng

Thế sự du du... thấy đủ rồi!
Tâm tình run nước lạ bèo trôi
Vần thơ vẫn đợi ươm nghìn mộng
Cuộc thế còn say gợi một thời
Ngơ ngác vầng trăng niềm ước hẹn
Dịu dàng bóng khói nỗi dong khơi
Vẫn cầm bút suốt mùa dâu bể
Còn lại vần yêu với nụ cười

Ta hãy mơ bằng nỗi đắng cay
Ðời phong sương mãi đẹp phương này
Ô hay đời héo hoa phương Bắc
Mặc kệ chiều tà tuyết phía Tây
Tay trao phấn bướm vườn chưa hẹn
Nằm ngủ trang thơ giấc thật đầy
Này bạn phương về chưa gác bút
Thì tình văn mặc vẫn mơ đây!

Sẽ một ngày buồn cởi áo lam
Dặm về man mác khói chưa tan
Xuân này lãng đãng chim Hồng lạc
Ðông cũ bơ vơ lửa bếp tàn
Có phải thu tàn hương bỗng nhạt
Nên chi hạ lỡ dế thêm hờn
Cuối năm hắt rượu thành mưa ảo
Rũ bụi giang hồ suốt bắc nam

Mở trang thi sử khóc từng chương
Hồn Nguyễn Du còn hiện giữa đường
Tứ lả soi tim mờ mỗi khắc
Bút cùn nạo giấy buốt từng xương
Kìa thêm bải hoải mùa tang chế
Lại vẫn u minh nẻo chiến trường
Có phải Chu Thần chưa hạnh ngộ?
Nên đành mụn rách vá đau thương

Nhìn lại giang sơn nhớ buổi tù
Sầu theo chim nhạn lỡ sơ thu
Người qua hợp xứ dìm hi vọng
Ta cạn ly bôi nuốt oán thù
Nghe lắng canh dài sao Ðẩu lạc
Tìm nghiêng rừng vắng suối tiên nhơ
Ô hay bảy chục năm chưa mỏi
Mà vẫn loanh quanh với bọn mù

Sao về quê lạc mỏi trăm đường?
Ta gọi thi nhân khóc đấu trường
Có phải tương lai không mắt gửi
Nào đâu hiện tại có hồn vương?
Ném thơ đi tới vườn thư thái
Bẻ bút xong cười buổi nhiễu nhương
Vẫy gọi tri âm mừng suốt tháng
Này bên vườn hạnh thoáng mùi hương

Ngàn năm mây trắng ngẩn ngơ trôi
Ðời chẳng nghìn xưa vẫn chuyển dời
Lãng đãng lương tâm về xứ mẹ
Mịt mù ảo giác gọi ma trơi
Cả hai ta vẫn còn ngơ ngác
Giữa triệu người sao thấy lẻ loi?
Kìa Thái Bình Dương đầy nước mắt
Tưởng ta vong quốc giống dân Hời

Thơ của trời thiêng tứ nghĩ lung
Dẫu nghìn trang viết cũng không cùng
Bút tre vạn gốc vung thành kiếm
Mực máu mười năm chảy hóa sông
Hãy lại đây con rồng cháu hạc
Kìa đi đâu giống Lạc nòi Hồng
Nắm tay khai phá mùa hi vọng
Ðừng để thời gian hóa khoảng không!

Người xa sông thấp núi càng cao
Kìa những lương tâm rộn lũy hào!
Này thủa tương lai nhiều hẫng hụt
Mà vùng kỷ niệm có hư hao?
Bơ vơ tìm bạn thời quê lạc
Bỡ ngỡ về thu buổi lệ trào
Ai hỏi muôn xưa còn phượng én
Chọn vàng chi nữa giữa đồng thau

Sẽ có một ngày lẫn trắng đen
Lương tri trong sáng sạch ưu phiền
Bình an cuộc sống đừng thêm bận
Thanh thản con người chớ mải chen
Cứ vậy mơ hoài sau hứng khổ
Hay gì ước hão mãi thành điên
Mùi thiền đã bén tâm càng hạnh
Trăm tuổi sau này sẽ hóa tiên

Trần gian là nước Nhược non Bồng
Tay vẫn thơm khi tặng đóa hồng
Màu tuổi trẻ đang còn thắm thiết
Chất thơ già vẫn cứ xanh trong
Nào cần chi nữa Sinh hay Tử
Có sá gì đâu Có hoặc Không!
Phơi phới tung hoành say nét chữ
Tâm hồn cứ để áng thơ dong

Bài thơ ngẫu hứng vậy càng vui
Qua chữ tưởng nghe được giọng cười
Người nghệ sĩ mơ nhiều ngọc hiện
Chàng Ðông Anh lượm chút vàng rơi
Bảy mươi còn trẻ thêm vương vấn
Ba chục càng xa mãi vọng hoài
Còn đó Loa thành Hà Nội nhớ
Tâm hồn thao thức bởi vì ai?

Hà Trung Yên
20/11/06




Hồ Trường An
Tiểu Sử Hồ Trường An
Nguyên quán huyện Hương Thủy (tỉnh Thừa Thiên),
sinh quán tại làng Long Ðức Ðông ( tỉnh Vĩnh Long),
học dang dở năm thứ hai Ðại Học Dược Khoa,
rồi học Khóa 26 trường Võ Bị Thủ Ðức (1968).
Hồi còn ở quê nhà cộng tác với Bách Khoa, Tin Sách,
Tin Văn, Tuần San Thứ Năm, Minh Tinh, Tiền Tuyến,
Tranh Thủ, Nhân Xã, An Lạc v.v...
Ra hải ngoại cộng tác với Quê Mẹ, Hồn Nước,
Hành Ðộng (Pháp), Lạc Hồng (Thụy-sĩ), Viên Giác,
Nhip Cầu, Diễn Ðàn Việt Nam (Ðức),
Lửa Việt, Làng Văn (Gia- nã-đại), Văn,
Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Hợp Lưu,
Hồn Việt, Người Việt, Gió Văn, Xây Dựng,
Ðẹp (Hoa Kỳ), Mekong (Nhật-Bản) v.v...
Hồ Trường An Hiện cư ngụ tại Troys France

Bóng Tà Dương

Ðường hãy còn xa, sắp tối rồi
Vòng đời phó mặc bóng mây trôi
Tiệc xuân chuốc rượu chưa tàn cuộc
Văn gấm thêu hoa đã lỗi thời
Vầng nhật sáng trời soi phế tích...
Thuyền ai chở mộng đắm trùng khơi
Bảy mươi sắp đến người lưu lạc
Còn lại trong thơ tiếng khóc cười

Khóc cười với rượu đượm men say
Ðối ẩm khách kia với bạn này
Thư báo xuân về trên đất Việt
Lòng vương tuyết phủ khắp trời Tây
Bão lên gió bật cây tùng cỗi
Mộng vỡ buồn trông bóng nguyệt đầy
Xấp lịch hằng năm còn bóc mãi
Bao giờ thăm lại cố hương đây?

Ðây cõi sông Hồng với núi Lam
Một thời oanh liệt bạn chưa tan
Anh hùng lác đác chòm sao rụng
Tráng khí đìu hiu ngọn bấc tàn
Chưa trọn đường dài, buông tuấn mã
Không thành nghiệp lớn, nuốt căm hờn
Gửi trao về bạn dòng tâm huyết
Ðốt nén hương lòng qua Việt Nam.

Việt Nam sáng mãi cõi văn chương!
Hương khói thơm xông ấm miếu đường?
Tuổi ngọc lướt qua, cằn cỗi tóc
Vóc mai còn lại, võ vàng xương
Lạc bầu ảo phố trong cuồng vọng
Khêu ngọn tàn đăng giữa hí trường
Bền sắt tươi son, đâu tráng sĩ?
Can trường gìn mãi giữa đau thương!

Thương nhục nhằn thân giữa ngục tù
Vượt vòng hoa giáp hỡi xuân thu!
Bỏ quê, luôn luyến nền lăng miếu
Biệt xứ, nào nguôi lửa quốc thù
Nhật nguyệt vẫn còn soi chí cả
Giang sơn há để dấy bùn nhơ?
Lửa thiêng nuôi mãi trong đêm quạnh
Mặc tuyết ngoài kia phủ mịt mù.

Mịt mù buổi trước gục ven đường
Ðây phút thiêng liêng chốn diễn trường
Chiến nhạc oai hùng âm vọng mãi
Quân kỳ rực rỡ bóng còn vương
Xua tan ác mộng thời ly loạn
Khâu vá lòng đau buổi nhiễu nhương
Ta sẽ về thăm mùa đẹp nắng
Lửa hồng khói ấm bếp quê hương.

Quê hương tìm lại, mộng buông trôi
Men rượu tàn canh uổng một đời
Mộ địa người thân vàng cát bụi
Nghĩa trang bằng hữu lóe ma trơi
Nỡ đành ràng buộc đời ngang dọc
Sao chịu giam cầm phận lẻ loi
Vong quốc tiếng hờn vang cổ tháp
Chập chờn bóng quỷ vạn dân Hời

Dân Hời tan tác giữa mông lung
Khi bước chân vào chặng cuối cùng
Tắt ánh gươm thần trên chiến địa
Bặt lời chính khí khắp non sông
Vũ đài ta sáng lòng trai trẻ
Lịch sử mình tươi giọt máu hồng
Gối mỏi chân mềm xin chớ ngại
Tưng bừng hậu bối, biết hay không?

Biết hay không biết chất gò cao
Xương trắng thời qua ngập chiến hào
Tháng lụn, đợi mùa vang tiếng gọi
Năm tàn, nhớ bạn ngóng âm hao
Soi gương tìm dấu ngày quang phục
Dừng bước theo chân kẻ cựu trào
Sương tuyết pha dần màu tóc cũ
Vẫn lầm ngọc đá với vàng thau

Vàng thau dần nhạt bóng đêm đen
Nắng rực hồng soi cảnh chợ phiên
Mùa tết dập dìu người sắm sửa
Lối xuân náo nhiệt bước đua chen
Hưởng thời bình lặng xa hung hiểm
Quên buổi cơ đồ gặp đảo điên
Tỉnh giấc mới hay trời chửa sáng
Nhưng lòng vẫn mở hội quần tiên.

Quần tiên gọi dấn bước phiêu bồng
Khi quốc kỳ ai thấm máu hồng
Ðất khách bút cùn thành bút nhọn
Quê nhà sông đục hóa sông trong
Nhiệt thành chí bạn luôn tươi nhé
Son sắt lòng ai có nhạt không?
Mây khói bên trời khi dập tắt
Tháng năm còn gặp buổi thong dong.

Gặp buổi thong dong sẽ thấy vui
Tuởng bao biến cố một trò cười
Trong lòng kẻ sĩ hoa hồng nở
Ngoài ngưỡng cửa đời lá úa rơi
Dìm xuống vực sâu lòng chán nản
Tan theo đông lạnh bóng u hoài
Giữ bền lửa dũng lòng dân tộc
Nuôi chút nắng tàn, hỡi những ai?

Hồ Trường An

Huệ Thu

Tên thật Bùi Thu Huệ

Sinh trưởng tại Ðà Lạt,

Ðinh cư tại Hoa Kỳ từ năm 1980
Hiện sống ở San Jose, California
Thích Làm Thơ Nuôi cá và trồng Bonsai....



Thất Thập Cổ Lai Hy
Huệ Thu

Ngoảnh đi, ngoảnh lại tới nơi rồi !
Dòng nước Trường Giang mải miết trôi
Phận chẳng ra chi, đành chịu phận
Thời chưa thấy khá, vẫn chờ thời !
Cam tâm bồ liễu không quyền lớn ...
Bất chấp gian nguy vượt biển khơi
Hoa giáp mười năm rồi đấy nhỉ ?
Mười năm bất quá một cơn cười.

Cười để cùng quên chuyện đắng cay
Có gì quan trọng thế gian này ?
Sinh Ðông, chết lại chôn phương Bắc
Người Việt làm dân của nước Tây !
Sống vốn đã qua cơn bĩ thái
Biển kia sao khỏi lúc vơi đầy
Ðông qua, Xuân lại, buồn vô ích
Ta vẫn còn đây, bạn hữu đây .

Ðây còn khăn vãi, áo Già Lam,
Ngắm tới, trong lòng oán hận tan
Khanh tướng công hầu rồi cũng chết
Hoa kia rực rỡ có khi tàn
Nếu coi cuộc sống là tranh đấu,
Thì chuốc vào thân lắm tủi hờn !
Mai mốt ta về sum họp lại
Kể gì gái Bắc, với trai Nam .

Nam Bắc Trung giờ đã đổi chương
Lẽ đâu đi mãi một con đường ?
Sao vui cho được, rừng sông máu
Chẳng ích gì đâu, những núi xương !
Tượng Mác đập đi, xây tượng Phật
Nhà tù phá hết, dựng nhà trường
Cùng chung nòi giống chung tiên tổ
Nói tới đồng bào phải mến thương

Mến thương, nên phải dẹp nhà tù
Ðỗ Phủ vào thu, lại cảm thu.
Bằng hữu lẽ nào coi tựa giặc
Bà con đâu nỡ gọi là thù !
Vo tròn tất cả niềm oan trái
Xóa sạch bao nhiêu những nhớp nhơ
Ðà Lạt ta về thăm chốn cũ
Vui cùng mây trắng với sương mù

Sương mù vạt nắng rọi bên đường
Quét sạch từ lâu những đoạn trường
Trang lứa ân tình còn vấn vít
Nỗi niềm tâm sự vẫn tơ vương
Hãy vui sum họp, vui bầu bạn
Quên hết tang thương, hết nhiễu nhương
Nhớ lại quê nhà bao vẻ đẹp
Mùa hoa cam, bưởi... ngạt ngào hương

Hương bay, hoa rụng, nước cùng trôi
Ta vẫn còn nhau giữa cuộc đời
Tàn phá nếu coi là chính nghĩa
Chiến tranh xem tựa bóng ma trơi
Chinh phu từng trải thân lao lý
Thiếu phụ ôm sầu, phận lẻ loi
Ta hãy soi gương người thuở trước
Chao ôi ! Vật vã đám ma Hời

Ma Hời quờ quạng giữa mông lung
Chinh chiến tàn, nhưng hận khó cùng
Chỉ ước chung vai cùng tiến bước
Ðể mình không thẹn với non sông
Lòng thành tay viết ngàn câu thực
Phận liễu son tô một sắc hồng
Trên đỉnh tòa sen nơi Phật ngự
Ngàn năm thấy có cũng là không !

Không - có, đừng mong thấp với cao
Sử xanh còn để dấu anh hào
Máu xương con đỏ không cần thiết
Của cải dân đen chẳng tốn hao
Vun đắp thêm hoài bao lý thuyết
Ðặt bày ra mãi những phong trào
Tuyên truyền cho lắm càng vô ích
Vàng dễ gì đem trộn với thau

Vàng với thau như đỏ với đen
Bảy mươi phủi sạch mọi ưu phiền
Văn minh thiên hạ dang chân lấn
Khoa học bà con gắng sức chen
Không thể theo đuôi phường giặc nước
Lẽ nào bắt chước bọn người điên
Ta về thăm lại non sông cũ
Dẫu chẳng anh hùng, chẳng Trích Tiên

Tiên tục bay theo ngọn cỏ bồng
Bướm, hoa tô điểm một màu hồng
Phăng phăng người bạn đôi chân cứng
Ðăm đắm cô em cặp mắt trong
Ðền miếu công hầu cho dẫu có
Hư vô mộng ảo cũng là không
Ðất trời rộn rã mùa Xuân mới
Một cánh buồm dương, cứ thẳng dong

Thẳng dong tìm đến chốn an vui
Giọt lệ lau khô đẹp nụ cười
Vạt nắng mới tàn, chiều mới tới
Câu thơ chưa rụng, tứ chưa rơi
Mong chờ với bạn bình yên mãi
Ao ước cùng nhau đẹp đẽ hoài
Bảy chục cổ lai thường hiếm đấy
Mừng ai, xin lại chúc cho ai...

Huệ Thu
11.18.2006

Mạc Lan Ðình

Tên thật : Trần Phúc Anh

Bút hiệu khác : Nguyên Ðình

Sinh quán : 1944 Ðại Lộc ố Quảng Nam

SQ/ QLVNCH

Cựu học sinh trường Trung học Trần Quí Cáp ( Hội An)
Nghề nghiệp : Nhân viên học khu San Jose
Sở thích : Thơ văn, nhạc và thể thao

Hội viên Thi Ðàn Lạc Việt
Hội viên Văn Bút Tây Bắc Hoa Kỳ

Góp thơ trong :
Một Phía Trời Thơ ( 2,3,4,và 5)
Tiếng Thơ Hải Ngoại tuyển tập 2
Xuân Thu tuyển tập hội Văn học Nghệ thuật
Thi Văn Viễn Xứ 1 và 2
Bút Hoa 2
Việt Nam Nhật Báo tại San Jose
Tuyển Thơ Lạc Việt

Ðã xuất bản :
CD Thơ Mặc Lan Ðình
Thi Phẩm : Mây Trắng Còn Bay

Trăm Năm Tuổi Hạc
Mạc Lan Ðình

Tuổi cổ lai hy sắp đến rồi
Còn bao nhiêu nữa tháng ngày trôi
Công hầu được mất vài canh bạc
Cuộc thế hưng vong một chữ thời
Vó ngựa chinh nhân còn vọng lại
Dấu giày xâm lược đã mù khơi ...
Ta về ôn cố dòng thanh sử
Ðẹp lắm quê hương thắm nụ cười.

Thắm nụ cười xuân trút đắng cay
Quên đi nỗi khổ thế gian này
Ðã từng chia cách khung trời Việt
Ðâu nghĩ sum vầy mảnh đất Tây
Dịch lý tuần hoàn luôn biến đổi
Cái vòng duyên nghiệp cũng vơi đầy
Cánh tay nhân ái còn khai mở
Nồng ấm tình người khắp đó đây

Ðó đây vang vọng núi sông Lam
Lê Lợi mười năm đuổi giặc tan
Chính khí muôn đời luôn tỏa sáng
Tà quyền mấy chốc sẽ suy tàn
Hãy gieo hạt giống lòng tha thứ
Ðừng nhú mầm cây nỗi oán hờn
Ðại Cáo Bình Ngô ngời cõi Bắc
Sơn hà an định đẹp trời Nam.

Trời Nam lịch sử đã sang chương
Bội nghĩa vong ân kẻ mở đường
Nhân đức sáng ngời da với thịt
Trí tài nhuận thắm máu cùng xương
Tiếc thay tà thuyết gây lung lạc
Hận lắm quân gian tạo hí trường
Tất cả vùi chôn nơi chiến địa
Tình người,dòng giống với yêu thương.

Yêu thương sưởi ấm kẻ trong tù
Một chút sương chiều với nắng thu
Cũng thấy cõi lòng vơi thống khổ
Mà nghe đáy dạ bớt thâm thù
Lửa thiêng còn cháy soi đêm tối
Máu mẹ nào ngưng rửa bóng nhơ
Con Việt lạc loài trên bốn bể
Mong ngày doàn tụ xóa mây mù.

Mây mù chắn lối buổi lên đường
Bỏ nước ra đi luống đoạn trường
Sóng biển cuống theo ngàn nỗi nhớ
Tình quê ôm ấp vạn tơ vương
Tai nghe lớp lớp sầu ai oán
Mắt thấy hàng hàng cảnh nhiễu nhương
Biệt xứ từng đêm nhìn tuyết trắng
Vọng về đất tổ buổi ly hương.

Ly hương chua xót cảnh bèo trôi
Mong ngóng từng đêm cuộc đổi đời
Nhìn lại dân Chàm thân mất nước
Mà thương gái Việt phận ma trơi
Quê người lạc lõng câu ăn nói
Xứ lạ âm thầm bóng lẻ loi
Thử hỏi vì đâu thân phải bán
Ðài Loan, Hàn Quốc kiếp ma Hời.

Ma Hời chạnh nghĩ thật mông lung
Dắt díu nhau đi đến ngõ cùng
Cổ tháp còn phơi trong nắng hạ
Vương triều mất dạng cuối mom sông
Thương cho Chiêm quốc dòng thanh sử
Mà nhớ trời Nam bóng lửa hồng
Tất cả chỉ là cơn ảo mộng
Cái gì rồi cũng trở về không.

Về không để thấy bóng trời cao
Quên hẳn đao binh với chiến hào
Cái thuở tung hoành không mệt mỏi
Cùng thời trận mạc dám hư hao
Vang vang tiếng nhạc, kèn thôi thúc
Văng vẳng lời thơ, phú tự trào
Chính nghĩa, tà quyền đâu lẫn lộn
Dễ gì so sánh giữa vàng thau.

Vàng thau nhòa nhạt giữa đêm đen
Thì trách làm chi để chuốc phiền
Danh lợi đã không màn quyến luyến
Tiền tài cũng chẳng thích bon chen
Nhủ lòng gắng giữ tâm thanh tịnh
Mặc thế còn bao cảnh đảo điên
Mong sống cuộc đời nơi thảo dã
An nhiên tự tại giống thần tiên.

Thần tiên thích sống cảnh non bồng
Cỏ lạ hoa thơm sắc tím hồng
Sáng sớm du hành nơi biển mát
Chiều tà thiền tọa cõi trời trong
Ba ngàn thiên địa chưa là có
Một nắm tro tàn cũng đủ không
Hiểu dược nẻo đời là ảo mộng
Tâm hồn từ đó sẽ thong dong.

Thong dong cuộc sống thấy an vui
Trên miệng luôn luôn hé nụ cười
Xuân đến ra nhìn hoa trắng nở
Thu về đứng ngắm lá vàng rơi
Ước ao ngày tháng thênh thang mãi
Mong muốn văn chương sáng lạng hoài
Tuổi hạc trăm năm còn tráng kiện
Vẫn vui bè bạn kém gì ai

Mặc Lan Ðình



Ngọc Dung
Nguyễn Thị Ngọc Dung là tên thật, sinh năm 1939 tại Hà Nội, theo cha mẹ di cư vào Nam năm 1954;
cựu nữ sinh Trung Học Trưng Vương Hà Nội - Sài Gòn 1952-1959;
làm thơ từ tuổi mười lăm.
1971: lập gia đình với nhà ngoại giao Hoa Kỳ.
1972, rời Sài Gòn, theo phu quân về Mỹ, định cư tại Virginia.
1976: theo chồng làm việc ngoại giao và sống với các con tại
Bruxelles và Bonn.
1983: trở lại Hoa Kỳ, vẽ, viết, làm việc thư ký hành chánh.
Hiện Ðịnh cư tại Virginia - Hoa Kỳ



Hoàng Hôn Thắm
Ngọc Dung

Bao mùa thu tím đã qua rồi
Nước chảy chân cầu chiếc lá trôi
Bến cũ mang theo mây dĩ vãng
Bờ xưa để lại nắng xuân thời
Thông đưa tiếng nhạc vi vu gợi ...
Liễu rủ dòng thơ dào dạt khơi
Xướng họa cho hoàng hôn thắm nhỉ?
Ðiểm trang làm dáng nét hoa cười

Hoa cười che giấu mắt mi cay
Quên lãng tang thương thế giới này
Nhặt lá vàng phai mưa xứ Bắc
Nhìn mây xanh biếc nắng phương Tây
Ai đem màu nét tô tranh đẹp
Ta lấy văn thơ dệt mộng đầy
Chân bước trên đường vui nhã nhạc
Mái nhà ấm cúng mãi nơi đây

Nơi đây thấp thoáng áo xanh lam
Gợi nhớ ngày xưa lớp học tan
Phượng đỏ lung linh đường phố rợp
Tim non rung động cánh hoa tàn
Ngập ngừng chân nhỏ nơi hò hẹn
Xa vắng mi cong buổi giận hờn
Họp bạn hàn huyên chung kỷ niệm
Trở về một thuở dưới trời Nam

Trời Nam tan nát biết bao chương
Gươm giáo ngừng tay ở cuối đường
Cha mẹ đau nồi da nấu thịt
Anh em khóc mộ cốt chôn xương
Người dân vơi túi khi tan chợ
Con cháu buồn thân lúc tựu trường
Nước Việt còn trong cơn bão lụt
Dang tay đùm bọc với tình thương

Thương kiếp bại nhân chốn ngục tù
Mỏi mòn rừng núi mấy mùa thu
Người đi còn giữ lòng căm hận
Kẻ ở không quên nỗi oán thù
Thôn xóm phơi bầy nhiều cảnh khổ
Thị thành chen chúc lắm bùn nhơ
Tìm đâu sao chổi chân trời rụng
Dải đất phương đông vẫn mịt mù

Mịt mù gió cuốn bụi trên đường
Mỏi mắt vời trông suốt dặm trường
Bóng tối chưa tan kinh sám hối
Ðêm dài còn giữ nỗi sầu vương
Hình xưa thấp thoáng thời mơ mộng
Bóng cũ vật vờ thuở nhiễu nhương
Cùng rủ nhau về thăm cố quận
Còn đâu hoa bưởi ngạt ngào hương

Hương mùa lúa chín, áng mây trôi
Tha thẩn anh em mấy tuổi đời
Xóm nhỏ tung tăng soi đóm sáng
Ðồng sâu dò dẫm ngó ma trơi
Lom khom bắt dế kêu rền rĩ
Chập chững vời trăng treo lẻ loi
Một thuở thơ ngây chưa loạn lạc
Mẹ ru con ngủ tiếng ơi hời

Ơi hời non nước chiến chinh lung
Mẹ ẵm con thơ chạy khắp cùng
Hà Nội phố phường bùng khói lửa
Long Biên thây xác táp ven sông
Rời thành rừng núi rơi bom đỏ
Chạy giặc làng thôn nhuộm máu hồng
Trở lại nhà xưa hoa khế rụng
Thân già cha đứng trắng tay không

Không gian lồng lộng đất trời cao
Sừng sững thông xanh đứng tự hào
Nữ tú không sờn cơn bĩ cực
Nam nhi chẳng quản nỗi gầy hao
Bao la bốn bể tài năng góp
Bát ngát năm châu nhựa sống trào
Con cháu Trưng Vương lừng thế giới
Lo gì mắt sáng lộn vàng thau

Vàng thau, vàng đỏ, hoặc vàng đen,
Có xá chi đâu để muộn phiền
Thây kệ người ham danh cãi cọ
Dầu cho kẻ hám lợi bon chen
Gần ma chẳng sợ thành ma quỷ
Gặp dại không lo hóa dại điên
Một gánh hai bồ đầy chữ nghĩa
Hiền nhân tìm kiếm chốn thiên tiên

Thiên tiên ngây ngất chốn non bồng
Thấp thoáng bên hoa mấy bóng hồng
Nắng giãi đồi thơm vườn rực rỡ
Mây trôi nước biếc suối xanh trong
Vài giây thoát tục trời cho nhỉ!
Mấy phút quên đời người có không?
Ấn tượng yêu kiều mời đón khách
Mong ngày hội ngộ lại thong dong

Thong dong dạo bước quãng đường vui
Chẳng ngớt cho đi những nụ cười
Ca tụng hè xanh hoa trắng nở
Chào mừng thu tím lá vàng rơi
Ðông mưa bếp lửa nồng say lắm
Xuân nắng thơ văn lãng đãng hoài
Tóc liễu bên đồi chưa biếng chải
Hoàng hôn vẫn thắm kém gì ai?

Nguyễn Thị Ngọc Dung
Grounds for impressionist Sculpture



Nguyên Hà



Bút Hiệu : Nguyên Hà
Bút Hiệu khác : Lam Hà Vũ, Nguyên Vũ,
Sanh Quán : Bình Nguyên (Hà Lam) Thăng Bình,Quảng Nam .
Cựu Học sinh Trung Học Phan Chu Trinh Quảng Nam ( trước 1954)
Cựu Công chức từ 1954 đến 1975,
Trực thuộc Tổng Nha Ngân Khố SaìGòn, Bộ Tài Chánh .
Ðến Hoa Kỳ vào cuối năm 1992 theo diện đoàn tụ gia đình .
Hiện định cư tại City Tampa thuộc tiểu bang Florida .

- Tác phảm đã xuất bản : Quê Hương Dấu Yêu,.
- Ra mắt 2 CD Ngâm thơ, Tình tự Quê Hương & Tình Yêu .
- Năm 2007 sẽ ra mắt 2 tập thơ : Xướng Họa cùng các Thi Hữu
bốn phương và 1 tập thơ “Ðôi bờ thương nhớ” sắp in .
- Thành Viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại .
- Hội Viên Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ Florida .
- Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút/Florida, ÐNHK .

Nguyên Hà
Cổ Lai Hy

Thất thập cổ lai đã đến rồi
Dòng đời phiêu bạc tựa bèo trôi
Tang thương biến đổi đành xa xứ
Lạc bước thân trai buổi thiếu thời
Gạt bỏ lợi danh, xua bão táp ...
Chẳng màng phú qúy vượt trùng khơi
Ân tình trả sạch, lòng thanh thản
Cất tiếng reo vui miệng hé cười .

Miệng hé cười vui, sạch đắng cay
Chung trà sưởi ấm trọn tình này
Câu thơ xướng họa phương trời Bắc
Chén rượu khề khà chốn đất Tây
Cách biệt trời Nam câu tiếc nhớ
Chia lià đất Mẹ hận vơi đầy
Nhớ thương chồng chất tình đôi ngả
Bằng hữu chi giao khắp đó đây .

Ðó đây nhạt nắng khói chiều lam
Bến vắng đàn ai khảy tịch tan
Sóng nước chập chờn cơn gió thoảng
Ngàn mây lơ lửng, nắng phai tàn
Lân la dạo bước quên sầu hận
Thư thả tiêu dao cất tủi hờn
Nuối tiếc chưa tròn lời nguyện ước
Chung xây dựng lại phía trời Nam .

Dựng lại trời Nam, xếp lại chương
Mượn trang tình sử, đuốc soi đường
Kìa bao gương rạng, bầu tâm huyết
Ðậm nét vàng son, gởi máu xương
Nợ nước chưa tròn nơi chiến địa
Tình nhà dang dở - chốn sa trường
Ngày về, xin hẹn cùng non nước
Sạch bóng quân thù - trọn nhớ thương .

Thương nhớ chưa vơi, lại ngục tù
Lá vàng rơi rụng lặng sầu thu
Kẻ đi mang nặng lời ai oán
Người ở còn vương lấy hận thù
Bao nỗi đắng cay chưa gọt sạch
Mong gì xóa sổ vết bùn nhơ !
Ngục tù, bản án không cần biết
Sống giữa trần gian tựa kẻ mù .

Tựa kẻ mù đui, lỡ bước đường
Trẻ thơ khát sữa khóc đêm trường
Ai đang đói lạnh thân cùng khổ
Có kẻ huy hoàng tựa đế vương
Cũng một kiếp người sao phận bạc
Thôi đành khép kín biết đâu lường
Xa xôi nhắn gởi dòng tâm sự
Ấy gọi chút tình mến cố hương .

Cố hương cách biệt, lạnh lùng trôi
Thiên lý mã suy, chớ trách đời
Thế sự đảo điên nên quỉ lộng
Tình đời đen bạc xúi ma trơi
Trăng khuya chếch bóng sầu cô quạnh
Tỉnh giấc canh gà gáy lẻ loi
Tiếng khóc trẻ thơ đang khát sữa
Ầu ơ... Mẹ cất tiếng ru hời .

Ru hời.. Ru hởi hát mông lung
Như oán, như than nỗi khốn cùng
Dẫu hận ngàn đời, đâu đục bến
Dù căm mãn kiếp, chẳng hoen sông
Gian truân trôi nổi, hoàn tay trắng
Lận đận sầu vơi tủi má hồng
Há trách kẻ khinh, người quý trọng
Riêng mình, dẫu có cũng như không .

Có cũng như không, lại thấp cao
Tìm trong quốc biến rạng anh hào
Trai tài gắng sức rèn tâm lực
Gái sắc vẹn toàn chẳng tốn hao
Nợ nước sẵn sàng câu trọn đạo
Tình nhà tựa lớp sóng dâng trào
Mảnh gương kim cổ chưa mờ nhạt
Vàng đá bao giờ lẫn lộn thau .

Vàng thau lẫn lộn chắc gì đen
Ðen trắng phân minh chớ trách phiền
Phiền muộn làm chi thêm khổ lụy
Mặc ai khuấy đục, mặc bon chen
Mong cầu tự tại bên bờ giác
Ước nguyện an bình lánh đảo điên
Xuôi ngược dòng đời xa mấy nẻo
Trở về nhân thế cõi thần tiên .

Thần tiên nhẹ gót chốn non bồng
Cực lạc khoan thai rạng ánh hồng
Phiền muộn tan theo dòng nước đục
Thảnh thơi tỏ rạng đón trăng trong
Vô minh, ấy cõi trần gian đó
Ðuốc sáng từ đây sắc dị không
Cảnh tỉnh vị tha tình viễn xứ
Ngàn trùng nhẹ gót bước thong dong .

Thong dong nhẹ gót bước đời vui
Pháo tết mừng xuân, rộn tiếng cười
Chúc phúc mọi nhà Xuân lạc hỉ
Cầu mong đất Mẹ tạnh mưa rơi
Liú lo chim hót vang ca mãi
Rạng ánh bình minh nắng đẹp hoài
THẤT THẬP CỔ LAI cầu vạn thọ
Câu thơ xướng họa chẳng thua ai .

Nguyên Hà
Tampa, ngày cuối thu 2006 .


Trần Ðình Lộc

Trần Ðình Lộc

sinh năm 15-08-1932 tại Ðại Lộc - Quảng Nam

Cựu giáo chức và sĩ quan Quân Cảnh Ðiều tra

Tư pháp từ 1956 đến 30 04 1975.

Di tản đến Hoa Kỳ tỵ nạn sau 30 04 1975,

hiện định cư tại Oklahoma City. OK và đã nghỉ hưu.

Thích thơ và biết làm thơ lai rai từ 1945 tới nay




Cổ Lai Hy
Trần-Ðình-Lộc.

Ba mươi năm thấm thoắt qua rồi
Thế sự thăng trầm mây nổi trôi
Nước chảy xoi mòn dòng quá khứ
Hoa trôi héo hắt cuộc kim thời
Ðầu xanh xin đáp lời sông núi ...
Tóc bạc đền ơn tiếng biển khơi
Thấp thóang hoàng hôn bên cửa sổ
Chén thù, chén tạc mãi tươi cười

Tươi cười lòng dạ bớt chua cay
Thanh thản vui tươi tựa chỗ nầy
Mỏi gối xông pha trên đất Bắc
Chồn chân giẫm nát phía trời Tây
Năm châu gần lại tình vời vợi
Bốn biển kề nhau nghĩa chất đầy
Huynh đệ trời xa bao thắm thiết
Trần gian đẹp mãi khắp đâu đây .

Ðâu đây thấp thóang khói chiều lam
Buổi chợ đầu Xuân sắp sửa tan
Nắng nhạt trên cành còn luyến tiếc
Giọt sương trong lá vẫn chưa tàn
Vui Xuân xóa hết bao phiền muộn
Ðón Tết quên phăng mấy oán hờn
Ðất Việt ngàn trùng thương nhớ mãi
Quay nhìn cuối biển cõi trời Nam

Trời Nam còn đó bến Chương Dương
Vang dội quân reo khắp mọi đường
Xung trận xem thường bao máu đổ
Ra quân đâu sá đến tan xương
Ù ù gió thổi nơi tiền tuyến
Dõi dõi trăng soi bãi chiến trường
Tử sĩ hồn thiêng nghe dế khóc
Thỏ than sông núi gọi tình thương

Tình thương khác với chuyện lao tù
Nhẹ nhẹ thênh thang giọt nắng thu
Thôn xóm tràn đầy niềm phúc hậu
Xã làng xóa hết nỗi trường thù
Từ bi ngọn đuốc soi lòng đục
Hỷ xả bóng đèn đốt dạ nhơ
Nhân thế trau dồi câu đạo hạnh
Bình minh rực rỡ hết sương mù

Sương mù còn ngậm cỏ bên đường
Lữ khách đêm thâu khúc đoạn trường
Vắng vẻ trời xa trong luyến tiếc
Hắt hiu đất lạ lại tơ vương
Chia tay thủa ấy còn ly loạn
Hội ngộ từ nay hết nhiễu nhương
Bến cũ người xưa quay gót lại
Núi sông vang dậy tiếng quê hương

Quê hương biến đổi bóng câu trôi
Ngựa nản chân bon vạn nẻo đời
Ánh lửa lập lòe bầy đốm đốm
Sao đêm hiu hắt lũ ma trơi
Ðàn dơi eng éc rờn rờn rợn
Bầy hạc oang oang lẻ lẻ loi
Lành lạnh người về trong bóng tối
Lắng nghe tiếng gió gọi ru hời

Ru hời lạc lõng gió mông lung
Gởi gấm cho ai, chốn tận cùng
Ðò dọc đêm trăng nương sóng gió
Tiếng hò cô lái dội dòng sông
Ðêm tàn rừng núi còn mờ ảo
Rạng sáng sườn non tỏa ánh hồng
Du khách mơ màng nghe sóng vỗ
Mênh mông trời đất trống thinh không

Thinh không một giải vượt trời cao
Xóa hết binh đao hết chiến hào
Lạc nghiệp nơi nơi vui hưởng phúc
An cư chốn chốn chẳng hư hao
Lê dân hò hét vang rừng núi
Bá tánh reo vui đợt sóng trào
Trai gái, trẻ già muôn tiếng hát
Cùng nhau chung hưởng nghĩa vàng thau .

Vàng thau tẩy sạch vết nhơ đen
Tình nghĩa tiêu tan hết muộn phiền
Phú quý qua rồi thời vật lộn
Công danh chi nửa buổi bon chen
Trăng thanh, lưng ngựa say mê mệt
Gió mát, bò vàng lúc tỉnh điên
Non nước giang sơn bao gấm vóc
Thênh thang ngày tháng cảnh thần tiên .

Thần tiên vui cảnh tợ non bồng
Lạc thú tiêu dao rạng ánh hồng
Cây cỏ xanh tươi làn nước biếc
Ruộng vườn bát ngát ánh trăng trong
Thị phi bỏ hết không không có
Thế sự quên rồi có có không
Bước thấp, bước cao vui tuổi hạc
Thuyền con một mái nhẹ thong dong .

Thong dong tiêu hết thú an vui
Ðây đó vang vang giọng nói cười
Cuối thác rì rào dòng nước chảy
Ðầu ghềnh xào xạc cánh hoa rơi
Bảy mươi sức lực còn như vậy
Tám chục tâm can vẫn thế hoài
Già trẻ là do lòng mỏi mệt
Trăm năm gởi hết chốn trần ai

Oklahoma City , 21-11-2006 .
Trần-Ðình-Lộc.


Trần Thiện Hiếu
Trần Thiện Hiếu sinh năm 1925 tại Ninh Bình, Giáo Sư Trung học, Quản đốc đài phát thanh Ba Xuyên, Ðại diện thông tin VNCH tại Lào. Chỉ làm và đăng thơ một cách tài tử trên các báo ở Saigon trước 1975. Hiện định cư tại Úc Châu.

Cổ Lai Hy
Trần Thiện Hiếu

Bảy chục mừng ai đã đạt rồi
Ngoảnh nhìn dĩ vãng tựa mây trôi
Trăm năm phù mộng lưu nơi thế
Nửa kiếp trần ai đợi chữ thời
Sương khói mịt mờ chân hóa ảo ...
Tình du lãng đãng cạn cùng khơi
Mười năm nhắc lại trò chơi cũ
Bát ngát hồn thơ ngạo nghễ cười

Cười rung trời đất mắt cay cay
Cõi thế lưu chăng một thú này
Năm trước mai vàng say đất Bắc
Bây giờ đào đỏ úa trời Tây
Hồn xưa man mác sầu còn đó
Nước cũ bâng khuâng lụy vẫn đầy
Tám hướng mười phương trời lộng gió
Tinh thần phục quốc vẫn là đây

Phải đây nơi cũ bến sông Lam?
Nét đẹp đất trời đã biến tan
Sơ xác trăng vàng cây lất phất
Hắt hiu vượn hú cảnh điêu tàn
Màu xanh sao nỡ không xanh nữa
Mây trắng ai hay ngập trắng hờn
Hai chữ quê hương nghe mới tủi
Còn đâu kiêu hãnh giống nòi Nam

Gió Nam hiu hắt viết vài chương
Sương tuyết âm u vạn nẻo đường
Bút mực thêm buồn cho vận nước
Văn thơ càng buốt tới da xương
Trăng vàng gợi cảm ngàn thi hứng
Giấy trắng nào ghi vạn hý trường
Muốn gửi cho nhau lời chúc tụng
Năm châu phơi phới một trời thương

Chữ thương ai nỡ nhốt cầm tù
Cho sắc hoa sầu dưới nguyệt thu
Phơi phới gió chiều dâng cảm hứng
Mịt mờ sương sớm lạnh căm thù
Một trời vân cẩu bay bay mãi
Trọn kiếp sai lầm rửa rửa nhơ
Liệu đến bao giờ non gặp nước
Cho non cho nước bớt mây mù

Sương đã tan chăng nắng ngập đường
Cho người vui lại cảnh xuân trường
Tầm dương trăng tỏ tình phơi phới
Hạ giới rượu mừng ý vấn vương
Trời cũng say vùi là thế thế
Ðất còn quay tít giữa nhương nhương
Nước non vẫn đó như mời gọi
Dựng lại quê nhà ngát ngát hương

Quê nhà tủi hận nuốt không trôi
Oán vút trời xanh đến mấy đời
Thẹn với tổ tiên vì quỷ đỏ
Ngượng cùng thiên hạ bởi ma trơi
Có ai dám nói câu tâm sự
Nhìn bóng thêm buồn chữ lẻ loi
Bầu rượu túi thơ câu thế sự
Chập chờn say tỉnh bóng ma Hời

Ma hời chấp chới nghĩ mông lung
Giấc mộng trẻ trai dệt chửa cùng
Tưởng đã thành công danh khắc đá
Ai ngờ mộng hão sóng tràn sông
Ðầy trời mây trắng bay vần vũ
Khắp cõi trăng khuya ngả sắc hồng
Mắt biếc mày ngài duyên má thắm
Bơ vơ thuyền lẻ cõi hư không

Thu đã về chăng giữa núi cao
Bướm ong quy tụ đón thi hào
Tình dâng mực thắm: vần thơ đẹp
Giấy viết thơ cuồng: ngọn nến hao
Mây trắng giăng giăng cơn hứng dậy
Trăng vàng dìu dịu ý tuôn trào
Sô bồ tám cõi ai chân thiện?
Ai biết ai vàng? ai biết thau?

Vàng thau lẫn lộn giữa đêm đen
Thì trách làm chi cái não phiền
Hai chữ công danh thời chửa đến
Một đời phú quý bước đua chen
Phù du ngẫm kiếp lòng ngao ngán
Sân khấu say trò lúc đảo điên
Chấp cánh thôi thì du nguyệt điện
Cõi trần lánh tạm nhập cùng tiên

Cõi tiên phơi phới cánh non Bồng
Ngan ngát hương say vạn cánh hồng
Xào xạc gió chiều mây phấp phới
Lênh đênh thuyền lẻ nước xanh trong
Triền miên sóng vỗ quanh bờ liễu
Tịch mịch sương đầm cảnh sắc không
Trong cõi trăm năm trăm vạn khổ
Cửa thiền rộng mở bước thong dong

Thong dong nghĩ lại thế mà vui
Rộn rã non sông những tiếng cười
Cánh bướm chập chớn hoa ngát ngát
Cành đào phất phới lá rơi rơi
Trời cao thăm thẳm mây bay mãi
Rừng biếc xanh xanh gió động hoài
Thất thập mừng nhau đời hiếm có
Mười bài xướng hoạ gửi cho ai...

Trần Thiện Hiếu


Trần Văn

Trần Văn sinh năm 1920, đã từng là giáo sư tại đại học Paris, Pháp, chuyên nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền dân tộc. Hiện về hưu, nhạc ngựa bò vàng đủng đỉnh tại quê hương. Vì một lẽ riêng tác giả không muốn ghi rõ tên thật và hình ảnh.

Cổ Lai Hy
Trần Văn

Thoáng chốc mười năm, bảy chục rồi
Bao nhiêu thù hận cũng cho trôi
Hà thành vẫn đó màu thanh lịch
Nước Việt còn kia buổi cựu thời
Chân mỏi đã đành khi tuổi thọ ...
Nước trong lại hiếm giữa dòng khơi
Qua vòng hoa giáp khi nhìn lại
Ít nữa còn dăm bảy trận cười

Thôi hãy quên đi mọi đắng cay
Lại riêng vui thú những vần này
Kẻ còn ngất ngưởng nơi vùng Bắc
Người thấy bơ vơ giữa đất Tây
Chính sách toàn cầu nghe đã sáng
Quan tâm thế giới nghĩ thêm đầy
Mùa đông lạnh lẽo rồi qua hết
Lại thấy mùa xuân trở lại đây

Ai về Hồng Lĩnh tới sông Lam
Nỗi oán hờn xưa chắc đã tan?
Lũ trẻ xem chừng đang cố gắng
Bọn ta nghe đã sắp suy tàn
Hãy mua lấy chút tình lân lý
Thôi buộc làm chi nỗi oán hờn
Vẫn núi, vẫn sông muôn thuở đó
Vẫn còn sừng sững giữa trời Nam

Trời Nam rộn rã khách văn chương
Trăm vạn cùng chung một ngả đường
Khơi mãi thêm đau dòng đỏ máu
Tìm làm gì nữa đống trơ xương
À thì cũng giống trò hư ảo
Mà lại xem như cuộc hý trường
Ngửa mặt thử trông vầng nhật nguyệt
Biết bao giờ hết cảnh tang thương?

Hãy cố dẹp tan hết tội tù
Vết nhơ đừng để đến ngàn thu
Bạn bè không lẽ coi như giặc?
Chú bác làm sao lại cứ thù?
Sông núi hãy làm căn phố mới
Nước nhà lấp hết chỗ bùn nhơ
Tình thương lẽ sống con người đó
Sao lại đường xa cứ mịt mù?

Nghĩ ra chỉ có một con đường
Già được yên thân, trẻ đến trường
Tấc dạ năm xưa còn khắng khít
Nỗi lòng thuở ấy vẫn tơ vương
Ðã mong dựng lại trời dân chủ
Quên hết khi lâm chuyện nhiễu nhương
Ta lại trở về thôn xóm cũ
Hoa cau, hoa bưởi nức mùi hương

Bao nhiêu oan trái hãy cho trôi
Làm lại từ đây những cuộc đời
Lạnh lẽo canh trường trò ảo hóa
Lập lòe đêm tối bóng ma trơi
Bắc nam ta vẫn còn đông đủ
Bè bạn mình đâu có lẻ loi
Lịch sử còn kia xin ngắm lại
Hay chi diệt chủng giống dân Hời

Hôm nay thơ họa nhớ mông lung
Nỗi nhớ làm sao nhớ chẳng cùng
Nghĩ ánh trăng vàng trên mặt bể
Thương làn gió mát giữa dòng sông
Mình xin mỗi bạn vài ly rượu
Ta hái cho nhau những đóa hồng
Bảy chục, tám mươi, tôi với bạn
Coi như tất cả cũng là không

Có thế bạn mình mới thật cao
Dẫu chưa gì nữa, học anh hào
Sao đem lưỡi rắn phun lời độc
Nỡ để dầu khô ngọn bấc hao
Tất cả chẳng qua là hý kịch
Chung quy cũng lại chỉ phong trào
Thôi về chép lại trang hùng sử
Ðừng để vàng kia lộn với thau

Ðừng để non sông phải nhuộm đen
Rũ đi tất cả mọi ưu phiền
Văn minh bốn bể đua nhau học
Khoa học năm châu cất bước chen
Xỏ lá, ba que, thây tụi ngợm
Bàn hươu, tán vượn, mặc phường điên
Ðồng bào tất cả nêu gương sáng
Ta vốn con Rồng lại cháu Tiên

Ðâu lẽ mình như đám cỏ bồng
Nhìn ra nam bắc một màu hồng
Ân tình muôn thuở đang nồng đượm
Tâm sự ngàn năm vẫn trắng trong
Ðã có thì đâu mà chẳng có
Khi không tất cả cũng đều không
Mùa hè áo rộng, dăm người bạn
Ngựa thắng yên rồi cứ thẳng dong

Ta lại cùng nhau mở cuộc vui
Bên nhau bát ngát mãi cơn cười
Hãy làm tất cả cho vui lại
Ðừng để bao giờ giọt lệ rơi
Vắng bạn lại càng thương bạn lắm
Xa nhau vẫn cứ nhớ nhau hoài
Mừng nhau tuổi hạc thêm phơi phới
Và cám ơn lòng vẫn nhớ ai

Trần Văn

Trường Giang
Bút hiệu : Trường Giang

Tuổi : 1928. Sinh quán : Bắc Việt Nam

TRƯỚC NĂM 1975 :

* Sỹ Quan Q.L.V.N.C.H. từ 1951 đến 1975

SAU NĂM 1975 :

* Bị ở tù Cộng Sản : Từ 6/1975 đến 9/1987

* Biết sáng tác thơ từ ngày ở tù Cộng sản (1975)

* Ðến Hoa Kỳ năm 1992. Hiên định cư tại

San Jose, California

* Ðã có thơ đăng trên một số Nhật Báo, Ðặc San

vàTuần Báo tại Canada và Hoa Kỳ,

* Thơ đã in chung trong các Tuyển Tâp :

- Bốn Biển Thơ Chung (1994)

- Một Phía Trời Thơ 1 (1995)

- Xuân Thu (1998)

- Một Hướng Ði (2000)

- Hoa Giáp Ðông Anh (2000)

- Một Phía Trời Thơ 5 (2002)

- Tuyền tập Hoa Vàng (2003)

- Thi Văn Viễn Xứ (2005)

- Hoa Thơ Bốn Phương 1 (2005)

* TỰ XUẤT BẢN : Một Rừng Chính Khí (2000)

Cổ Lai Hy

Trường Giang

Bảy chín trời ban, thọ quá rồi,
Cuộc đời chi khác áng mây trôi.
Vân Hương Thánh Ðức lòa muôn thuở,
Kiếp Bạc Thần Uy rạng vạn thời.
Nhớ đến quê xưa muôn dặm thẳng,
Thương về nước cũ vạn trùng khơi.
Xứ người hạnh phúc, văn minh quá,
Vẫn chẳng vui chi hé nụ cười ...

Nụ cười xóa sạch đắng cùng cay,
Ðể sống yên vui trọn kiếp này.
Phải nhớ độc tài vùng đất Bắc,
Ðừng quên chuyên chính cõi trời Tây.
Gia quy muôn trước không hề cạn,
Quốc pháp nghìn sau mãi vẫn đầy.
Ðất nước phú cường con cháu hưởng,
Rỡ ràng văn hiến vẫn còn đây.

Ðây vẫn lừng danh chốn núi Lam,
Lưu truyền thiên hạ khó bề tan.
Niềm tin cả nước không hề mất,
Ý chí toàn dân chẳng thể tàn.
Nam Bắc tràn đầy nhiều nghiệt ngã,
Ðông Tây ngập ngụa lắm oan hờn.
Năm Châu con cháu nòi Hồng Lạc,
Mãi khắc trong lòng tiếng Việt Nam.

Nam Bang đầy dẫy khách văn chương,
Có bọn u mê bước lạc đường.
Ðã chẳng thân yêu đâm thắm máu,
Lại còn ghét bỏ đập mềm xương.
Phía dùng đạo lý bồi nhân phẩm.
Bên lấy nhân luân tạo đoạn trường.
Ðất nước vì đâu tan nát thế ?
Chẳng còn tình nghĩa, hết yêu thương...

Thương kẻ sa cơ chịu ngục tù,
Ngút ngàn cay đắng đến nghìn thu.
Toàn dân xơ xác tràn oan nghiệt,
Cả nước tan hoang ngập hận thù.
Những ước quê Cha không vấy bẩn,
Chỉ mong đất Tổ hết vương nhơ.
Trẻ già tận lực xây cương mục,
Tú khí, chung linh lấp mịt mù.

Mịt mù oan khuất khắp đầu đường,
Bày đặt hay chi tạo đoạn trường.
Chuyên chính đã tan chưa dứt bỏ,
Ðộc tài dù rã vẫn tơ vương.
Hùa nhau giở giói trò thâm lạm,
Cấu kết đặt bày cảnh nhiễu nhương.
Viễn xứ đau lòng thương cố quốc,
Nỗi lòng ray rứt nhớ quê hương.

Quê hương nghiêng ngửa tựa mây trôi,
Thất thế, sa cơ buổi đổi đời.
Thấp thoáng đêm tàn như quỷ sứ,
Lập lòe khắc lậu tựa ma trơi.
Hồi chuông ngũ giới còn vương vấn,
Tiếng mõ tam quy hết lẻ loi.
Trút bỏ hận thù noi chánh đạo,
Chẳng còn văng vẳng giọng ru hời.

Ru hời vang vọng cõi mung lung,
Tiếng hát du dương khắp tận cùng.
Cò lả véo von, vang cuối ngõ,
Trống quân réo rắt động bên sông.
Quên sao bằng hữu phơi xương trắng,
Nhớ mãi anh em đổ máu hồng.
Gác bỏ ngoài tai câu oán hận,
Tiền tài, danh vọng có rồi không...

Không cần danh vọng mới thanh cao,
Quyền lực đôi khi giá một hào.
Bán đứng biên cương, xương vẫn tốn
Buôn non hải đảo, máu càng hao.
Tụng kinh Bát Nhã như mây cuốn,
Niệm kệ Lăng Nghiêm tựa sóng trào.
Một giải giang sơn bao quý giá,
Vàng ròng sao lại sánh cùng thau.

Thau dù lấp lánh vẫn pha đen,
Chước quỷ mưu ma, chuốc lụy phiền.
Lắm kẻ quàng xiên thường chấp nhất,
Nhiều người ngạo ngược vẫn bon chen.
Bất tài mưu lợi ưa xu nịnh,
Vô hạnh cầu danh, thích đảo điên.
Tục lụy xưa nay là nghiệp chướng,
Mơ màng vẫn tưởng chốn non tiên.

Tiên cảnh huyền môn há bập bồng,
Bầu trời bát ngát rực màu hồng.
Xa vòng danh lợi, lòng thanh thản,
Bỏ chốn quyền uy, dạ trắng trong.
Ðịa ngục giam người không nói có,
A Tỳ trị kẻ có hô không.
Ai cầu chuyển nghiệp qua bờ giác,
Bát Nhã thuyền từ gắng ruổi dong.

Ruổi dong tìm đến chốn tươi vui,
Nhộn nhịp ca vang, rộn tiếng cười.
Xóm dưới muôn màu đàn bướm lượn,
Làng trên trăm sắc đóa hoa rơi.
Tuổi già con cháu mong ngoan mãi,
Sức yếu anh em ước khỏe hoài.
Ngũ đại đồng đường mừng tuổi thọ,
Lộc trời thất thập những ai? ai???

6-10-2006
TRƯỜNG GIANG



Vệ Tuận


Vệ Tuận
Sinh năm 1928
Nguyên quán : xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam
Trước năm 1975 : phục vụ tại ty giáo dục Quảng Nam
Sau năm 1975: Ði cải tạo 5 năm. Sau đó về làm nông.
Năm 1996 : định cư tại Hoa Kỳ (bang Texas) theo diện H.O.

Ðịa chỉ: 5524 Ridge View Dr., Watauga, TX 76137
Ðiện thoại: (817) 793-5849

Cổ Lai Hy
Vệ Tuận

Tuổi cổ lai hy đã quá rồi
Nước mây ngày tháng hững hờ trôi
Phế hưng triều đại đà bao lớp
Vinh nhục thân danh cũng một thời
Quê cũ nhìn về xa vạn dặm ...
Người xưa nhớ lại khuất ngàn khơi
Kịch đời thỉnh thoảng ngồi xem lại
Lúc lệ thầm rơi, lúc nín cười

Cười ra nước mắt ngẫm càng cay
Ai đã gây nên cớ sự này
Sáu khắc bàng hoàng đau tấc dạ
Năm canh thổn thức chạnh niềm tây
Trà ngon thiếu khách nghiêng bình cạn
Rượu quí cùng ai rót chén đầy
Phản bội! người ơi xin nhớ lại
Ai từng minh thệ :“có ta đây” ?

Ðây miền thắng cảnh với danh lam
Ý chí kiên cường há dễ tan
Có khách anh hùng vung kiếm thép
Có người lãng mạn tiếc hoa tàn
Có ta tin bạn đành ôm hận
Có bạn lừa ta ắt ngậm hờn
Viễn xứ nhìn trăng mơ cố lý
Ðau lòng chim Việt nhớ cành Nam

Nam bang lịch sử thắm từng chương
Thủy bộ giao thông tiện mọi đường
Thuở trước ông cha từng thịnh trị
Ngày nay con cháu hẳn vinh xương
Công nhân nổi tiếng nơi cơ xưởng
Thương nghiệp lừng danh chốn thị trường
Gặp lúc thiên tai gây thống khổ
Nhường cơm xẻ áo rộng tình thương

Thương kẻ vì dân chịu tội tù
Dãi dầu nắng hạ với sương thu
Ngày đêm vắng lặng câu hòa xướng
Hôm sớm đìu hiu chén tạc thù
Trí giả tặng dành cho tiếng tốt
Ngu nhân áp đặt lấy danh nhơ
Nhìn quanh nhân thế còn vui thấy
Mù mắt mà tâm chẳng bị mù (a)

Mù lòa nhưng chẳng bước sai đường
Thọc gậy chừng như cũng sở trường
Biết cận kẻ tầm tiên lánh tục
Biết xa người đoạt bá đồ vương
Nghinh xuân tiếp phước dâng lời nguyện
Giải nạn trừ tai sắm lễ nhương
Trời đất ban ơn, đồng cảm tạ
Ðền đài chốn chốn ngát hơi hương

Hương sắc Kiều nhi phận nổi trôi
Tiên Ðiền thi phẩm tiếng muôn đời
Hiếu tình hai lẽ nên cân nhắc
Thiện ác đôi bề phải vạch, trơi
Mến mộ, Từ Công yêu lại ấp
Hờn ghen, Hoạn Thị đánh rồi loi (b)
Canh khuya văng vẳng lời rên rỉ
Như tiếng vang ra tự tháp Hời

Tháp Hời nhìn xuống thấy mông lung
Thịnh thế nào hay lúc khốn cùng
Ỷ lại đôi xe toan vượt cảnh
Khinh thường một chốt đã sang sông
Vua Chiêm ve vuốt chòm râu bạc
Gái Việt trau tria mảnh má hồng
Sự nghiệp, công danh đều mộng ảo
Ðường về chơn cảnh vẫn tay không

Không ham chức trọng với quyền cao
Dân Việt xưa nay đáng tự hào
Chống giặc xâm lăng nhiều tốn kém
Trừ quân phiến loạn lắm tiêu hao
Băng rừng nào sá cơn mưa lũ
Vượt biển liều cho ngọn sóng trào
Nuốt hận tin lầm tên thợ bịp
Tưởng là vàng thiệt, té ra thau

Thau làm vàng giả, trắng bôi đen
Lầm bọn gian manh quá lụy phiền
Việc nghĩa điều nhân lo trốn tránh
Ðường danh ngõ lợi cố bon chen
Tiểu nhân đắc thế mong thành Thánh
Quân tử ưu thời lại giả điên
Khoa học văn minh tìm chẳng thấy
Ai người “hậu lợi, nghĩa vi tiên” ? (c)

Tiên cảnh nghe đâu ở đảo Bồng
Nơi đây nghìn tía với muôn hồng
Qua sông nhận biết lòng sâu cạn
Xuống bến tinh tường nước đục trong
Xử thế không lo đen đổi trắng
Giao tình nào sợ có rồi không
Bao giờ thuận tiện đi xem thử
Giương cánh buồm lên thẳng ruổi dong

Ruổi dong tiên cảnh dạ mừng vui
Năm tháng toàn nghe tiếng hát cười
Hũ gạo nấu luôn không thấy hết
Túi tiền tiêu mấy chẳng hề vơi
Vườn sau lan huệ tươi màu mãi
Sân trước đào mai thắm sắc hoài
Quá tuổi cổ lai.. nên chuẩn bị
Sẵn sàng xa lánh chốn trần ai .

Vệ Tuận

(a) Theo nghĩa câu “ manh mục bất manh tâm”
(b) một kiểu đánh bằng nắm tay
(c) Theo ý câu “ Tiên nghĩa nhi hậu lợi giả vinh,
tiên lợi nhi hậu nghĩa giả nhục”


Băng Ðình

Tên thật : Vũ Băng Ðình
Sinh năm 1935, tỉnh Thái Bình
Thuyền nhân 1989, Mã Lai
Học sinh Tam, Nhị sinh ngữ Chu Văn An Hà Nội ( 1952 -1954)
Xuất thân : Tình nguyện nhập ngũ khóa 6 SVSQ Trừ Bị Thủ Ðức ....
Chuyên Môn : Phóng viên thời sự, Ðạo diễn truyền hình Ðiện ảnh.
Phóng viên Ðặc Trách Dinh Ðộc Lập nền Ðệ Nhất Cộng Hòa.
Quản đốc Trung Tâm Quốc Gia Ðiện Ảnh kiêm Chánh Sự Vụ sở Thời Sự Truyền Hình Việt Nam kiêm Trưởng phái đoàn báo chí Phủ Tổng Thống nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.
Trại tù : Trảng Lớn, Long Khánh, Suối Máu, Yên Bái, Phố Lu, Tân Lập ( Vĩnh Phú) Thanh Lâm ( Thanh Hóa).
Gốc HO 1 song tự ý đi trước (vượt biên)
Cộng tác : Trước 75 : Báo chí, Truyền hình điện Ảnh Quân Ðội.
Sau 75 : Văn nghệ Tiền Phong hải ngoại.

Băng Ðình là bạn cố tri. Khi ra trường ông về phục vụ cùng đơn vị với Ðông Anh, tiểu đoàn 3/12 sư đoàn 4 dã chiến, đóng tại Phước Tuy. Cùng tham gia cuộc thao dượt đầu tiên của quân đội có tên là Thao Dượt Ðông Phong trên địa bàn Phan Thiết, Phan Rang. Ðời lính mỗi người một nẻo. Phải đến năm 1990, nhờ những tờ tuần báo, nguyệt san ấn hành tại Hoa Kỳ hai người mới biết được tin nhau. Trải qua 17 năm tại đất tạm dung, chúng tôi cũng gặp nhau được đôi lần, nhưng trên tình nghĩa văn thơ thì gần như kết hợp chặt chẽ. Cách đây mười năm Băng Ðình “nối điêu” bài Sáu Mươi để hình thành tập Hoa Giáp Ðông Anh. Nay ông lại dùng thơ lục bát để họa ý 12 bài Bảy Chục của Ðông Anh. Do vậy bài của ông mới được đặt sau cùng trong tập thơ xướng họa này. Tình bạn có thủy có chung.

Cái Con Tạo

Nực cười tốt hỉn dượt xe
Ðành mang Lục Bát ra đè Thất Ngôn
Bẩy mươi gồm bẩy số mười
Lòng hoa lòng bướm lòng người lòng ta
Ngậm ngùi cố quận Thành Loa
Thành Rồng Hànội dáng ngà còn thương
Mòn chân qua những nẻo đường
Áo xưa tím ngát một phương trời sầu
Cái còn là cái còn nhau
Một Hoa Giáp chấm một câu Lỡ Làng

“Ðem thân đi bỏ chiến tràng”
Ngờ đâu gẫy súng tan hàng bỗng dưng
Cỗi cằn sỏi đá Miền Trung
Canh trời gác biển vẫy vùng theo quân
Trị Thiên Vùng Dậy cổ thành
Thấp thao mây núi gập ghềnh Trường Sơn
Cao Nguyên thống hận nào hơn
Cổ lai hy tận oán hờn chưa tiêu

Quảng Nam Quảng Tín đìu hiu
Ai về Quảng Ngãi nhớ chiều Ba Gia
Ðạn reo Thạch Trụ chiến ca
Mũ Nâu Biệt Ðộng chói lòa gươm thiêng
Chiến trường Bình Ðịnh Phú Yên
Khánh Hòa cát trắng gió lên ngọn cờ
Phan Rang Phan Thiết sững sờ
Súng ghìm tay bút nhả thơ vào trời

Ban Mê Thuột khuất xa rồi
Kiêu Hùng đâu nữa hỡi người Kontum
Pleiku xe pháo súng gươm
Ðường mòn số Bẩy chết chùm quân dân
Hai Quân Khu xóa một lần
Lâm Ðồng Tuyên Ðức mùa xuân chẳng về
Tiểu Khu Phú Bổn não nề
Rớt theo Quảng Ðức chưa hề động binh

Quân Khu Ba gánh tội tình
Sàigòn hấp hối từ Dinh “Ðầu Rồng”
Nguyễn rơi Trần rụng Dương hòng
Thời cơ chín đợi mười trông đầu hàng
Ðất trời Chương Thiện ầm vang
Thân trai cùng lá Cờ Vàng tung bay
Bắn cho hết đạn trắng tay
Giữ thêm mảnh đất một ngày Tự Do

Sao di sao tản sao mờ
Sáng Năm Sao Sáng đôi bờ tử sinh
Chưa thua phải chịu nộp thành
Tướng Quân một lựa chết vinh sống hèn
Sử vàng chói lọi đề tên
Những trang quốc sĩ người hiền Ðông Phương
Sòng đời trơ ván nhiễu nhương
Hồn thiêng muôn thủa còn vương Quốc Kỳ

Nẻo đi chẳng hẹn đường về
Chân không lính bộ nón mê đội đầu
Chặt tre chém gỗ ngả vầu
Khẩn hoang nương rẫy làm trâu kéo cầy
Xích xiềng cải tạo đắng cay
Thù vơ oán chạ đọa đầy chết thôi
Lính bay ngước mắt nhìn trời
Mênh mông lính thủy trông vời biển xanh

Dọc ngang mấy thủa tung hoành
Nằm meo mình lại thương mình sa cơ
Bình Long Anh Dũng pháo mưa
“Ðiện Biên” sừng sững ngọn cờ quyết tâm
Mùa Hè nối Tết Mậu Thân
Lòng dân nguyện với lòng quân một lòng
Ðồn xa vợ tiếp tay chồng
Cho bầy con dại thoát vòng oan khiên

Người người vượt biển vượt biên
Tìm trong cõi chết ra miền tạm dung
Hát Ô cất bước ngại ngùng
Cố hương biền biệt ngập ngừng gót ai
Tóc sương gánh nặng đường dài
Sắt son son sắt tàn phai tháng ngày
Cái còn là chúng mình đây
Trở cờ là thỏang gió bay lạc mùa

Cờ thiêng dù khuất thành xưa
Còn vang khúc nhạc quân vừa lập công
Miền Tây Bất Khuất Cửu Long
Khắp Quân Khu Bốn vạc đồng ba chân
Về trời chư tướng sát thân
Ngàn năm chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa
Máu hùng trổ thắm mùa hoa
Treo gương sử Việt muôn nhà cùng soi

Mũ Xanh Mũ Ðỏ một thời
“Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên”
Quân Binh Chủng khắp mấy miền
An dân bảo quốc lời nguyền khắc ghi
Ðộ nào xếp bút ra đi
Ðất Hồ hẹn một ngày về nhớ chăng
Ngờ đâu sóng dậy đất bằng
Nhà tan nước mất nhố nhăng trò hề

“Giặc chưa yên tuổi đã già
Ðất trời chẳng hẹn hàm ca chén vàng
Vận may bần cố rỡ ràng
Anh hùng mạt lộ ngẫm càng chua cay
Nguyện cùng địa trục ghé vai
Hận không binh giáp một ngày lập công
Quốc thù nợ trả chưa xong
Bạc đầu mấy độ trăng trong kiếm mài”

Băng Ðình
2006


Biển Chiều Thơ

Kính họa một bài trong Chùm Hoa Tho “Cổ Lai Hy”ỳ
của Thi Sĩ Ðông Anh

Vườn thơ tao ngộ ý xuân vui
Trần thế gì hơn lãi tiếng cười
Ngõ Trúc long lanh sương sớm đượm
Rừng Lan bảng lảng bóng chiều rơi
Vào trang thế sự trăng u uẩn
Lắng khúc tri âm bút cảm hoài
Bụi đỏ... Kiếm Hồ sầu lớp lớp
Biển chiều thơ thả những ai ai ?

Tuệ Nga

Oregon
Mùa Thu 2006


Gọi Là (Hậu) Tựa

Vừa Hoa Giáp Ðông Anh mới đó
Ðã bây giờ bảy bó rồi sao?
Thời gian cứ một cái ào!
Cuộc đời là giấc chiêm bao thật à?
Mới dạo nọ trong nhà cải tạo
Bọn chúng mình ba xạo, còn trai...
Cộng bèn đem nhốt dài dài
Thả ra người ngợm giống ai bây giờ?
Còn chiến đấu dưới cờ không hả?
Sang Hoa Kỳ giờ đã bảy mươi
Nhìn anh, tôi chỉ mỉm cười
Lại càng quý hóa con người hiền lương
Sau hay trước lập trường vẫn vậy
Nhưng bây giờ chống gậy vào ra
Dẫu sao mình cũng đã già
Ðâu còn hăng hái như ta thuở nào?
Thù hận cũ xếp vào dĩ vãng
Bọn chúng mình lãng đãng cùng thơ
Mới hay nhĩ thuận (1) không ngờ
Chẳng vui tuổi hạc bây giờ cũng vui
Ta từng nếm ngọt bùi đủ cả
Vị đắng cay cũng chả thiếu gì
Ngẫm ra thật cũng ly kỳ
Ðầu kia lại bạc chỉ vì sống lâu
Lại nhớ đến những câu tình nghĩa
Không có tình hồ dễ còn ta?
Cho nên vui với tuổi già
Trăm giông, ngàn bão vẫn là còn nhau
Còn bè bạn trước sau như một
Ðem lòng thành gieo hạt từ bi
Tuy chưa học lẽ vô vi
Cũng đà thấm mệt bên lề thời gian

Hà Thượng Nhân

(1) Lục thập nhĩ thuận

Hậu Từ

Nhân đọc lại cuốn Hoa Giáp Ðông Anh, chợt nhận thấy rằng mình đang bước vào tuổi bảy mươi. Mới đó mười năm đã qua đi, nay chen chân vào hàng lão giả, được mệnh danh là tuổi xưa nay hiếm, nên bèn mượn vần thơ xưa cho tuổi mới.
Ðành rằng tuổi đời không ai trẻ mãi, nhưng với tuổi này vẫn còn đi đó đi đây, vẫn còn gặp bằng hữu hàn huyên thì đó vẫn là nguồn hạnh phúc trời cho. Trời cho và bè bạn cũng cho. Bài thơ Bảy Mươi gửi đi lập tức các bài họa gửi về. Thơ phong mỗi người một vẻ. Mạnh mẽ thêm hào hùng. Êm đềm mà bóng bẩy. Mỗi câu, mỗi chữ đều gửi gấm ngàn tâm sự. Có những bạn còn xa mới đến tuổi bảy mươi, nhưng cũng gửi bài họa như là chuẩn bị cho bước đường tương lai trước mặt. Có những bạn đã vượt qua tuổi bảy mươi một chặng đường dài, đã từng họa trong Hoa Giáp Ðông Anh, nay lại tiếp tục cùng Vui Tuổi Hạc với những vần thơ trẻ trung tha thiết bên tuổi cổ lai hy. Có những bạn từ bốn phương gửi đến như những tiếng chuông vàng đáp lại lời chim hót nơi góc biển chân trời. Những tấm lòng rộng mở ấy không cách chi đền tạ được.
Bảy mươi là tuổi về chiều may ra được như cây thông trên vách núi, như cánh hạc chốn đầu non, tiếp tục vui với bình minh buổi sớm và thiền định trong bóng chiều, ngâm vịnh hoàng hôn. Ấy là niềm hạnh phúc trên đời. Ấy là niềm hoan lạc trong văn thơ kim cổ.
Nay Vui Tuổi Hạc được ấn hành, trước là tạ lòng tri kỷ bốn phương, lưu giữ những vần thơ hiếm quý và sau xin đa tạ chút tình.

Ðông Anh
07/2007

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.