Oct 06, 2024

Tập thơ

Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲) của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) * đăng lúc 08:24:50 PM, Apr 02, 2024 * Số lần xem: 754
Hình ảnh
#1

                      * đăng lúc 03:47:41 AM, Nov 26, 2016 * Số lần xem: 597

           Chinh Phụ Ngâm (征婦吟) Bản Chữ Nôm
Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲)

   của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch 
 



Bản diễn Nôm này từng được xem là của Đoàn Thị Điểm,
hiện nay có ý kiến cho là của Phan Huy Ích.



Chữ Nôm    

𨤧𡗶坦常欺񣢅𡏧
客𦟐紅𡗉餒迍邅
撑箕𠽉瀋層𨕭
爲埃𨢟孕朱𢧚餒尼
𪔠長城龍񠈘𩃳月
𤌋甘泉𥊚䁾式𩄲
𠃩吝鎌宝𢶢𢬣
姅񠞭傳檄定𣈗出征
渃清平𠀧𤾓𢆥𡳵
襖戎𢭂官武自低
使𡗶𣌋𠽖塘𩄲
法公񠒻重念西詫񠆒
塘𨀐񠗈𨉞㧅弓箭


𩃳旗㗂𪔠賖又
愁𨖲𦰟隘怨񠒾񠢞房
払歲𥘷本𣳔豪傑
摄筆硯蹺񠡡刀弓
城連矇進陛𧏵
𡱩鎌㐌决񠟜容賊𡗶
志爫񠞊𨤵𠦳䏧馭
招泰山平度鴻毛
񣕅茄㧅幅戦袍
㗂榑橋渭遁𠓨񣢅秋

外頭梂渃𤄯如𤀓
塘边梂𦹵木群𡽫
迻払𢚸弋又𢞂
步坤平馭水坤平船
渃𤄯沚𢚸煩񠟝𤂩
𦹵撑𦹳胣𢖵空񠂚
啂耒𢬣吏𢭂連
𨀈跢𠬠𨀈吏援襖払
𢚸妾似𩃳𦝄蹺唯
胣払賖񠙍𡎝𠦳𡽫
撻񣕇餞𢱖龍泉
指昂𦰟槊𠓨岸𧯄豹
𤢈楼蘭浪蹺介子
細蠻溪盤事伏波
襖払𧺃似𩄐坡
馭払色𤽸如񠒻雪印
㗂樂馭吝擅㗂𪔠
夾𩈘耒丿俸񠭼𢬣
河梁񠭼𢬦塘尼
边塘񣟘𩃳旗𠖤𢢯又
軍񣡶㐌細外񠔪柳
馭𨍦群於裊長楊
軍迻払񠗈𨖲塘
柳楊別妾断腸尼庒
㗂笛񠗈賖澄凌扐
行旗𠖤𩃳乞𥊚又
𢴑𢬣蹺笠𩄲迻
妾𥆾񣕿𡶀񠿸񠣓餒茄
払時񡄓𡎝賖𩄎񣢅
妾時𧗱房𡳵照𧜖
兑񣟘蹺㐌隔垠
仍牟𩄲碧共痕𡶀撑
准咸京払群𥋓吏
𡔖洋 湘妾 駭񣟘𨖅
𤐡洋湘隔񠶜陽
𣘃񠶜陽䣓洋湘񠋱重
共񣟘吏麻共񠟜𧡊
𧡊撑又仍񠋱岸橷
岸橷撑屹𠬠牟
𢚸払意妾埃愁欣埃


払自񡄓𠓨尼񣢅培
𡖵𦝄尼񣌆𠖾方兜
初񣐯戦地񠡝包
㘨空񠙍𨤵掣牢𤋵油
唏񣢅冷𠊛愁𩈘惮
𣳔渃溇馭𢠣񠗋𨁼
揞鞍𢶒񣟘㐌𤶐
𦣰漨𡋥񣀇𥄭𡑱񣖤撑
񣐯漢񣐆白城㨂吏
𣈕胡𠓨青海𥈺戈
形溪񠣛𡶀𧵆賖
𦄵傕吏񣂹𥰊駝吏髙
霜頭𡶀𣇜朝如澮
渃𢚸溪裊񡄔群溇
恼𠊛񣆺甲閉𥹰
𢚸圭戈妬𩈘油񠟜𢣧
𨕭帳錦透񣓘񠟝𨤧
樣征夫埃𦘧朱𢧚
想払𨀐񠗈񠋱年
񠟜尼瀚海時沔關山
㐌測阻隊岸蛇虎
吏冷񡄕仍𡓇霜風
𨖲髙񣟘式𩄲篭
𢚸񠆒񠒻񠟜動𢚸悲傷
自񡄓𨖅東南𡴯𡑩
別浪払進討尼񠢢
仍𠊛征戦閉𥹰
弭䀡性命如牟𦹵𣘃
񣕝唏猛恩𠫅自񣡶
񠢥准𠨪歳特包饒
𡽫祈墓只𦝄撩
𣷷淝񣢅𠺙調囂񠋱塸
𩲉死士񣢅㗀又𠺙
𩈘征夫𦝄唯又𤐝
征夫死士񠋱𠊛
񠆒埃莫𩈘񠆒埃噲𩲉
唒兵񠌿渃𡽫如𡳵
几行人過妬鄭傷
分񠜬񣃹 񣖑戦塲
払超𠃅𩯀點霜買𧗱
想払񠢥仍皮񢾛弩
𠀧𡱩鎌𠬠部戎鞍
衝坡񣢅𡓁𦝄岸
鎇撩頭馭槊񠈔𩈘城
盎功名𤾓塘遯也
仍辱𠡛񠆒㐌񡄖񡄗


餒𢚸別吘共埃
妾𥪝𦑃񠢞払外񠗋𩄲
𥪝񠢞尼㐌停分妾
外𩄲箕𧯶劫払񠢢
仍矇񠢙渃共饒
񠆒񠡳𩄲渃俸񠢢隔潙
妾񠟜想񠒾𠊛征婦
払𧯶曾񠅋𠎪王孫
據牢隔阻渃𡽫
遣𠊛傕񠊓時𣋚𤋵油
樸風流當澄年少
聘饒共攔𢬢𡦂縁
女񠆒堆侶少年
񠡔山底隔寒諠包停
課臨行莺㨋𥾽柳
𠳨𣈗𧗱約裊鵑񠠥
񣐯鵑㐌𠽖鶯񣃹
鷾鴯吏嘅񣡶茄𠶓𠽓
課登途梅𣗓僤񣢅
𠳨𣈗𧗱只度񠭦 񣡢
񣐯񠭦㐌眷񣢅東
雪梅񣀇񣖔芙蓉𧺃坡
恨共些𨻫西岑意
捽𣈗񣟘񠆒𧡊唏沁
岌񠁈𦲿用梗簪
𨅸񣟘𦖑𠰺㗂禽牢敲
限尼񠆒漢陽橋怒
񠞭吏尋񠆒固消耗
岌񠁈񣢅𠺙襖袍
񣖔𣋚𣻆汜渃潮溟濛
信𠳚𠫾𠊛空𧡊吏
花楊殘㐌񠢥𦼔𣛟
𦼔𣛟񠋱笠終扃
𨄹𡑝𠬠𨀈𤾓情艮魚
書常典𠊛空𧡊典
幅簾疎吝轉𩃳陽
𩃳陽񠋱𣇜穿昂
𠳒牢𨑮限𠃩常单差

此併吏演𣾺𣈗意
钱蓮尼㐌扔񠒻𠀧
㤕𠊛吝呂隘賖
㤕𠊛𢭗准皇花𨤮𨱽
情家室񠆒埃񠟜固
箕老親閨婦𢖵傷
索񣃹披拂𠃅箱
𡥵疎𣒣𣷱𡲤當扶持
𢚸老親𢞂欺𢭸񠢞
𠰘孩兒徐𩛷𠰏𩚵
𤮿裴妾拖孝男
鍊𡥵畑册妾爫父親
尼𠬠身餒񣃹𠰺𥘷
餒關𢙇񣜡񡄘別包
𢖵払񠢥񠋱霜𣒲
春層𢬭貝冬񠆒群賖
計𢆥㐌𠀧𦊛隔演
䋦𢚸添𠦳萬滚昂
约之𧵆襘𡬷𡱸
񠈜念𨐮䔲底払𤍊񣓘
釵宫漢𧵑𣈗出嫁
𦎛楼秦𨁪㐌𤐝鍾
𢚁埃麻𠳚細共
吀払透𣍊񣠨𢚸相思
𨧟㧅𢬣每欺𥋴𥋟
玉掑頭課𡮤𢝙制
𢭄埃麻𠳚典尼
底払珍重𨁪𠊛相親

񠢥񠋱春信𠫾信吏
典春尼信咳永空
𧡊鴈𨻫想書封
𦖑唏霜񠇴襖񣡢産床
񣢅西浽空塘鴻便
㤕𡎝外雪眷𩅹沙
幔𩅹帳雪衝坡
𢪀添冷𠖭几񠒾𡎝外
題𡦂錦封傕吏𨷑
招掛钱信與群񠡳
𡗶𣋚𢭸񠢞艮魚
𦝄񠠞娘襘𠀧蜍񣢅枚
𧯶如埃𩲉醝𩃳吝
俸蜍扵吝矧虛空
簪掑襜㩫 𢢆𢝣
񠢥澜𩯀񠒘挵𥿺𦝄腰
𨄹軒永񠞤招曾𨀈
外簾疎𢷀擱隊畨
外簾鵲񠟜񣕀信
𥪝簾񠡝㐌固畑別庒
畑固別񠡝平񠟜別
𢚸妾𥢆悲切麻傕

𢞂悶呐񠟜𢧚𠳒
花畑箕貝𩃳𠊛𧯶傷
񣌂嘵喔嘅霜𠄼𪔠
槐拂披𢷀𩃳𦊚边
刻𣇞蕩又如年
䋦愁弋又平沔񠞫賖
香強焠𢚸陀迷񢽚
𦎛強𤐝淚吏𥢳滇
瑟񠠦強𢭮񣜩弹
𦀊鴛驚縆𣓦鵉񣀿重
𢚸尼𠳚񣢅東固便
𠦳鐄嗔𠳚典𡽫燕
𡽫燕油񠟜典沔
𢖵払瀋又塘𨖲平𡗶
𡗶瀋又賖潙坤透
餒𢖵払񡄙又񠆒衝
景𢝙𠊛切他𢚸
形𣘃霜湥㗂蛩𩄎噴
霜如鈽補񠎨㭲柳
𩄎񠡝鋸又𤉗梗梧
杶雪抚𡏧𪀄𠵎
蝼墻呌永鍾厨㗂𣾺
𢽼㗂啼月𢯦񣡶屋
𠬠行蕉񣢅秃外軒
幔𥪝闌𢼂񣢅穿
𦝄淶花𩃳𤐝𨕭񣡶簾
花𤋵月月印𠬠񣠨
月篭花花𧺀曾񣡢
月花花月重又
񣡶花񠢾月𥪝𢚸掣񠢢

񠢢掣計񣡽愁𠦳腦
自女工婦巧調𢢯
怲扲針怲迻梭
鶯堆𢢆𦄅𧊉堆񣀿񣂸
𩈘怲蘇𠰘強怲呐
񠊓吏朝唯又𢭗窻
𢭗窻𨻫艮魚𢚸
永払點粉粧紅買埃
怲粧點𢚸𠊛煩脑
㤕餒払外𡎝江氷
恪之妸織姉姮
𣷷銀洡湥宫𦝄祝񠷨
愁揞񠢡埃重爫襘
悶𤀞𣹓埃𠺙爫粓
摱花摱𨢇解𢞂
愁爫𨢇溂悶拵花喂
𢫈笙玉𠇍回空㗂
揞弹箏񠋱柉浰𢬣
㤕𠊛行役閉񣐯
𨤮賖矇痗𣍊𣹓吏潙
񠠥鵑嘺爫淶渃񣀟
𪔠樵枯如窒񠠫旰
㽳鐄𢬭恪容顔
睽離買別辛酸񠡝尼

唸咮𨢟񣠨𢚸貝𤍊
味𨢟尼呵固爲埃
爲払淚妾㳶堆
爲払身妾𥛭𩁦𠬠皮
身妾񠟜𧵆掑񠢾帳
淚妾񠆒𡮇𥿁边巾
𢝙群𩲉񠷨特𧵆
񠞭又常典江津尋𠊛
尋払坭陽薹񣖑񣆄
趿払尼湘浦𣷷初
森圍񠋱𣅶情期
񠟜戈𨕭襘𠬠𣇞夢春
恨妾身吏空平夢
時𧵆払𣷷𨻫城關
欺𢠩仍惜欺殘
情𥪝聀夢񠙍萬共空
𢝙固𠬠񣠨𢚸񠟜𢴑
本蹺払𣇞刻񠆒𢢯
𢚸蹺仍渚𧡊𠊛
𨖲髙񠋱𣅶񣟘爲𨋣車
񣟘𣷷南񣖔𢺺𩈘渃
𦹵碧岑橷烈牟𣛟
店廊𧵆姅零征
𪀄群񣖔𡋥仍情朝𣋚
񣟘塘北曾笘舘客
𩄲碧𣘃𡶀𡴯𡗶撑
姅禾桼姅荒城
𩄎噴𩈘渃笛扃屋楼
𡽫東𧡊񠷁侯㩫 凍
雉習仕梅共𢯏[V]
𤐡𩂟宜𩂁岸𣾺
𡥵𪀄拨񣢅落𩔗呌傷
𨻫西𧡊渃񠡝婉曲
鴈𦑃空㳥唷船鈎
岸樁𢷆祝𦹵𦰤
隔船񠆒𧡊𠊛񠢢𠫾𧗱
񣟘𦊛皮񠗋𡗶𩈘坦
𨖲񣐆楼審卒隊畨
笠𩄲技眜񣀿𥆾
񠢢𡎝征戦񠢢沔玉關

𢭄񣜳坦易坤񠅋斫
巾招梂񠆒特𧡊仙
𢚸尼化𥒥共𢧚
𠲖空淚玉麻𨖲񣟘楼
𣅶𥋓吏𥋴牟揚柳
時勸払停𠹾爵封
񠟜񣓘񠙍𨤮񠗈𨀐
𢚸払固共如𢚸妾񠟜
𢚸払񠂎共平如񠣛
𢚸妾񠢢敢𢪀𧵆賖
向陽𢚸妾񠡝花
𢚸払吝矧𠲖斜𩃳陽
𩃳陽底花鐄񠟜兑
花底鐄拱在𩃳陽
花鐄花用扃墻

񠢥䀡花用񠞭霜񠋱吝
䒹蘭𦬑񣡶𡑝㐌𢲨
𦰟񠔾箕边񣖔迻香
𢯢襜𨄹𨀈前堂
𠑕񣟘䀡𨤔天章矧蜍
𩃳銀漢欺𥊚欺𤍊
度奎廛𣇜固𣇜空
式𩄲隊𣅶辣濃
񣟘񢷍北斗傕東吏兑
𩈘𦝄𤍊常𤐝边襘
񣞖񣀟񣟘霜澮梗梧
冷[V]台񠋱朝秋
񣢅񠒏囂乞𨕭頭墙񣁂
𠬠𢆥𠬠𤁕味𣘈粉
丈夫群吝矧沔𣾺
初牢形影񠟜淶
悲除女底隔潙参商
払񠗈馭𨤵長𩄲撫
妾𨄹鞋񣖑𡳶簝印
񣢅春𣈗𠬠永信
可傷吝𣍊񠋱畨良時
𢜝𢖵欺梗桃朶槾
񣡶񣢅春鐄紫聘饒
怒時妸織払牛
典𦝄秋吏𢫣梂戈滝
切𠬠身房空𨻫񣘋
時節񣃡𢗖𢖵隊񠅡
梭迻𣈗𣎃񠗈𣭻
𠊛𠁀審率戈牟春𣛟
春𣛟底恨扃於胣
合離停𢞂過欺𢝙
怨愁𡗉䋦𥯒排
柳蒲侯易押奈朝春
箕文君媚苗課񣡶
𠲖典欺頭萡麻傷
𩈘花怒妸潘郎
𢜝欺𠃅𩯀坡霜共񠣔
𢪀顔色當澄花𦬑
惜光陰吝呂招戈
𢪀命萡惜年花
𡛔絲񠋱祝麻񠒾娜𣳔
閣香怒𢠩懞𨤔𩈘
楼花箕彷彿唏香
責𡗶牢底汝讓
妾油妾吏油払񠟜񠂚

払񠟜𧡊𪀄𪂦於内
共習迢񠟜倍分張
吏񠟜𧡊𪀄燕𨕭񠠷
萡頭空女堆塘𨔾饒
箕𩔗蝼堆頭共聘
怒類𪀄執𦑃共𠖤
柳蓮񠒻式𦹵𣘃
堆花共聘堆𣘃共連
意類物情緣群񠣛
牢刼𠊛女底帝低
妾嗔񠙍刼縁尼
如𪀄連𦑃如𣘃連梗
停񠙍刼𡦂情㐌丕
蹺刼尼欣𧡊刼𨍦
妾嗔払񣒽萡頭
妾時񣘋買𥙩牟𥘷中
嗔񠮚𩃳蹺共払丕
払𠫾񠢢拱𧡊妾边
払𢭗暈日妾願
每皮忠孝妾嗔院𧷺
𢚸許國𧺀𣘈𡴯又
飭庇民鏢鉄知又
𧖱單于頭月氏
意時𣇜㕵意時𣇜咹

鋂銅𦠰隊吝歆許
拖𢚸𡗶纏񣘋𠊛忠
護払𤾓陣𢧚功
񣡢𥏌隘北撩弓𡽫兑
𩃳旗幟㨋外關隘
㗂凱񠠥踷吏神京
嵿𡽫刻𥒥底名
朝天𠓨񣡶宫莚𤼸功
渃溋漢𢧚銅𣳮瀝
曲樂詞𠰉𡂒㗂𠸦
才搊秦霍院全
𠸜𥱬閣鳯像傳񠊀轔
𡑴勳將帶巾撝𦘧
𡦂同休碑񠑀𠦳冬
恩𨕭子䕃妻封
顕荣妾共淡鐘香𡗶
妾񠟜𤵺如𠊛蘇婦
払罕空如𠎪洛陽
欺𧗱㧅[V]印鐄
𨕭宮𦀻敢𠖰扛爫髙
嗔爲払扱袍𢶒甲
嗔爲払𢷀笠風霜
爲払𢬣祝񣕇鐄
爲払點粉㧅香񠠧濃
񠈜巾淚払𥉫曾񣠨
讀詩愁払審曾拘
拘𢝙𢬭貝拘愁
𨢇呵共計񣡶𨍦每𠳒
仕𢫫潙吝吝隊񣕇
仕񠠥寅隊諫諫隊聯
聯吟対飲曾畨
共払吏結䋦縁典񣃹
朱捕𣅶愁賖隔𢖵
񣘋纏饒𢝙𡦂清寧
吟哦矇𠳚𡦂情
񠡝尼歐罕才񣃡丈夫

 


Tiếng Việt
Chinh Phụ Ngâm


Nhẽ trời đất thường khi gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên[1].
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành[2] lung lay bóng nguyệt, 5
Khói Cam Tuyền[3] mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu chóng tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung[4] trao quan vũ từ đây. 10
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây[5] sá nào.
Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa[6].
Bóng cờ tiếng trống xa xa, 15
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền[7] mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời[8]. 20
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa[9],
Gieo Thái Sơn bằng độ hồng mao[10].
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Tiếng roi cầu Vị[11], độn vào gió thu



Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc, 25
Đường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ không quên. 30
Nhủ rồi tay lại trao liền,
Bước đi một bước lại vin áo chàng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa muôn cõi nghìn non[12];
Đặt chén[13] tiễn múa Long Tuyền, 35
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử[14] ;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba[15].
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. 40
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương[16] chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã tới ngoài doanh Liễu[17] 45
Ngựa sau còn ở nẻo Tràng Dương[18]
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch ruổi xa chừng lăng lắc.
Hàng cờ bay bóng ngất mờ mờ. 50
Dứt tay theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì chạy cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn, 55
Những màu mây biếc, cũng ngần núi xanh
Chốn Hàm Kinh[19] chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương[20] thiếp hãi trông sang.
Khói Dương Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Dương Tương mấy trùng. 60
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?


Chàng từ chạy vào nơi gió bụi, 65
Ðêm trăng này nghỉ mát phương đâu?
Xưa nay chiến địa dường bao!
Núi không muôn dặm xiết lao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa giận chân bon. 70
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại[21],
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua[22].
Hình khe thế núi gần xa, 75
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như gội,
Nước lòng khe, nẻo lõi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt rầu chẳng khuây. 80
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Dạng chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải[23] thì miền Quan san[24].
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ 85
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng[25],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Từ chạy sang đông nam ngất nẻo
Biết rằng chàng tiến thảo[26] nơi đâu? 90
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ[27] mộ chỉ trăng treo, 95
Bến Phì[28] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt[29], nào ai gọi hồn? 100
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già cõi chiến trường,
Chàng Siêu[30] mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải những bề nắng nỏ. 105
Ba thước gươm, một bộ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Mũi treo[31] đầu ngựa, giáo dan[32] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi, 110


Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng đâu[33]?
Những mong cá nước cùng nhau, 115
Nào ngờ mây nước bóng đâu cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn[34]?
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thì hôm giãi rầu. 120
Phác phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan san để cách hàn huyên[35] bao đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu. 125
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi[36] lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ[37] mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông, 130
Nay đào đã quyến gió đông
Tuyết mai trắng bãi phù dung đỏ bờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây[38] sầm ấy,
Suốt ngày trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm, 135
Đứng trông nghe dậy tiếng cầm[39] lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương[40] cầu nọ.
Đêm lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi áo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào[41] mênh mông. 140
Tin gửi đi người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường đến, người không thấy đến, 145
Bức rèm thưa lần chuyển bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?


Thử tính lại diễn khơi ngày ấy[42].
Tiền sen[43] này đã nẩy là ba. 150
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa[44] dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân[45] khuê phụ[46] nhớ thương.
Tác già phơ phất mái sương, 155
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì[47].
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam,
Luyện con đèn sách, thiếp làm phụ thân 160
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẽ biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào còn xa!
Kể năm đã ba tư cách diễn 165
Mối lòng thêm nghìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giở niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán[48] của ngày xuất giá
Gương lầu Tần[49], dấu đã soi chung. 170
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Xin chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mỗi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu[50] thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi đến nơi, 175
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?


Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Đến xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong[51].
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. 180
Gió tây nổi, không đường hồng tiện[52],
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết[53] xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm[54] phong thôi lại mở. 185
Gieo quẻ tiền[55] tin dữ còn ngờ.
Trời hôm tựa cửa ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ gió mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thờ ơ lẫn thẩn hư không. 190
Trâm cài, xiêm giắt[56] thẹn thùng,
Trải làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, đem gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ, gác[57] đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin, 195
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.


Buồn muộn nói chẳng nên lời,
Hoa đèn[58] kia với bóng người há thương, 200
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc bằng miền bể xa.
Hương gượng đốt, lòng đà mê mải, 205
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan[59] ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên, 210
Non Yên[60] dù chẳng đến miền.
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh vui người thiết tha lòng, 215
Hình cây sương giọt, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Mưa dường cưa cưa héo cành ngô.
Đòn tuyết phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa tiếng khơi. 220
Vài tiếng dế, nguyệt lay trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Màn trong lan sổ gió xuyên,
Trăng lơi hoa bóng soi lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 225
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!


Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi, 230
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng. 235
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người phiền não,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Băng.
Khác gì ả Chức[61] chị Hằng[62],
Bến Ngân[63] sùi sụt cung trăng chốc mòng. 240
Sầu ôm nặng, ai chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, ai thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn dồn hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng. 245
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch[64] bấy nay,
Dặm xa mong mỏi, hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều[65] khua như rứt buồng gan. 250
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly[66] mới biết tân toan[67] dường này.


Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Mùi cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi, 255
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Vui[68] còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường đến Giang tân tìm người 260
Tìm chàng nơi Dương Đài[69] lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương Phố[70] bến xưa:
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng 265
Thì gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! 270
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam, bãi chia mặt nước,
Cỏ biếc sum, dâu lướt mầu xanh.
Xóm làng gần nửa[71] lênh chênh, 275
Chim còn bãi cát những tình chiều hôm.
Trông đường bắc, từng chòm quán khách,
Mây biếc cây núi ngất trời xanh;
Nửa lúa thêm nửa hoang thành,
Mưa phun mặt nước địch quanh ốc lầu. 280
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, 285
Nhạn cánh không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc cỏ lau,
Cách thuyền nào thấy người đâu đi về.
Trông tư bề chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoát đòi phen; 290
Lớp mây kĩ mắt ngại nhìn,
Đâu cõi chinh chiến đâu miền Ngọc quan[72]?


Gậy rút đất[73] dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu[74] nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên, 295
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong[75].
Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? 300
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp dường hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, 305
Hoa để vàng cũng tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,


Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nở trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. 310
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương[76] thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền[77] buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng, 315
Trông sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay mấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi. 320
Một năm một lạt mùi son phấn,
Trượng phu còn lẩn thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương[78]?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, 325
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì[79].
Sợ nhớ khi cành đào đóa mận[80],
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau; 330
Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu.
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thiết một thân phòng không luống giữ,
Thời tiết lành nhầm nhỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, 335
Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh
Xuân xanh để hận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều mối tơi bời,
Liễu bồ hầu dễ ép nài chiều xuân. 340
Kìa Văn Quân[81] mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ ả Phan lang[82],
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, 345
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc mà ra nạ giòng
Gác hương nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất hơi hương. 350
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.


Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Lại chẳng thấy chim yến trên rường, 355
Bạc đầu không nỡ đôi đường giã nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cùng sánh, đôi cây cùng liền. 360
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây?
Thiếp xin muôn kiếp duyên này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy, 365
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên; 370
Chàng nương vầng nguyệt thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc[83] thắm son ngăn ngắt,
Sức tý dân[84] tiêu sắt tri tri.
Máu Đan Vu[85] đầu[86] Nguyệt Thị[87], 375
Ấy thì buổi uống, ấy thì buổi ăn.


Mũi đòng vác[88] đòi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài. 380
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Đỉnh non[60] khắc đá đề danh,
Triều thiên[89] vào trước cung đình[90] dâng công,
Nước duềnh Hán nên đồng rửa sạch, 385
Khúc Nhạc Từ réo rắt tiếng khen.
Tài so Tần, Hoắc[91] vẹn tuyền,
Tên ghi gác Phượng[92] tượng truyền đài Lân[93],
Đền huân tướng[94] đai cân vày vẽ.
Chữ đồng hưu[95] bia để nghìn đông. 390
Ơn trên tử ấm, thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ[96],
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương[97].
Khi về đeo quả ấn vàng, 395
Trên cung cửi, dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng cất bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. 400
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần đòi chén, 405
Sẽ ca dần giản giản đòi liên
Liên ngâm đối ẩm từng phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui chữ thanh ninh. 410
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.

 


Chú thích

    ▲ Truân chuyên: Gian nan khốn khó
    ▲ Trường Thành: Vạn lý trường thành, do Tần Thủy Hoàng xây dựng
    ▲ Cam Tuyền: Tên đất
    ▲ Áo nhung: Áo của quân nhân
    ▲ Niềm tây: Niềm riêng
    ▲ Thê noa: Vợ con
    ▲ Thành liền: Bởi chữ "liên thành" (những thành liền nhau). Điển tích: nước Triệu có hai hòn ngọc bích. Vua nước Tần viết thư xin đem năm thành trì đổi ngọc ấy. Về sau, vật gì quý báu gọi là có giá "liên thành"
    ▲ Giặc trời: Bởi chữ "thiên kiêu". Hán thư có câu: "Hồ giả thiên chi kiêu tử" (giặc Hồ là đám con khó dạy của trời)
    ▲ Da ngựa: Bởi chữ "mã cách" (mã: ngựa, cách:da). Điển tích: Đời Đông Hán, Mã Viện, tướng giỏi, từng nói: "Làm trai nên chết chốn sa trường biên ải, lấy da ngựa bọc thây chôn mới gọi là trai
    ▲ Thái Sơn, hồng mao: Tư Mã Thiên nói: "Người ta vẫn có cái chết, song có cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, có cái chết không đáng nhẹ như lông chim hồng". Ý nói có sự đáng chết và không đáng chết
    ▲ Cầu Vị (Vị kiều): Lý Bạch có câu thơ "Tuấn mã nhược phong phiêu, minh tiên xuất Vị kiều"
    ▲ Có câu hát: "Tướng quân tam tiễn định Thiên Sơn, tráng sĩ trường ca nhập Hán quan" (ba mũi tên của tướng quân lấy được núi Thiên Sơn, tráng sĩ hát dài mà kéo quân vào cửa ải Hán)
    ▲ Gươm (Long Tuyền): Tên một thanh kiếm báu
    ▲ Giới Tử, Lâu Lan: Phó Giới Tử, tướng nhà Đường, dùng mưu giết chết vua đất Đại Uyển là Lâu Lan
    ▲ Man Khê, Phục Ba: Mã Viện, đời Đông Hán, lĩnh chức Phục Ba tướng quân, từng đánh dẹp bọn rợ ở Man Khê
    ▲ Hà lương (hà: sông, lương: cầu). Ngày xưa tiễn đưa nhau thường đến chốn "cầu sông"
    ▲ Tế Liễu: Vua Hán Văn Đế đến doanh Tế Liễu là nơi đồn quân của tướng Chu Á Phu để khao thưởng quân sĩ
    ▲ Tràng Dương: Tên đất (cũng là tên cung của nhà Tần)
    ▲ Hàm Dương: Tên đất, tây kinh của nhà Tần
    ▲ Tiêu Tương: Tên sông
    ▲ Thành Bạch Đăng, vua Hán Cao Tổ từng bị vây ở đấy
    ▲ Thanh Hải: tên đất. Đời Đường, rợ Thổ Cốc Hồn hùng cứ ở đấy
    ▲ Hãn hải: Bãi sa mạc
    ▲ Tiêu Quan: tên cửa ải ở nơi hiểm trở. Các đời Đường, Tống xây lũy đắp đồn chống rợ Thổ Phồn
    ▲ Điển tích: đời Đường, Địch Nhân Kiệt đi đánh giặc xa nhà, lên núi cao trông đám mây trắng ở xa xa, nói với quân sĩ rằng: "Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy", ý nói nhớ nhà
    ▲ Tiến thảo (tiến: đi tới, thảo: đánh dẹp giặc cướp)
    ▲ Non Kỳ (Kỳ Sơn): núi Kỳ Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đấy
    ▲ Bến Phì (Phì Thủy): tên sông, Bồ Kiên, nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây đắp thành gò
    ▲ Mạc mặt: vẽ ra nét mặt (dịch chữ "đan thanh" (đan: sắc đỏ, thanh: sắc xanh))
    ▲ Ban Siêu: danh tướng đời Hán, theo việc binh nhung ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi
    ▲ Tên reo đầu ngựa (minh đích - minh: kêu, đích: mũi tên bịt sắt): tên nỏ bịt sắt, bắn đi vang ra tiếng
    ▲ Giáo dan (duyên can - duyên: leo, can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt thành (duyên - doan)
    ▲ Vay: Tiếng đệm của câu than thở
    ▲ Vương tôn: con nhà giàu sang, ưa đi chơi không đoái hoài đến gia đình
    ▲ Quan san, hàn huyên (quan: ải, san: núi, hàn: lạnh, huyên: ấm): ý nói cách trở, không biết tin tức của nhau
    ▲ Ý nhi: chim én (yến) thường làm tổ trong mái nhà
    ▲ Đăng đồ: lên đường ra đi nơi xa
    ▲ Lũng Tây (Lũng Tây sầm): núi nhỏ mà cao (sầm) ở đất Lũng Tây
    ▲ Tiếng cầm: tiếng chim chóc
    ▲ Hán Dương: tên đất
    ▲ (Mộ trào - mộ: chiều, trào: nước): con nước lên buổi chiêu hôm
    ▲ Diễn khơi ngày ấy: từ ngày cách xa nhau
    ▲ Tiền sen: Dịch chữ "hà tiền" (hà: sen, tiền: đồng tiền), lá sen non nổi ở mặt nước như đồng tiền
    ▲ Hoàng Hoa thú: lính thú đời xưa, cứ tháng 9 thì cắt đi, đến tháng 9 năm sau mới đổi về. Tháng 9 là mùa hoa cúc nở, sắc vàng, cho nên gọi là "Hoàng Hoa thú"
    ▲ Lão thân: cha mẹ già
    ▲ Khuê phụ: người vợ ở chốn khuê phòng
    ▲ Phù trì: trông nom, ẵm bồng
    ▲ (Hán cung thoa): nhắc tích Hán Vũ Đế ban cho bà Triệu Tiệp Dư một cái thoa ngọc
    ▲ (Tần lâu kính): Tần Thủy Hoàng có cái gương lớn gọi là "chiếu đảm kính", soi thấy mật trong thân thể, biết được người nào có tà tâm
    ▲ Nhẫn đeo tay, ngọc cài đầu (câu chỉ ngân, tao đầu ngọc): nhẫn đeo tay bằng bạc, trâm cài đầu bằng ngọc
    ▲ Lấy tích Tô Vũ xé áo lụa viết thư, cột vào chân chim nhạn thả bay về Hán
    ▲ Hồng tiện: nhờ nhạn đem thư buộc ở chân (hồng: chim nhạn trống, nhạn: chim mái
    ▲ Màn mưa trướng tuyết (hổ lang, trướng vi): trướng hổ, màn lang, chỉ những nơi đóng quân ở cõi ngoài
    ▲ (Cẩm tự đề thi): Đời Tấn, Đậu Thao đi lính, vợ là Thôi Huệ làm bài thi "hồi văn" dệt vào gấm dâng lên vua mà xin cho chồng về
    ▲ (Kim tiền vấn bốc): Gieo ba đồng tiền vàng khi bói quẻ
    ▲ Xiêm thắt: áo quần thắt nhỏ (thân thể gầy vì nhớ chồng)
    ▲ Rủ thác: bỏ rèm xuống, cuốn lên
    ▲ Hoa đèn: dịch chữ "đăng hoa" (đĩa đèn dầu xưa)
    ▲ Dây uyên, phím loan: hai sợi dây đàn như đôi chim uyên ương, hai phím đàn như đôi chim loan phượng. Chinh phụ không muốn lên dây đàn, sợ đứt dây hóa ra điềm xấu
    ▲ a ă Non Yên: Núi Yên Nhiên ở đất ngoại Mông Cổ. Đời Hậu Hán, Đậu Hiến đánh đuổi rợ Hung Nô đến đấy, lên núi khắc công huân vào đá, rồi về
    ▲ Chức Nữ
    ▲ Hằng Nga
    ▲ Bến sông Ngân Hà, nơi Ngưu Lang - Chức Nữ gặp gỡ
    ▲ Hành dịch: đi làm nghĩa vụ (đi lính)
    ▲ Trống canh ở trại quân
    ▲ Khuê ly: Xa cách nhau lâu ngày
    ▲ Tân toan (tân: cay, toan: chua): nỗi chua cay
    ▲ Bui: tiếng cổ: duy, chỉ
    ▲ Dương Đài: tên núi. Vua Tương Vương nước Sở mộng gặp thần núi Vu Sơn ở đấy
    ▲ Tương Phố: Bến sông Tiêu Tương
    ▲ Nguyên là chữ "tỉnh ấp" (tỉnh: giếng, ấp: xóm): những nơi xóm làng
    ▲ Ngọc quan: tức Ngọc Môn quan, tên một cửa ải, nơi giáp giới xứ Tây Vực
    ▲ Gậy rút đất: Phí Trường Phòng học được thuật rút đất, hễ dùng cái gậy trỏ xuống đất thì nghìn dặm đường cũng thu lại ở trước mắt
    ▲ Khăn gieo cầu: Thôi sinh vào núi lấy được tiên nữ làm vợ, học được phép tàng hình, lẻn vào trong cung để tinh nghịch, bị đạo sĩ đuổi bắt. Chàng chạy về núi, còn cách con sông, tiên nữ hóa phép ném cái khăn biến thành nhịp cầu ngũ sắc cho chàng chạy qua
    ▲ Hai câu này dịch hai câu thơ của bài Khuê oán của Vương Xương Linh, thi sĩ đời đường: Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc/Hối giao phu tế mịch phong hầu
    ▲ Thiên chương: các vẻ trên trời, như: tinh tú, nhật, nguyệt...
    ▲ Khuê triền: độ đi của sao Khuê
    ▲ Sâm, Thương: sao Sâm (sao Hôm) ở phương tây, sao Thương (sao Mai) ở phương Đông, một ngôi hiện ra thì một ngôi lặn đi, không cùng trông thấy nhau. Ý nói sự ly biệt
    ▲ Lương thì: thời tươi đẹp
    ▲ Diêu hoàng, Ngụy tử: nhà Diêu Sùng có hoa mẫu đơn vàng (hoàng), nhà Ngụy Nhân Phổ có hoa mẫu đơn tía (tử)
    ▲ Văn Quân: giai nhân đời Hán. Trác Văn Quân, góa chồng, nghe Tư Mã Tương Như đàn khúc "Phượng cầu hoàng" ưng theo làm vợ. Sau Tương Như muốn lấy vợ lẽ, Văn Quân bèn làm bài "Bạch đầu ngâm". Tương Như cảm kích, thôi không lấy lẽ, cùng Văn Quân ở đời đến già
    ▲ Phan lang: người con trai tuấn tú đời Tấn, tên là Phan An Nhân, mỗi khi ra đường, con gái hay ghẹo, ném quả đầy xe. Hai điển tích Văn Quân và Phan lang ý nói: một ngày kia hai vợ chồng cùng già
    ▲ Hứa quốc: Một lòng đem quân giúp nước
    ▲ Tý dân: Hết sức che chở nhân dân
    ▲ Thiền Vu: chúa của rợ Hung Nô
    ▲ Quắc: lỗ tai trái. Dâng đầu giặc ghi công chỉ cần xẻo lỗ tai trái đem về nộp
    ▲ Nhục Chi: tên nước xưa ở miền Tây Vực
    ▲ Đòng vác: gươm giáo
    ▲ Triều thiên: thiên triều, triều (đình) vua
    ▲ Nguyên là chữ "Vị Ương cung": cung điện nhà Hán, chu vi rộng lớn, xây dựng luôn, hết cung này đến điện nọ không bao giờ rồi, cho nên đặt tên "Vị Ương" (chưa hết); cũng như: dạ vị ương (đêm chưa sáng)
    ▲ Tần, Hoắc: tức Tần Thúc Bảo, Hoắc Phiêu Diêu
    ▲ Gác Khói: Lăng Yên các (Lăng Yên: cao vượt trên tầng mây khói), vua Đường Thái Tông cho dựng để vẽ hình 24 công thần
    ▲ Đài Lân: Lỳ Lân đài, vua Hán Tuyên Đế cho vẽ tượng 10 công thần ở đấy
    ▲ Nguyên văn: "mao tư khoán" (mao: cỏ tranh, tư: cỏ gai, khoán: văn tự để làm tin). Đời xưa phong hầu, vua ban cho đất ngũ sắc có bọc mao tư, hoặc cho tấm thiết khoán (tấm sắt ghi công trạng). Dịch giả dùng "nền huân tướng" dịch từ ngữ này (huân công, huân nghiệp: công to nghiệp lớn)
    ▲ Đồng hưu: bởi chữ "dữ quốc đồng hưu thích" (cùng lo cùng vui với nước nhà)
    ▲ Tô phụ: vợ Tô Tần. Khi còn hàn vi, Tô Tần về nhà, người vợ cứ ngồi trên khung cửi, không thèm đứng dậy
    ▲ Lạc Dương: chỉ Tô Tần, người Lạc Dương, chủ trương đi du thuyết 6 nước hợp tung chống Tần


Nguồn : internet

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.