Ðạt Ma thiền sư (? - 536), nguyên quán Thiên Trúc, Ấn Ðộ, là con thứ ba của Hương Chí Quốc Vương (Bà La Môn), thuộc dòng họ Xát Ðế Lợi. Tuy con nhà quyền quý, cao sang, nhưng người không hề ham muốn lối sống phù phiếm xa hoa, nên bỏ nhà đi tu, theo một vị cao tăng bên Phật giáo là Bát Nhã Ða La tôn giả.
Trên 2500 năm về trước, Ðức Thích ca đã sáng lập ra Phật Giáo, và Người là vị giáo chủ đầu tiên. Sau khi nhập diệt, đệ tử của ngài là Ca Diếp lên nối ngôi vị. Sau đó dòng truyền thừa của Phật giáo lần lượt qua tay các tổ A-Nan, Thương Na Hòa Tu, Ưu-Ba-Cấp-Ða, Ðề Ða-Ca, Di-Gia-Ca... khi truyền tới tổ Bát Nhã Ða La là đời thứ 27 và Bồ Ðề Ðạt Ma là vịvị tổ thứ 28.
Phật giáo Ân Ðộ ở thời kỳ Bát Nhã Ða La tôn giả làm chủ trì, không mấy phát triển, bởi vì căn tánh người Ân bấy giờ chưa được thành thục. Cho nên Bát Nhã Ða La tôn giả đã phái Ðạt Ma qua Ðông thổ để truyền pháp. Vì Phật Giáo bên đó đi sai phương hướng, hơn nữa Ngài cũng nhận định rằng căn tánh người Trung Hoa lúc ấy đã tới độ chín mùi.
Kể từ hồi thế kỷ thứ nhất, vào thời Ðông Hán, đời vua Minh đế niên hiệu Vĩnh Bình, Phật Giáo Ân Ðộ đã bắt đầu du nhập vào đất Trung Hoa, nhưng phần lớn chỉ giới hạn trong hàng vua chúa quan lại và dừng ở mức độ dịch thuật kinh sách Phạn ngữ sang Hán tự mà thôi, hơn nữa ở thời kỳ đầu Phật Giáo chỉ được coi là thứ tôn giáo ngoại lai, chứ chưa được đưa lên hàng quốc giáo.
Sau này Ðạt Ma chuyển qua đất Trung Hoa để hoằng dương đạo Phật, cho nên Ðạt Ma đã trở thành vị thủy tổ của Phật Giáo Trung Quốc nói riêng và cho cả vùng Ðông Nam Á nói chung. Người ta còn tôn Ðạt Ma là "Thiền tông đệ nhất tổ".
Vào thời kỳ Nam Bắc triều phân tranh, ý thức và tư tưởng của Lão Trang tử phát triển rộng khắp. Vào hồi Nam triều đời vua Lương Võ đế niên hiệu Phổ đạo, Ðạt Ma đã ngồi thuyền tới Trung Hoa và cập bến Quảng Châu, nên thành Quảng Châu còn được gọi là "Tây lai sơ địa" dể đánh dấu việc đặt chân lên bờ của Ðạt Ma tổ sư khi ngài mới từ bên Tây Vực qua.
Dân Quảng Ðông lúc hồi đó thấy Ðạt Ma người đen như củ súng, lại râu tóc bờm xờm nên đã gọi ngài là "Ma la xát" và ngày nay người Quảng vẫn dùng câu đó để chỉ người Ấn Ðộ.
Sau đó Ðạt Ma tới Kim Lăng. Lương vũ Ðế Tiêu Khản đã thân hành tiếp đãi người, tuy rằng Tiêu Khản là vị vua rất ngoan đạo và có nhiều cống hiến to lớn đóng góp cho Phật giáo bấy giờ, song vì quá nặng về phần gíáo lý theo kinh sách, cho nên Ðạt Ma cảm thấy cơ duyên không hạp nên ngài đã bỏ đi. Ðịnh lên phía Bắc, nhưng lúc bấy giờ nước sông Trường Giang đang lên to, lại không có thuyền nên ngài đã ngắt một nhánh cỏ lau đặt xuống mặt nước và đặt chân lên, cứ thế rẽ sóng vượt con nước qua bờ ngạn bên kia như thể đi trên đất bằng. Những thường dân Trung Hoa đứng hai bên bờ sông lúc bấy giờ trông thấy cảnh tượng kỳ lạ như vậy cho là Bồ Tát đã giáng thế. Ðó là sự tích Ðạt Ma đạp nhánh cỏ lau, vượt sóng qua sông.
Sau khi vượt sông Trường Giang, Ðạt Ma đã đi lên miền núi Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, ở nơi ấy có ngôi chùa Thiếu Lâm. Thiếu Lâm tự được kiến tạo vào năm 496. Bạt Ðà là một vị cao tăng từ Thiên Trúc qua, rất được ông vua bấy giờ là Hiếu Văn Ðế trọng đãi, đã khai sáng ra ngôi chùa này, và người đã truyền dạy pháp môn tu tự giải thoát tiểu thừa tại nơi đây. Ba mươi năm đó, Bồ Ðề Ðạt Ma cũng lên tới đây, song người chỉ truyền dạy môn thiền mà thôi. Thiền Tông chủ trương "Bất lập văn tự, dĩ tâm truyền tâm" và "Trực chỉ nhâm tâm, kiến tánh thành Phật". Sau đó người đã vào "diện bích" trong động Thiếu Thất ở ngọn Ngũ Nhũ Phong liền trong 9 năm và người đã thành tựu sự truyền thừa của môn thiền tại nơi đây. Cho nên Thiếu Lâm tự còn được mệnh danh là "Ðình tổ của thiền tông" và Thiếu Thất động được gọi là "Ðạt Ma động" và được xếp hạng văn hiến lịch sử.
Trong những năm tháng xoay mặt vào vách đá ngồi thiền định, loài chim đã bay đến làm ổ trên mình mà ngài không hề hay biết. Qua đó đủ thấy thiền công thâm hậu của Người. Người thời bấy giờ gọi Ðạt Ma là "Bích quán la môn". Ngày nay bên Trung Hoa có pháp môn thiền rất nổi tiếng gọi là "Ðạt Ma diện bích công" được đông đảo người ưa thích và hâm mộ. Ðạt Ma đã từng thâu tóm pháp này trong mấy câu như sau:
Ngoại chỉ chư duyên,
Nội tâm vô suyễn,
Tâm như tường bích,
Khả dĩ nhập đạo.
Nghĩa rằng: ngoài bặt các duyên, trong không vọng niệm, tâm như tường đá, sẽ vào được đạo. Ngoài ra Người cũng hằng dạy cho các đệ tử phải luôn giữ theo 4 hạnh là: báo oán hạnh, tùy duyên hạnh, xướng pháp hạnh và vô sở cầu jạnh, cốt dùng để đối trị và giữ lòng bình thản trước mọi chướng duyên có thể diễn ra trong quá trình tu tập thiền định. Bởi thế, người đời cũng cho rằng: "Bích quán tứ hạnh, Vi Ðạt Ma chi đạo".
Trong thời gian Ðạt Ma ở núi Tung Sơn, Ngài đã thu nhận được một đệ tử là pháp sư Thần Quang, sau cho cải pháp danh là Huệ Khả. Câu chuyện được truyền tụng như sau:
Diêm Vương sai quỷ vô thường đi tìm pháp sư Thần Quang, Thần Qung biết là thọ hạn của mình đã tới, vội đi tìm Ðạt Ma để xin học pháp liễu sanh tử. Khi đó Ngài đang sửa soạn ngồi thiền, sau khi nghe hết ý định của Thần Quang Ngài chỉ quay đầu lại nhìn một cái đoạn mặc nhiên đi vào cuộc thiền định. Thần Quang vì thành tâm cầu pháp đã kính cẩn quỳ gối bên Người để chờ đợi. Vào một ngày mùa đông tuyết lạnh 9 năm sau đó, Ðạt Ma đã xuất định, khi nhìn thấy Thần Quang vẫn còn quỳ gối kế bên, người rất cảm động và ưng thuận cho làm đệ tử. Sau này Huệ Khả đã được Ðạt Ma truyền cho pháp y và 4 cuốn kinh Lăng gia để nối tiếp dòng truyền thừa của Thiền Môn.
Sau ngày viên tịch, các đệ tử đã đưa di hài của Ðạt Ma về an táng ở dưới chân núi Hùng Nhĩ Sơn, ở tỉnh Hà Nam. Sau đó , Bửu Tháp tàng trữ linh cốt Ðạt Ma cũng được xây cất lên ở nơi đó. Lại có một truyền thuyết nói rằng, sau khi đã thị tịch 3 năm, có người vẫn thấy Ðạt Ma đang ung dung đi trên đường. Lúc ấy Người bước đi chân không, một bên tay cầm cây thiền trượng, còn bên tay kia đang cầm lơ lửng một chiếc giầy. Hỏi rằng: -Người đi đâu đó? - thì trả lời rằng đi về Tây Thiên. Chuyện Ðạt Ma còn sống làm mọi người kinh ngạc và không tin, họ đã cùng nhau khai quật mồ Ðạt Ma và duy chỉ tìm thấy có một chiếc giầy mà thôi! Ðó là chuyện Ðạt Ma mang chiếc giầy trở về Tây Thiên.

Sau Ðạt ma. Huệ Khả trở thành nhị tổ, rồi lần lượt tới Tăng Xán làm tam tổ, Ðạo Tín là tứ tổ và Hoàng Nhẫn làm ngũ tổ của Thiền Tông. Trong thời kỳ Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, Thiền tông phân chia thành hai phái Bắc và Nam, phái Bắc thiền chủ trương tu tiệm ngộ tiểu thừa, vị đại biểu là Thần Tú pháp sư. Phái Nam thiền do Huệ Năng làm chủ trì, tu theo pháp đốn ngộ đại thừa. Câu chuyện được kể lại như sau: số là ngũ tổ bảo chúng đệ tử làm bài thi bằng thơ văn, để qua đó Người lựa tuyển kẻ nối dõi y bát, Thần Tú pháp sư là đại đệ tử của Người đã làm bài kệ như sau:
Thân thị bồ đề thụ,
Tâm như minh kính đài,
Thì thì cần phất thức,
Mạc sứ nhạ trần
Ý nói rằng: Thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, luôn luôn chăm lau chùi, chớ để nhuốm trần ai. Huệ Năng (638 - 713), tục họ Lư, người Tân châu, Quảng Ðông, nhà nghèo, làm nghề bán củi để nuôi mẹ, lúc đó mới xuất gia không bao lâu, làm công việc tạp dịch như xay giã gạo trong chùa, địa vị rất thấp kém lại dốt chữ, nhưng là bậc có huệ căn lớn, đã từng ứng khẩu đọc ra một bài thơ và nhờ tay kẻ khác ghi chép lại như sau:
Bồ đề bổn vô thụ,
Minh kính diệc phi đài,
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?
Nghĩa rằng: Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, đâu chỗ nhuốm trần ai? (phần dịch nghĩa của bài kệ này xin được mạn phép sao ra từ cuốn "Thiền đạo tu tập" do Chang chen Chi tiên sinh dịch.)
Hai bài kệ trên đều rất xuất sắc tuyệt vời, nhưng cũng nổi bật rõ nét đường hướng tâm pháp khác biệt nhau rõ ràng, và ngộ tính của Huệ Năng có phần cao hơn, cho nên đức ngũ tổ đã mật truyền cà sa do Ðạt Ma để lại cho Huệ Năng và ra chỉ thị phải bỏ về phương nam để tránh khỏi bị phe phái của Thần Tú ám hại. Sau này phái thiền bắc truyền của Thần Tú dần dần bị suy thoái, thiền tông nam truyền của pháp sư Huệ Năng ngày một phát triển, và được coi là dòng thiền tông chính thống.
Vào cuối đời Ðường, thiền đốn ngộ đại thừa lại phân chia ra thành 5 tông khác nhau như sau: Quy nhưỡng tông, Lâm tế tông, Tào động tông, Vân môn tông và Pháp nhãn tông. Sự kiện này xảy ra đã được tổ Ðạt Ma lường biết trước từ lâu và được người nêu lên trong mấy câu kệ để lại cho hậu thế như sau:
Ngô bản lai thử thổ.
Truyền pháp cứu mê tình,
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Trong khu vực lăng mộ của Ðạt Ma, có tấm bia đá lớn, trên ghi những lời của Lương Võ đế Tiêu Khản đã ca tụng Ðạt Ma và những công đức của Người. Truyện kể, khi xưa, vì làm Người phật ý bỏ đi, vua Tiêu Khản rất hối hận, đã cho kẻ hạ thần đuổi theo, để thỉnh Người về, nhưng đã muộn vì Người đã quá giang sang tới nước Ngụy. Sau khi Ðạt Ma viên tịch, Lương Võ Ðế cho xây lên tấm bia thạch nói trên để kỷ niệm Người.
Ngày nay, trên chùa Thiếu Lâm, trong ngôi "Thiên Phật Ðiện" có đặt thờ một phiến đá rầt quý và linh thiêng, đó là tấm "Diện bích ành thạch", đá cao ngoài thước tây, trên mặt đá có những đường chấm phá tự nhiên như bức tranh thủy mặc, miêu tả đầy đủ hình dong tướng mạo của Ðạt Ma. Theo truyền thuyết, trong suốt quá trình 9 năm trường ngồi ngó vách nhập định, hình hài Ðạt Ma đã được phóng xạ và ghi tạc lên phiến đá. Nghe nói, nếu ai có duyên may mắn, được kề cận bên tấm đá linh thiêng này để ngồi thiền, sẽ dễ dàng nhập được vào cuộc định, tựa như đã tiếp nhận được sự gia trì của Ðạt Ma Thiền Sư vậy.
Ngày nay hàng năm nhằm ngày mồng 5 tháng 10 âm lịch là ngày kỷ niệm Bồ Ðề Ðạt Ma giáng sanh.
Nguồn: Ebook “Dịch cân kinh thực hành” – Trần Tâm Viễn
----------------
(Đỗ An) Bàn thêm về chuyện chiếc giày của Bồ Đề Đạt Ma
Như trên đã đề cập, sau ngày viên tịch, các đệ tử đã đưa di hài của Ðạt Ma về an táng ở dưới chân núi Hùng Nhĩ Sơn, ở tỉnh Hà Nam. Sau đó , Bửu Tháp tàng trữ linh cốt Ðạt Ma cũng được xây cất lên ở nơi đó. Lại có một truyền thuyết nói rằng, sau khi đã thị tịch 3 năm, có người vẫn thấy Ðạt Ma đang ung dung đi trên đường. Lúc ấy Người bước đi chân không, một bên tay cầm cây thiền trượng, còn bên tay kia đang cầm lơ lửng một chiếc giầy. Hỏi rằng: -Người đi đâu đó? - thì trả lời rằng đi về Tây Thiên. Chuyện Ðạt Ma còn sống làm mọi người kinh ngạc và không tin, họ đã cùng nhau khai quật mồ Ðạt Ma và duy chỉ tìm thấy có một chiếc giầy mà thôi! Ðó là chuyện Ðạt Ma mang chiếc giầy trở về Tây Thiên.
Vậy thiền trượng và chiếc giày mà Đạt Ma cầm có ý nghĩa biểu trưng gì?
Theo tôi, thiền trượng là biểu trưng của sự giác ngộ còn chiếc giày là biểu trưng của cõi đời đến - đi. Tại sao đức Đạt Ma chỉ mang theo một chiếc giày? Là vì con người trong cuộc đời cát bụi, chết đi nhưng vẫn còn lại những dấu tích trên dương thế. Dấu tích đó lại tùy duyên mà hiện hữu hay tịch diệt.
Còn chiếc giày mà Đạt Ma mang theo là chiếc giày trở về Tây Thiên - cõi siêu thoát. Mang giày cùng thiền trượng theo phải chăng là ý: con người muốn siêu thoát thì phải giác ngộ.
Có nhiều hình ảnh về chiếc giày Đạt Ma, nhưng điểm chung giữa những hình ảnh đó là chiếc giày luôn được treo trên cây thiền trượng. Điều đó phải chăng cũng nằm trong cái ý siêu thoát - giác ngộ.
Nguon Internet