Apr 25, 2024

Đường thi Trung Quốc

Trang Tho Vương Duy
Vương Duy - 王 維 * đăng lúc 06:07:26 PM, Mar 16, 2015 * Số lần xem: 3880
Hình ảnh
#1

 

Vị Thành khúc - Tống Nguyên nhị sứ An Tây 渭城曲-送元二使安西
• Khúc hát Vị Thành - Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây


渭城曲-送元二使安西 

 
 
 
西

 

Vị Thành Khúc

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần ,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân .
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu ,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân .

Vương Duy

Dịch nghĩa :
Khúc Vị Thành
Tại Vị Thành , mưa sáng làm ướt lớp bụi nhẹ . Quán khách xanh , sắc liễu mới mẻ . Mời bạn uốn cạn thêm một chén rượu nữa , vì đi ra Dương Quan phía tây , bạn sẽ không còn nó cố nhân .


Khúc Vị Thành

Thành Vị mưa mai ướt bụi trần ,
Xanh xanh quán khách, liễu tươi xuân .
Ly bôi một chén , xin mời cạn .
Ra đến Dương Quan , không cố nhân .

Bản dịch Trần Trọng San

Ghi chú :
* Vị Thành : tên đất , thành cũ , nay ở phía đông huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây .
* Dương Quan : tên một cửa quan cũ , nay ở phía tây nam huyện Đôn Hoàng , tỉnh Cam Túc .

 

Bản dịch của Bùi Giáng

Vị Thành mưa sớm mù tăm 
Cõi miền bụi ướt thấm dầm ngõ thuôn 
Quán mờ liễu thắm xanh buông 
Mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân 
Tiền trình quan ải tây phân 
Đèo truông ra khỏi cố nhân không còn...

(Trích Mùa xuân trong thi ca - Bùi Giáng)

Bản dịch của Trần Nhất Lang

Mượt mà rặng liễu xanh xanh 
Bụi rơi buổi sớm Vị Thành mưa bay 
Mời anh hãy cạn chén này 
Dương Quan đi khỏi biết ai quen mình.


 

Chước tửu dữ Bùi Địch 酌酒與裴迪
• Rót rượu mời Bùi Địch

 


酌酒與裴迪
 

 
 
 
 
 
 
 

Chước tửu dữ Bùi Địch

Chước tửu dữ quân quân tự khoan
Nhân tình phiên túc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia san

Dịch nghĩa 

Rót rượu mời bạn, xin bạn thong thả 
Nhân tình tráo trở như sóng nhồi 
Đầu bạc biết nhau lâu mà còn chống gươm nhìn 
Cửa quyền quý người làm quan cười kẻ chưa ra làm quan 
Màu cỏ hoàn toàn được mưa li ti làm ướt đẫm 
Cành hoa vừa muốn nở thì đã bị gió xuân lạnh lẽo thổi 
Chuyện đời như mây trôi không đáng hỏi đến 
Không bằng cứ nằm ườn ra còn ăn thêm nhiều vào

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Chuốc anh chén rượu để anh vui 
Lật lọng, đời như sóng mặt khơi 
Đầu nạc biết nhau còn giữ miếng 
Cửa son tới trước đã khinh người 
Đầm đìa sắc cỏ nhờ mưa gội 
Rung động cành hoa bị gió thui 
Mây nổi việc đời chi đáng hỏi 
Ăn no, nằm khểnh chẳng rồi hơi

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Mời anh cạn chén cho nguôi 
Tình người tráo trở sóng giồi khác đâu 
Tuốt gươm nhắm bạn bạc đầu 
Hợm mình sớm đạt khinh nhau muộn thành 
Mưa dần ướt đẫm cỏ xanh 
Gió xuân lạnh lẽo đón cành hoa rung 
Việc đời mây bổng chớ mong 
Sao bằng nằm khểnh với cùng ăn no

Bản dịch của Đinh Vũ Ngọc

Mời anh cạn chén để nguôi sầu, 
Tráo trở tình đời khác sóng đâu. 
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm, 
Cửa son hiển đạt lại cười nhau. 
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới, 
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu. 
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi, 
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Rót rượu mời anh, anh uống thôi! 
Lòng người tráo trở, sóng sông dồi. 
Chống gươm, tóc bạc cùng quen biết, 
Rũ mũ, lầu son chớ để dôi! 
Màu cỏ ướt đầm mưa bụi phủ, 
Cành hoa run lạnh gió xuân trôi. 
Việc đời mây nổi xin đừng hỏi, 
Nằm khểnh ăn no cũng thích rồi!

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997


Bản dịch của Đông A

Rót rượu mời Bùi Địch


Nâng chén mời anh anh tự khoan
Tình người tráo trở sóng giồi lan
Bạc đầu quen biết còn giương kiếm
Phú quý thành công diễu bạn quèn
Sắc cỏ toàn thường mưa móc đẫm
Cành hoa khẽ động gió xuân hàn
Mây trôi thế sự mong chi nữa
Sao chẳng nằm dài lại được ăn

Tây Thi vịnh 西施詠
• Vịnh Tây Thi

西施詠 

 
西 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 

Tây Thi vịnh 

Diễm sắc thiên hạ trọng, 
Tây Thi ninh cửu vi. 
Triêu vi Việt khê nữ, 
Mộ tác Ngô cung phi. 
Tiện nhật khởi thù chúng, 
Quý lai phương ngộ hy. 
Yêu nhân phó chi phấn, 
Bất tự trước la y. 
Quân sủng ích kiêu thái, 
Quân liên vô thị phi. 
Đương thì hoán sa bạn, 
Mạc đắc đồng xa quy. 
Trì tạ lân gia tử, 
Hiệu tần an khả hy.

 

Dịch nghĩa 

Vì thiên hạ trọng sắc đẹp, 
Nên nàng Tây Thi lẽ nào ở trong cảnh nghèo. 
Buổi sớm còn là cô gái (giặt lụa) bên khe (Nhược Da) nước Việt, 
Buổi chiều đã là phi tần trong cung vua Ngô. 
Thuở hàn vi nào đâu có khác gì mọi người, 
Khi sang trọng rồi mới biết là hiếm có. 
Nàng sai người thoa phấn thơm, 
Nàng không tự mặc lấy áo lụa. 
Được vua yêu quý, nàng càng thêm kiêu, 
Vua thương không kể gì điều phải trái. 
Những cô bạn thời ấy cũng giặt lụa, 
Chẳng ai được ngồi cùng xe với nàng về cung vua. 
Nàng nhắn đáp cô gái nhà hàng xóm, 
Bắt chước nhăn mặt, đâu có mong được gì?

 


Tây Thi còn gọi là Tây Tử, họ Thi tên Di Quang, có nhan sắc, con của một người bán củi ở núi La nước Việt. Nàng thường giặt lụa ở khe Nhược Da (ở phía nam huyện Chư Kỵ tỉnh Chiết Giang), được Việt vương Câu Tiễn dùng làm kế mỹ nhân dâng Ngô vương Phù Sai, khiến Phù Sai say đắm, vì thế Câu Tiễn có cơ hội diệt được nước Ngô. 

 


Dịch thơ :
Trần Trọng San dịch

Vịnh Tây Thi

Thiên hạ còn yêu vì sắc đẹp ,
Tây Thi há mãi chịu hàn vi ?
Sáng còn là gái bên khe Việt ,
Chiều đã sang Ngô , làm quí phi .
Lúc nghèo , há khác chi người khác ;
Giàu sang , mới rõ hiếm ai bì .
Phấn son cũng vậy người trao chuốt ;
Mặc áo , nhờ tay kẽ giúp vì .
Vua mến , lại càng thêm vẽ đẹp ;
Vua thương , chẳng kể thị cùng phi .
Bạn bè giặt lụa bên khe trước ,
Không được chung xe đón rước về .
Nhắn lời bạn gái bên hàng xóm :
Bắt chước nhăn mày , phỏng ích chi ?

 

Bản dịch của Đông A

Sắc đẹp thiên hạ trọng 
Há mãi hèn Tây Thi 
Sớm bên khe Việt nữ 
Chiều chính cung Ngô phi 
Lúc nghèo đâu khác lạ 
Khi sang quả hữu hi 
Sai người thoa hương phấn 
Chẳng tự mặc xiêm y 
Vua yêu càng duyên dáng 
Vua quý mặc thị phi 
Bạn thuở xưa giặt lụa 
Về cùng xe hòng chi 
Nhắn cô ả bên xóm 
Nhăn mặt mong được gì

Bản dịch của Tản Đà

Thế gian sắc đẹp ai bì 
Tây Thi không nhẽ hàn vi suốt đời 
Sớm còn gái Việt bên ngòi, 
Cung Ngô tối đã lên ngồi cạnh vua. 
Lúc hèn, ai chẳng hơn thua, 
Khi sang mới biết đời chưa mấy người. 
Phấn son gọi kẻ tô, giồi, 
Áo là em mặc có người xỏ tay. 
Vua yêu càng lắm vẻ hay, 
Vua thương, phải trái mặc bay sá gì. 
Giặt sa những bạn đương thì, 
Cùng xe chẳng được đi về với ta. 
Xin van cô ả bên nhà, 
Cũng đòi "nhăn mặt" khó mà như nhau.
 

 

 

Quá Hương Tích tự 過香積寺
• Qua chùa Hương Tích

過香積寺 

 
 
 
 
 
 
 


 

Quá Hương Tích tự 

Bất tri Hương Tích tự, 
Sổ lý nhập vân phong. 
Cổ mộc vô nhân kính, 
Thâm sơn hà xứ chung. 
Tuyền thanh yết nguy thạch, 
Nhật sắc lãnh thanh tùng. 
Bạc mộ không đàm khúc, 
An thiền chế độc long.

 

Dịch nghĩa 

Không biết chùa Hương Tích ở đâu ? 
Đi mấy dặm lên đến chỗ núi mây cao ngất. 
Cây cổ thụ mọc um tùm không có vết đường tắt người qua lại. 
Núi sâu, có tiếng chuông ở đâu ngân lên ? 
Tiếng nước suối đập vào gành đá nghe như bị nghẹn lại. 
Sắc mặt trời có vẻ lạnh lẽo luồn qua lùm thông xanh. 
Chiều hôm vắng vẻ trên khu đầm nước. 
Muốn chế ngự con rồng độc ác thì phải qui y nơi cửa thiền.

Qua chùa Hương Tích

Chùa Hương nào có thấy
Vài dặm mây non trùng
Cây cổ không đường lối
Núi sâu đâu tiếng chuông
Nước khe đập nghẹn đá
Bóng nắng lạnh xanh tùng
Chiều tận đầm hoang vắng
Trị rồng bằng phép không

Đông A dịch

QUA CHÙA HƯƠNG TÍCH

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,
Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao.
Cây um đồng tắt vắng teo,
Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa ?
Suối kêu gành đá ria bờ,
Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.
Trời hôm tấc dạ thanh minh,
Quy y đạo Phật sửa mình là hơn.

TẢN ĐÀ dịch

 

Bản dịch của Trần Nhất Lang

Chẳng hay Hương Tích ở nơi đâu 
Mấy dậm mây lồng ngọn dốc cao 
Cây cỏ quạnh hiu đường núi vắng 
Chuông chùa văng vẳng chốn khe sâu 
Suối tuôn róc rách len dòng đá 
Thông nhuốm lạnh lùng xế bóng câu 
Thanh thoát cõi lòng, đầm một giải 
Độc long hàng phục phép Thiền mầu

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu 
Trèo lên mấy dặm núi cao mây hồng 
Một đường cây cổ vắng không 
Chuông đâu nghe vẳng chỗ cùng non xa 
Tiếng khe bên đá tuôn ra 
Vẻ trời lạnh lẽo bơ phờ cây thông 
Chiều hôm đầm vắng uốn vòng 
Phép thiền mầu nhiệm độc long nép mình

Bản dịch của Giản Chi

Chẳng biết chùa Hương Tích 
Non mây mấy dặm sâu 
Rừng già không lối lách 
Núi thẳm vẳng chuông đâu 
Đá dựng suối nghẹn tiếng 
Thông xanh nắng lạnh màu 
Đầm không trời chạng vạng 
Niềm tục gột lầu lầu

Quy Tung Sơn tác 歸嵩山作
• Làm khi về Tung Sơn

歸嵩山作 

 
 
 
 
 
滿 
 


 

Quy Tung Sơn tác 

Thanh xuyên đới trường bạc, 
Xa mã khứ nhàn nhàn. 
Lưu thuỷ như hữu ý, 
Mộ cầm tương dữ hoàn. 
Hoang thành lâm cổ độ, 
Lạc nhật mãn thu sơn. 
Điều đệ Tung cao hạ, 
Quy lai thả bế quan.

 

Dịch nghĩa 

Sông xanh chảy quanh rừng cây cỏ rậm rì 
Ngựa xe qua lại thong thả 
Nước chảy như có tình ý 
Chim buổi chiều cùng ta bay về 
Thành hoang nhìn ra hướng bến đò cũ 
Trời lặn đầy trên núi mùa thu 
Xa xa dãy Tung Sơn cao thấp (chạy dài) 
Về tới rồi chắc là đóng cửa

 


Tung Sơn là một trong Ngũ nhạc, cách 10 dặm phía bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam. Núi có hai quả, đông là Thái Thất, tây là Thiếu Thất.

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Suối trong quanh giữa rừng thưa 
Ngựa xe đi đó từ từ thẩn thơ 
Nước trôi có ý đón chờ 
Chim hôm dường muốn đợi ta cùng về 
Thành hoang cạnh bến đò kia 
Bóng chiều đã giọi khắp rìa núi thu 
Non Tung thăm thẳm nhấp nhô 
Về đây đóng cửa để tu mới màu

 

 

Bản dịch của Giản Chi

Sông trong quanh bụi rậm 
Ung dung xe ngựa đi 
Như quen dòng nước đón 
Có bạn cánh chim về 
Thành hoang kề bến cũ 
Bóng xế ngập non tê 
Dài dặc triền Tung lĩnh 
Then cài gác thị phi
 

Bản dịch của Trần Nhất Lang

Suối biếc rừng thưa chảy một dòng 
Ngựa xe ta đến ruổi thong dong 
Chim hôm xao xác chừng như đợi 
Nước bạc lững lờ có ý trông 
Chiều ngả non thu màn nắng nhạt 
Bóng hoang bến cũ dẫy thành không 
Núi Tung ngất ngưởng cao thăm thẳm 
Đóng cửa từ nay lánh bụi hồng.

Làm khi về Tung Sơn

Suối trong xuyên nội cỏ
Xe ngựa chạy nhàn du
Nước chảy như chào đón
Chim hôm dường đợi chờ
Thành hoang trên bến cũ
Chiều đổ khắp ngàn thu
Vời vợi non Tung đó
Về đây đóng cửa tu

Đông A dịch


Trả lời Bùi Ðịch

Mênh mang nước lạnh rộng trôi
Xanh xanh mù mịt kín trời mưa thu
Anh thãm hỏi núi Nam ý
Tâm tôi ngoài đám mây mờ nào hay

Ðông A dịch

Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông
huynh đệ 九月九日憶山東兄弟 • Ngày trùng cửu nhớ huynh đệ ở Sơn Đông

Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ

Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Dao chi huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân

Dịch nghĩa :

Một mình làm khách lạ nơi đất lạ
Mỗi khi trời đẹp càng nhớ người thân bội phần
Tuy xa nhưng biết nơi anh em đang lên núi chơi đấy
Ai cùng ngắt cành thù du cả , chỉ thiếu có một người

Dịch thơ :
Ngày 9 tháng 9 nhớ anh em ở Sơn Đông

Đất lạ đơn côi làm khách lạ
Mỗi lần tiết đẹp nhớ nhà hoài
Vẫn hay huynh đệ lên cao đấy
Đều cắm thù du thiếu một người

Đông A dịch

Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng

Đất lạ, ta làm người khách lạ 
Nhớ người thân quá, buổi trời tươi 
Tuy xa, biết mọi người lên đấy 
Cài nhánh thù du, thiếu một người…


 
Sơn trung 山中 • Trong núi 

山中

谿 
 
 


 

Sơn trung 

Kinh khê bạch thạch xuất, 
Thiên hàn hồng diệp hy. 
Sơn lộ nguyên vô vũ, 
Không thuý thấp nhân y.

 

Dịch nghĩa 

Mặt trời mọc trên dòng suối hiểm trở 
Trời lạnh, lá đỏ thưa thớt 
Trên con đường núi không có mưa 
Hơi núi làm ướt áo người

Dịch thơ :

Trong núi

Rạng đông khe hiểm trở
Lá đỏ lạnh trời thưa
Ðường núi mưa nào có
Khí lam đẫm áo chưa

Ðông A dịch ...

Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình 與盧員外象過崔處士興宗林亭 • Cùng viên ngoại Lư Tượng qua nhà ở trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tông

 

與盧員外象過崔處士興宗林亭 

 
 
 


 

Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình 

Lục thụ trùng âm cái tứ lân 
Thanh đài nhật hậu tự vô trần 
Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ 
Bạch nhãn khán tha thế thượng nhân.

 

Dịch nghĩa 

Cây xanh lớp lớp che mát cả bốn phía, 
Rêu xanh ngày một dày, tự nó đã không có bụi rồi. 
Dưới gốc cây thông cao, đầu không khăn, ngồi xoạc cẳng, 
Nhìn người đời bằng con mắt không ganh đua.
 

Dịch thơ :

Cùng với viên ngoại Lô Tượng qua nhà
ở trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tôn

Cây xanh lồng bóng rợp bao phần
Rêu biếc lớp dầy sạch bụi trần
Ngồi duỗi đầu trơ tùng bóng cả
Trắng không hai mắt ngó tha nhân

Đông A dịch

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Cây cao lớp lớp bóng lồng, 
Rêu xanh mặt đất, sạch không bụi trần. 
Dưới tùng, ngồi ruỗi, đầu trần, 
Trông ai mắt trắng, tần ngần như không.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Cây tươi che mát khắp chung quanh, 
Sạch bụi làn rêu lớp lớp xanh. 
Nằm dưới gốc thông, đầu xoã tóc, 
Nhìn đời giương mắt trắng tinh anh.

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

 

輞川閑居 

 
 
 
 
 
 
 


 

Võng Xuyên nhàn cư 

Nhất tòng quy Bạch Xã, 
Bất phục đáo Thanh Môn. 
Thời ỷ thiềm tiền thụ, 
Viễn khan nguyên thượng thôn. 
Thanh cô lâm thuỷ ánh, 
Bạch điểu hướng sơn phiên. 
Tịch mịch Ư Lăng tử, 
Kết cao phương quán viên.

 

Dịch nghĩa 

Từ khi quay trở về Bạch Xã 
Chưa trở lại chỗ Thanh Môn 
Có lúc dựa vào gốc cây trước mái nhà 
Nhìn xa xa thôn xóm ở trên mé đồi 
Cỏ cô nhìn xuống nước ánh chiếu 
Chim trắng vọng mé núi lượn 
Người Ư Lăng vốn tịch mịch 
Lấy nước giếng tưới vườn
 

  

Võng Xuyên nhàn cư 輞川閑居 • Nhàn cư ở Võng Xuyên

Dịch thơ :
NHÀN CƯ Ở VÕNG XUYÊN

Một theo về Bạch Xã
Không trở lại Thanh Môn
Khi tựa cây bên cửa
Thoáng trên đồng bóng thôn
Cỏ xanh soi ánh nước
Chim trắng bay về non
Tịch mịch Ư Lăng chốn
Quay gầu nước tưới vườn

Đông A dịch

 

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Từ khi Bạch Xã trở về 
Thanh Môn cửa ấy chẳng hề vãng lai 
Trước thềm có lúc dựa cây 
Xa trông làng xóm ở ngay trên đồi 
Cỏ cô xanh ánh nước trôi 
Non cao chim trắng loi thoi bay về 
Ư Lăng hiu quạnh khác chi 
Loay hoay lấy nước giếng kia tưới vườn

- Bạch Xã : nơi ở của Vương Duy ở Vơng Xuyên, đặt theo tên Bạch Liên Xã do Tuệ Viễn pháp sư đời Tấn lập .
- Thanh Môn : tên cửa phía đông thành Trường An
 
 

Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương 送綦毋潛落第還鄉 • Ðưa Kỳ Vô Tiềm thi hỏng trở về quê

送綦毋潛落第還鄉 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 

Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương 

Thánh đại vô ẩn giả, 
Anh linh tận lai quy. 
Toại linh Ðông Sơn khách, 
Bất đắc cố thái vi. 
Ký dĩ kim môn viễn, 
Thục vân ngô đạo phi. 
Giang Hoài độ hàn thực, 
Kinh Lạc phùng xuân y. 
Trí tửu Trường An đạo, 
Ðồng tâm dữ ngã vi. 
Hành đương phù quế trạo, 
Vị kỷ phất kinh phi. 
Viễn thụ đới hành khách, 
Cô thành đương lạc huy. 
Ngô mưu thích bất dụng, 
Vật vị tri âm hy.

TỐNG CƠ VÔ TIỀM LẠC ĐỆ HOÀN HƯƠNG

Thánh đại vô ẩn giả,
Anh linh tận lai quy.
Toại linh Ðông Sơn khách,
Bất đắc cố thái vi.
Ký dĩ kim môn viễn,
Thục vân ngô đạo phi.
Giang Hoài độ Hàn thực,
Kinh Lạc phùng xuân y.
Trí tửu Trường An đạo,
Ðồng tâm dữ ngã vi.
Hành đương phù quế trạo,
Vị kỷ phất kinh phi.
Viễn thụ đái hành khách,
Cô thành đương lạc huy.
Ngô mưu thích bất dụng,
Vật vị tri âm hi

Dịch nghĩa:

Dịch nghĩa 

Ðời thịnh, không có người ở ẩn 
Những người tài giỏi đều tụ tập về (chốn kinh đô) 
Khiến cho người khách ở Ðông Sơn 
Không thể chăm chú mà hái rau vi được 
Ðã đi tới chốn cửa vàng xa xôi kia rồi 
Mà ai còn nói đạo của ta không đúng 
Lúc ở Giang Hoài đón tiết hàn thực 
Nơi Kinh Lạc may áo mùa xuân 
Bày tiệc rượu ở khu Trường An 
Tôi và anh đã hiểu lòng nhau 
Ðường về chèo quế bồng bềnh 
Không lâu nữa anh sẽ đến cổng tre 
Cây cối xa xăm che mát cho khánh đi đường 
Nắng chiều đang chiếu xuống thành quách quạnh hiu 
Tài trí mưu lược của anh chưa được dùng 
Nhưng chớ cho là hiếm hoi kẻ tri âm

 


(Năm 721) 

Bản dịch của Trường Tương Tư

Thịnh đời, khó kẻ ẩn danh 
Đông Sơn bỏ hái rau xanh độ ngày 
Ùng ùng khách giỏi anh tài 
Xa xôi trực chỉ tường đài Kinh Đô 
Bốn phương tám hướng đổ xô 
Vị chi mấy kẻ được vô Cửa Vàng 
Tiệc bày tiễn bạn Trường An 
Lúc xưa Kinh Lạc áo Xuân đón chào 
Giang Hoài Hàn thực đã lâu 
Đón hoa tuyết lạnh cũng bao năm rồi 
Rượu nầy cách biệt ngăn đôi 
Anh về chốn cũ xa nơi thị thành 
Đường quê chèo quế, tre xanh 
Làng thôn, bóng mát hửu tình nhẹ đưa 
Tài anh chẳng được kẻ ưa 
Cũng đừng tự trách người chưa hiểu mình.

 

Thanh Khê 青谿 • Thanh Khê

青谿 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

THANH KHÊ

Ngôn nhập Hoàng Hoa xuyên,
Mỗi trục thanh khê thủy .
Tùy sơn tương vạn chuyển,
Thú đồ vô bách lý.
Thanh huyên loạn thạch trung,
Sắc tĩnh thâm tùng lý .
Dạng dạng phiếm lăng hạnh,
Trừng trừng ánh giả vĩ .
Ngã tâm tố dĩ nhàn,
Thanh xuyên đạm như thử .
Thỉnh lưu bàn thạch thượng,
Thùy điếu tương dĩ hỉ .

Dịch nghĩa:

Thanh khê

Có lời rằng vào sông Hoàng Hoa,
Sẽ lần ra được giòng nước khe Thanh.
Khe nước chảy quanh co uốn khúc theo hình thế
núi non,
Chạy dài gần trăm dặm .
Tiếng nước đập ầm ầm trên mỏm đá,
Cảnh sắc tĩnh mịch trong rừng thông âm u .
Rau lăng,rau hạnh nổi bập bềnh,
Cây lau, cây sậy soi bóng trên làn nước trong trẻo.
Lòng ta vốn ưa thích thanh nhàn,
Giòng sông xanh êm ả như thế.
Xin mời ngồi trên phiến đá kia,
Buông chiếc cần câu mà quên lãng việc đời.


Bản dịch của Trần Trọng Kim

Nói vào suối Hoàng hoa len lỏi 
Dọc Thanh khê một lối đến cùng 
Quanh co theo núi trập trùng 
Độ chừng trăm dặm một vùng tươi xanh 
Tiếng huyên náo nước quanh đá chảy 
Dưới bóng tùng hết thảy lặng im 
Chồng chềnh rau cỏ êm đềm 
Sậy lau ánh nước bóng chìm miên man 
Lòng ta vẫn ưa nhàn đã sẵn 
Thấy thanh xuyên lặng hẳn thế kia 
Ngồi trên bàn thạch bên khe 
Buông câu nhử cá có gì là hơn

 

Vị Xuyên điền gia 渭川田家
• Cảnh nhà nông ở Vị Xuyên

渭川田家 

 
 
 
 
 
 
 
 
 

VỊ XUYÊN ĐIỀN GIA

Tà quang chiếu khư lạc,
Cùng hạng ngưu dương quy.
Dã lão niệm mục đồng,
Ỷ trượng hậu kinh phi.
Trĩ cấu mạch miêu tú,
Tàm miên tang diệp hi.
Ðiền phu hà sừ chí,
Tương kiến ngữ y y.
Tức thử tiện nhàn dật,
Trướng nhiên ngâm Thức vi

Dịch nghĩa:

Cảnh nhà nông ở Vị Xuyên

Ánh nắng chiều chiếu xuống xóm làng,
Trong hẻm sâu trâu dê đang trở về.
Ông lão nhà quê trông chờ trẻ chăn trâu,
Chống gậy đứng nơi cổng tre.
Chim trĩ kêu,lúa mạch tốt tươi,
Tằm đã ngủ, lá dâu còn lại lưa thưa.
Người nông dân vác cuốc tới,
Gặp nhau chuyện vãn như thường ngày.
Ðó chính là ưa chuộng đời sống an nhàn,
Thanh thản mà hát bài ca Thức vi.
 

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Bóng tà chiếu xuống hương thôn 
Trâu dê ngõ hẻm đã dồn về xong 
Ông già mong đợi mục đồng 
Cửa sài chống gậy đứng trông ở ngoài 
Trĩ kêu ngọn lúa tốt tươi 
Tằm đà yên ngủ dâu còi lá thưa 
Điền phu vác cuốc chân đưa 
Thấy nhau trò chuyện cũng như ngày thường 
Đó là nhàn dật rõ ràng 
Thẩn thơ hát khúc dịu dàng "Thức vi"

Bản dịch của Giản Chi

Nắng chiều nghiêng dọi xóm quê 
Ngõ sâu đủng đỉnh trâu dê về chuồng 
Cụ nhà quê thương nuông lũ mục 
Gậy kề bên chờ chực cổng ngoài 
Trĩ kêu bông lúa mạch dài 
Dâu khan ngủ miiết con ngài đợi dâu 
Mấy anh điền tốt gặp nhau 
Cuốc trên vai góp mấy câu tầm phào 
Cảnh nhàn ấy ai nào chả chuốc? 
Mình ngậm ngùi ca khúc "Thức vi"

Nguồn: Vương Duy thi tuyển, Giản Chi tuyển dịch, NXB Văn học, 1996

Tương tư 相思 • Tương tư

相思 

 
 
 

TƯƠNG TƯ

Hồng đậu sinh nam quốc
Xuân lai phát kỷ chi
Nguyện quân đa thái hiệt
Thử vật tối tương tư

Dịch nghĩa :

Ðậu đỏ sinh ở phương nam
Mùa xuân đến nở bao cành rồi ?
Xin bác hái cho nhiều
Vật ấy rất gợi cho chuyện nhớ thương nhau

Ðậu đỏ : một giống đậu nhỏ màu son rất đẹp , dùng làm đồ trang sức , người xưa cho nó là tượng trưng của tình yêu

Dịch thơ :

NHỚ NHAU

Ðậu hồng sinh ở miền nam
Ðến xuân này lại nở thêm mấy cành
Lượm về nhiều nhé hỡi anh
Giống này mới thật nặng tình tương tư

Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng

Phương Nam đậu đỏ sinh sôi 
Mùa xuân đến, mấy cành rồi nẩy xanh? 
Hái cho nhiều nhé nghe anh! 
Giống này nó rất gợi tình nhớ nhau.

Trúc Lý quán 竹里館 • Quán Trúc Lý

竹里館 

 
 
 

Trúc Lý Quán

Độc tọa u hoàng lý ,
Đàn cầm phục trường khiếu .
Thâm lâm nhân bất tri ,
Minh nguyệt lai tương chiếu .

Vương Duy

Dịch nghĩa :
Quán Trúc Lý
Một mình ngồi trong bụi tre tối tăm , ta gẩy đàn rồi lại huýt sáo . Trong rừng sâu , người không biết được ; chỉ có trăng sáng đến chiếu lên mình .

Dịch thơ :
Quán Trúc Lý

Một mình ngồi giữa trúc ,
Gẩy đàn huýt sáo chơi .
Rừng sâu , không kẻ biết ,
Trăng sáng chiếu lên người .

Bản dịch Trần Trọng San

Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng

Một mình trong bụi trúc 
Huýt sáo và dạo đàn 
Rừng sâu nào ai biết? 
Chỉ trăng soi ánh vàng.

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Một mình giữa đám rừng tre 
Đánh đàn cao hứng hát nghe một bài 
Rừng sâu nào có ai hay 
Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Riêng ngồi trong luỹ tre xanh 
Tay đàn miệng huýt một mình mình vui 
Rừng sâu ai biết là ai 
Chỉ vầng trăng sáng đến soi bên mình

Ghi chú :
_ Trúc Lý quán : quán Dặm trúc ,ở trong Vơng Xuyên trang của Vương Duy

 

 Nam mang

Khinh chu nam mang khứ
Bắc mang miểu nan tức
Cách phủ vọng nhân gia
Viễn viễn bất tương thức

Dịch Thõ
Ðồi Nam

Thuyền nhẹ rời đồi nam
Ðồi bắc sóng khó dừng
Cách bờ nhà xa ngắm
Vời vợi chẳng quen chung

Vũ Thế Ngọc

Phụng ký Vi thái thủ bộ

Hoang thành tự tiêu tác
Vạn lý sơn hà không
Thiên cao thu nhật huynh
Liêu lệ văn quy hồng
Hàn đường ánh suy thảo
Cao quán lạc sơ đồng
Lâm thử tuế phương yến
Cố ảnh vịnh bi ông
Cố nhân bất khả kiến
Tịch mịch bình lâm đông

Dịch Thơ
Phụng gửi Vi thái thủ bộ

Thành hoang tàn xơ xác
Núi sông vạn dặm không
Thênh thang trời thu rộng
Não nùng vang tiếng hồng
Hồ lạnh soi cỏ úa
Thềm cao rụng lá hồng
Cuối cùng năm tháng xế
Nhìn bóng mà xót thương
Cố nhân nào còn thấy
Tịch mịch mé rừng đông.

Vũ Thế Ngọc


Sơn thù du

Châu báu sơn hạ khai
Thanh hương lãnh cách phát
Hạnh hữu tùng quế hoa
Song tiề hướng thu nguyệt

Dịch Nghĩa
Châu báu như bày dưới núi
Hương thanh ngát, mát lạnh bay lên
Vui gặp gỡ những chùm hoa quế
Ở song cửa hướng ra ánh trăng mùa thu

 


Dịch Thơ
Hoa Thù Du núi

Châu ngọc bày dưới núi
Hương lành ngát lạnh dâng
Vui góp từng chùm quế
Trăng thù đầy trước song

Vũ Thế Ngọc

Tích vũ Vơng Xuyên trang tác

Tích vũ không lâm yên hỏa trì
Chung lê xuy thận hướng đông phiên
Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ
Âm âm hạ mộc chuyển hoàng ly
Sơn trung tập tĩnh quan triêu hoa
Tùng hạ thanh trai triết lộ quì
Dã lão dữ nhân tranh tịch bãi
Hải âu hà sự cánh tương nghi?

Dịch Thơ :

Sáng tác sau cơn mưa ở Vơng Xuyên

Rừng vẳng sau mưa khói mịt mùng
Hơi lê bếp lửa tỏa trên nương
Mờ mờ ruộng nước cò bay trắng
Thấp thoáng bờ cây chim vấn vương
Giữa núi bình yên nhìn nụ sớm
Dưới thông trai lại nhặt thuỳ sương
Lão quê đã chán trò thua được
Hà cớ chim âu vẫn ngại ngùng?

Bản dịch: Vũ Thế Ngọc


Tống Nguyên nhị sứ An Tây

Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân

Dịch Thơ:

Tiễn Nguyên nhị đi sứ An Tây

Vị Thành mưa sớm bụi bay
Phố xanh sao ướt đẫm màu liễu tươi
Mời anh cạn chén ly bôi
Dương Quan qua khỏi ai người cố nhân

Vũ Thế Ngọc

Tức phu nhân

Mạc dĩ kim thời sủng
Năng vong cựu nhật ân
Khán hoa mãn nhãn lệ
Bất cộng Sở vương ngôn.

Dịch Nghĩa
Đâu phải vì sự sủng ái bây giờ mà có thể quên được ân tình ngày xưa. Ngắm hoa mà lệ chứa chan đôi mắt, không nói một lời nào với vua nước Sở.
Chú thích: Tức phu nhân nguyên là vợ vua nước Tức. Vua nước Sở diệt nước Tức, chiếm đoạt Tức phu nhân. Nàng phải lấy vua nước Sở, sinh được hai con, nhưng suốt đời không nói một lời nào với vua.

Dịch Thơ
Tức phu nhân

Dẫu ngày nay sủng ái
Ơn xưa há dễ quên
Ngắm hoa đôi mắt lệ
Vua nài vẫn lặng yên.

Thù Tri phiến

Kết thực hồng thả lục
Phục như hoa tái khai
Sơn trung thảng lưu khách
Trí thử Phù Dung bôi

Dịch Thơ
Bờ Thù Tri

Kết quả đỏ rồi xanh
Như hoa nở thêm chung
Trong núi như lưu khách
Bầy sẵn chén Phù Dung

Vũ Thế Ngọc


Vơng Xuyên nhàn cư

Nhất tòng qui Bạch Xã
Bất phục đáo Thanh Môn
Thời ỷ thiềm tiền thụ
Viễn khan nguyên thượng thôn
Thanh cô lâm thủy ánh
Bạch điểu hướng sơn phiên
Tịch mịch Ư Lăng tử
Kết cao phương quán viên.

Dịch Thơ
Nhàn cư ở Vơng Xuyên

Một theo về Bạch Xã (1)
Không trở lại Thanh Môn (2)
Khi tựa cây bên cửa
Thoáng trên đồng bóng thôn
Cỏ xanh soi ánh nước
Chim trắng bay về non
Tịch mịch Ư Lăng chốn
Quay gầu nước tưới vườn

Đông A

(1) Bạch Xã : nơi ở của Vương Duy ở Vơng Xuyên, đặt theo tên Bạch Liên xã do Tuệ Viễn pháp sư đời Tấn lập .

(2) Thanh Môn : tên cửa phía đông thành Trường An
L
Văn Mai quán

Văn mai tài vi lương
Hương mao kết vi vũ
Bất tri đông lý vân
Khứ tác nhân gian vũ

Dịch Thơ
Quán Văn Mai

Mai đào chặt làm xà
Cỏ thơm bện là mái
Nào biết mây từ đó
Đi làm mưa thế nhân

Vũ Thế Ngọc

Xuân dạ Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền

Dạ tĩnh quần động tức
Thời văn cách lâm khuyển
Tức ức sơn trung thời
Nhân gia giản tây viễn
Tiện quân minh phát khứ
Thái quyết khinh hiên miện

Dịch Thơ:

Đêm xuân tại Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ về Lam Điền

Đêm yên muôn vật nghỉ ngơi
Giật mình chó sủa rừng ngoài xa xôi
Nhớ ra đang ở núi đồi
Nhà ai xa thẳm bên đồi phía Tây
Tiễn anh mai sớm chia tay
Về vườn quan chức từ nay coi thường

Vũ Thế Ngoc
---------------
Câu cuối trong nguyên bản: "hái rau quyết" chỉ sự về vườn; "coi thường mũ áo" chỉ sự từ quan.
 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.