Biên khảo
Luật Thơ Hài Cú của Nhật và ngũ ngôn tứ tuyệt VN (Thuần Ngọc)
Webmaster * đăng lúc 04:47:35 PM, Jul 01, 2008 * Số lần xem: 3537
Bài cú của Nhật Bản và ngũ ngôn yết hậu của Việt Nam
Vietsciences- Thuần Ngọc 24/01/2006
Bài cú, âm theo tiếng Hán Việt [1] cách viết “Haiku” 俳句theo lối chữ Kanji 漢字, (Kanji = Hán Tự - chữ Hán, chữ Nhật Bản, gốc chữ Nho), là một thể thơ rất thịnh hành của Nhật Bản. Một bài thơ theo thể thơ bài cú có ba giòng, giòng đầu và giòng cuối mỗi giòng có năm âm, ôm lấy giòng giữa có bảy âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm. Tiếng Nhật Bản đa âm, nên mỗi giòng có thể có một, hai, ba chữ hay nhiều hơn. Bài cú có biến thể là 5-7-6 hay 5-8-5, lên 18 âm trọn bài.
Theo K. Yasuda (2002), thường thường người đọc một bài thơ bài cú sẽ nhận biết được vì sao tác giả dừng lại để viết bài thơ này. Qua ba câu ngắn gọn của bài thơ , người đọc cũng xác định được không gian, nơi chốn tác giả dừng lại và thời gian trong năm cùng trong ngày, lúc tác giả dừng lại. Một bài thơ bài cú gói ghém đầy đủ trong 17 âm, lý do, không gian và thời gian nảy sinh bài thơ. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm (tuy có khi du di ít hoặc nhiều âm hơn), thơ bài cú thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc. lúc.
Ðọc thơ bài cú, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được. Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả 17 âm, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Phần lớn thơ bài cú của các thi sĩ Nhật Bản nói về bốn mùa xuân, hạ, thu, và đông tuy không nêu ra hẳn tên mùa trong năm. Họ thường dùng những chữ liên quan đến mùa xuân, như “tan tuyết,” lúc “hoa mận nở, hoa đào nở,” hoặc đến lúc “ngỗng trời quay về.” Về mùa thu, họ hay tả “đêm thanh, trời vằng vặc đầy sao,” lúc “bóng nai thoáng qua rừng,” hay là “chuồn chuồn bay chập chờn,” khi người ta “gặt lúa.” Mùa hè có “muỗi,” có tiếng “ve ra rả,” hoặc tiếng “quạt,” hay tiếng “suối róc rách.” Mùa đông không tránh được cảnh “tuyết rơi” trong hay ven “rừng thông,” “gấu,” hay là tiếng củi hoặc than nổ tí tách trong “lò sưởi.” Dường như các tác giả bài cú người Nhật không bao giờ nói đến lũ lụt, động đất, bệnh tật ... những cái không tốt của thiên nhiên.
Vào đầu thế kỷ thứ 12, ở Nhật bản chỉ có thể thơ waka 和歌 [Hòa Ca, có lẽ dịch là bài ca Nhật, hoặc thơ ca Nhật Bản - chữ Hòa có nghĩa là nước Nhật (tên dùng cũ, hiện nay vẫn dùng như trong ví dụ Wafu ryori 和風料理 = Hòa Phong Liệu lý = món ăn (kiểu) Nhật], bài ca bằng thơ (hay ca thi). Mỗi bài thơ gồm hai đoạn, đoạn đầu có ba giòng năm, bảy, và năm (5-7-5) âm, đoạn sau gồm hai giòng, mỗi giòng bảy (7-7) âm để nối vào đoạn trước. Trong những buổi triều hội dưới trướng một sứ quân, một người (thường là quý tộc, quan lại hay võ sĩ cao cấp) sẽ đặt đoạn đầu (5-7-5) âm, đọc lên và một người khác, hoặc được chỉ định, hoặc tự nguyện, đặt và đọc hai giòng đoạn sau (7-7) để nối với đoạn trước làm thành một bài ca thi. Thi hứng được khơi như thế, có người sẽ đặt tiếp một đoạn đầu, nối vào bài trước và một người sẽ làm đoạn sau để tiếp cho trọn bài ca thi mới. (Hakutani & Tener, 1998)
Vào năm 1235 công nguyên, Fujiwara no Sadaiye đã chép một bài trường thiên ca thi tựa là Hyakunin Isshu (Một trăm bài thơ của một trăm tác giả) trong đó có rất nhiều đoạn đầu gồm 5-7-5 âm (Hakutani & Tener, 1998) Sau bài trường thiên ca thi này, thể thơ renga gồm cách nối các đọan thơ 5-7-5 âm với các đoạn thơ nối 7-7 âm trở nên rất thịnh hành. Tập thơ Chikuba Kyojin Shu (Tập thơ của những người điên ở Chikuba) chép gần 200 đoạn thơ nối vào các đoạn thơ đầu của một thi sĩ khác. Trong tập có chép khoảng 20 đoạn đầu mang tên là hokku (thơ mở đầu) và do những thi sĩ đã nổi tiếng xướng ra, nhưng ý thơ ngã về sự đùa chơi, vui cười. (Hakutani & Tener, 1998)
Ðến thập niên 1680, Matsuo Bashô (Matsuo Baseo 松尾芭蕉) viết bài thơ Con ếch theo lối haikai một thể thơ mới (theo thời điểm bấy giờ) mở đường cho thể thơ bài cú. Các bài Haikai của Bashô ngắn, gọn, rất súc tích từ chữ đến ý, cho thấy cái nhìn và thi tứ của nhà thơ. Những người ngưỡng mộ ông tập làm lối thơ này, và thể haikai trở nên nghiêm trang, chín chắn hơn để trở dần thành thể bài cú, nói lên cái quan niệm và ghi lại sự rung động của nhà thơ.
Sau đây là vài thí dụ về bài cú ghi theo chữ rômaji (âm tiếng Nhật ghi theo mẫu tự La tinh). Bashô là người mở đầu cách viết thơ bài cú, và sau đó, Buson, Issa, và Shiki là những các thi sĩ Nhật bản nổi tiếng về thể thơ này. Chúng tôi cũng ghi lại một bài của nữ thi sĩ Kaga no Chiyo, đồng thời với Buson. Phần tiếng Việt do Thuần Ngọc dịch, bản dịch tất nhiên không gồm 17 âm như nguyên tác. Ðôi khi vì muốn dịch theo ý, nên thứ tự giòng trong bài thơ dịch không đúng theo thứ tự của nguyên tác.
Matsuo Bashô (1644-1694) - Tác giả 松尾芭蕉 (Matsuo Baseo)
Mono ieba
Kuchibiru samushi
Aki no kaze
物言えば
くちびる寒し
秋の風
Mở miệng ra, tôi nói,
Ðôi môi tôi lạnh giá
gió mùa thu.
Furu ike ya
Kawazu tobikomu
Mizu no oto
古池や
蛙飛び込む
水の音
Cái ao xưa
Một chú ếch nhảy tòm xuống
Chủm !
Kare eda ni
Karasu no tomari keri
Aki no kure
枯れ枝に
枯らすのとまりけり
秋の暮れ
Cành trơ trọi
Quạ đậu lại
Thu âm u.
Kaga no Chiyo (1703 - 1775) - Nữ thi sĩ 千代 女 (Chiyo Jyo) = Thiên-Đại Nữ
Asagao ni
Tsurube torarete
Morai mizu
朝 顔 に
釣 瓶とられて
もらひ水
Cánh hoa khiên ngưu nở
Nghiễm nhiên chiếm trọn chiếc gàu giếng
Tôi phải xin nhờ nước
Taniguchi (Yosano) Buson (1715-1783) - Họa sĩ 与謝蕪村 (Yosa Buson)
Oikaze ni
Susuki karitoru
Okina kana
追風に
薄刈り取る
翁かな
Một ông lão cắm cúi
Cắt cỏ trên cánh đồng
Gió thổi đằng sau lưng
Kobayashi Issa (1763-1827) - Tăng lữ 小林 一茶
Katasumuri
Sorosoro nobore
Fuji no yama
かたつむり
そろそろ昇れ
富士の 山
Này này cô ốc sên
chậm rãi, khoan thai mà bò lên
Ðỉnh núi Phú sĩ sơn.
Masaoka Shiki (1867-1902) - Canh tân bài cú 正岡 子規
Iriguchi ni
Mugi hosu ie ya
Furu-sudare
入り口に
むぎほすいえや
降るすだれ
Họ đang phơi bo bo
Phía trưóc cửa nhà kho
Mành tre cũ đong đưa.
Trong văn chương Việt Nam thời trước, chúng tôi không thấy có lối thơ bài cú, nhưng thấy có lối ngũ ngôn tứ tuyệt, thể yết hậu. Vì tiếng Việt hiểu theo cách bình thường là đơn âm nên thơ ngũ ngôn như lối này có 16 chữ, hay 16 âm, ngắn hơn bài cú một âm. Có lẽ người đã làm nhiều bài thơ ngủ ngôn yết hậu là Chiêu Lỳ, Phạm Thái . Nhưng trong thơ của Phạm Thái, câu thứ ba thường có sáu chữ, nên trọn bài thơ có 17 chữ hay 17 âm. Xét về số âm trong bài, loại thơ này cũng giống như bài cú. Ngoài Phạm Thái còn có Nguyễn Công Trứ cũng sính làm loại thơ tứ tuyệt yết hậu. Nhưng chúng tôi chỉ được đọc các bài thơ thất ngôn (bảy chữ) chứ chưa được biết Nguyễn Công Trứ có bài thơ nào thuộc loại ngũ ngôn tứ tuyệt yết hậu. Ba thí dụ sau là thơ của Phạm Thái (Trần Trọng Kim, 1946, trang 146)..
Lươn [2]
Cứ nghĩ rằng mình ngắn
Ai ngờ cũng dài đườn
Thế mà còn chê trạch
Lươn
Người hay đánh bạc
Ác lặn xăm xăm tới ,
Gà kêu lẻn lẻn về .
Quan ngắn hết, quan dài hết
Ghê
Người say rượu
Một năm mười hai tháng
Một tháng ba mươi ngày
Hũ lớn cạn, hũ bé cạn
Hay !
Gần đây hơn, khi có nhiều bài thơ bài cú được chuyển dịch sang Việt ngữ, người Việt có dịp làm quen với văn thơ Nhật bản, và chắc cũng do ảnh hưởng của Thiền nhờ các nhà sư Việt Nam du học ở Nhật bản truyền đạt lại, chúng tôi thấy xuất hiện một số thơ có dạng như bài cú viết bằng tiếng Việt. Trong tập Cảo thơm, Hồ Trường An ghi lại một số bài thơ của Trương Anh Thụy.
Ðông
Nắng ươm cành tuyết đậu
đóa mai vàng bên giậu
tưởng xuân
Yên
Sau trận đại cuồng phong
con diều nằm trên cỏ
đói gió
Tỵ nạn
Nối đuôi nhau kiến cỏ
Ði tìm nơi lặng gió
Trăm con
Và một bài ngũ ngôn yết hậu
Lặng
Trên bãi sông triều vắng
đàn vịt đứng dăm con
lắng tai nghe chiều đổ
Boong
Các bài thơ trên rất gần với cái nhìn và cảm xúc của thể thơ bài cú.
Bài cú không những được ưa chuộng ở Nhật bản [3], mà hầu như khắp nơi trên thế giới đều có người làm thơ bài cú. Ở Âu châu cũng như ở Bắc Mỹ có rất nhiều Hội bài cú, hội viên đủ mọi thành phần và lứa tuổi. Ở Vancouver (Canada), ở Nantes (Pháp), và nhiều thành phố khác, đã có các trường dạy học sinh ngay từ các lớp tiểu học làm thơ bài cú [4].. Thành ra cũng nên giới thiệu với thế giới thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt yết hậu của Việt Nam, một thể thơ không kém phần đặc sắc và súc tích như bài cú.
Ghi chú:
[1] Theo Nguyễn văn Minh Châu (điện thư 16/8/2004) phải đọc là “Bài cú” theo âm Hán Việt.
[2] Dương Quảng Hàm có chép bài này trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, nhưng để tác giả là Vô Danh. (trang 134).
[3] Như trường hợp bà Hisajo Sugita (1890 ~ 1946) 杉田久女. Năm 1931, bà dự cuộc thi bài cú do Nhật báo Osaka-Mainichi Daily News tổ chức. Bài thơ sau đây của bà đoạt giải nhất về thơ bài cú tả cảnh sơn thủy trong số hơn 100 000 người dự thi Trong lúc vừa mới xong cơn khủng hoảng kinh tế thế giới và khi chưa có Internet, số lượng người dự thi đã cho thấy mức độ hâm mộ thơ bài cú.
kodama ****e
yama-hototogisu
hoshii mama
谺して
山ほととぎす
ほしいまま
trùng trùng dội quanh đèo
tiếng cúc cu chim cu núi kêu
lập đi lập lại hoài
[4] http://k12.albemarle.org/MurrayElem/Projects/langarts/haiku/japanintro.html
Do cô giáo lớp Ba Michelle Nettesheim, trường tiểu học Murray lập ra cho học trò tìm hiểu thêm về Nhật Bản trong niên học 1995-1996.
Tài liệu tham khảo
Dương Quảng Hàm. 1979. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Westminster, CA: Sống Mới.
Hakutani, Yoshinobu & Robert L. Tener. 1998. "Afterword" trong Wright, Richard . 1998. Haiku. This Other World. New York: Arcade Publishing.
Hồ Trường An. 1998. Cảo thơm Falls Church, VA: Minh Văn Corporation
Trần Trọng Kim. 1946. Việt Thi. Los Alamitos CA: Xuân Thu in lại, không đề năm.
Yasuda, Kenneth. 2002. The Japanese Haiku. Boston: Tuttle Publishing.
Tài liệu đọc, xem thêm:
Ueda, Makoto. 2003. Far Beyond the Field: Haiku by Japanese Women. Washington DC: Columbia University Press. - [Ghi thơ bài cú của các nữ thi sĩ Nhật.]
Và các trang, khu Web:
1. CHILDREN'S HAIKU GARDEN (Vườn bài cú của trẻ em). [Bài cú do trẻ Nhật Bản, Hoa kỳ và nhiều quốc gia khác viết.]
http://www.tecnet.or.jp/~haiku/
2. Khu Web ghi các bài thơ bài cú do trẻ em ở Nhật bản, Hoa kỳ, và nhiều quốc gia khác viết ra. Có nhận thơ bài cú và tranh ảnh do trẻ em viết hay vẽ.
http://homepage2.nifty.com/haiku-eg/
3. http://www.toyomasu.com/haiku/ tổng quát về bài cú. Và trong khu Web này, xem thêm http://www.toyomasu.com/haiku/haiku/#howtowritehaiku (Ðể viết một bài thơ bài cú).
4. Trang web “Lịch sử Bài cú” (Haiku no rekishi):
http://www.big.or.jp/~loupe/links/jhistory/jhisajo.shtml
Trang tiếng Nhật:
http://www.big.or.jp/~loupe/links/jhistory/jhisinx.shtml
Trang tiếng Anh:
http://www.big.or.jp/~loupe/links/enginx.shtml
5. Một khu haiku mới do Alexander Lawrence và đồng bạn lập ra. Có nhận thơ bài cú do các thi sĩ mới gởi đến. Cho nhiều liên kết (links) có chọn lọc và xấp loại.
http://www.haiku.com/
6. "200 Best Haiku of Japanese Literature." Ghi lại hai trăm bài thơ bài cú đã dịch ra Anh ngữ.
http://www.geocities.com/Tokyo/Island/5022/
7. Trang nhà của Hiệp hội bài cú Hoa kỳ (The Haiku Society of America). Hội thành lập từ năm 1968 nhằm phỗ biến và khuyến khích thơ bài cú viết bằng tiếng Anh.
http://www.hsa-haiku.org/
8. Trang ghi lại kỹ thuật làm thơ bài cú (Haiku techniques) của nữ tác giả Jane Reichhold. http://www.ahapoetry.com/haiartjr.htm
Phụ lục: Lược sử bốn nhà thơ bài cú danh tiếng
Bashô Matsuo. (1644-1694).
Bashô (cây chuối) là tên hiệu tác giả tự đặt vào khoảng năm 1681 khi ông dọn vào ở trong một cái chòi có một cây chuối mọc bên cạnh. Hồi trẻ, ông theo chân thân phụ, làm võ sĩ cho sứ quân Todo Yoshitada (Sengin). Vì Yoshitada sính làm thơ bài cú nên Bashô cũng làm thơ, lúc đầu ký tên là Sobo. Bashô dần dần nổi tiếng, và ông đi du lịch nhiều nơi trong nước Nhật. Ông mất năm 1694, sau khi viết quyển Oku No Hosomichi. Khi ông mất, có khoảng 2000 môn sinh đang theo học lối làm thơ bài cú của ông.
Yosa Buson (1716-1784)
Taniguchi Buson (boo-sahn), sau này đổi lại là Yosa Buson, họa sĩ và nhà thơ bài cú. Người ta vẫn xếp ông ngay sau Matsuo Bashô như là những bậc thầy về thơ bài cú thời Edo, thời các sứ quân Tokugawa (1600-1868). Buson sinh ở ngoại ô thành phố Osaka, và mồ côi cha lẫn mẹ lúc ông còn rất trẻ. Năm 1737, ông lên Edo (giờ là Tokyo) để học vẻ và học làm thơ bài cú theo trường phái Bashô. Năm 1742, khi một trong những người thầy của ông qua đời, ông theo gương Bashô đi lên phía Bắc, rồi viếng các thành phố miền Tây Nhật bản. Ông trụ lại Kyoto năm 1751. Ðến 1756 ông chuyên về nghề vẽ trong suốt 9 năm. Sau đó Buson dần dần quay trở lại làm thơ bài cú. Các bài thơ của ông thường có những nét chấm phá độc đáo, như cảnh vật được nhìn qua ánh mắt họa sĩ của ông.
Issa Kobayashi (1763-1827)
Issa Kobayashi sinh tại Kashiwabara, Shinano ngày nay thuộc thành phố Shinano-machi, quận Nagano. Hồi nhỏ, ông mang tênYataro và theo trước tịch là Nobuyuki. Năm 13 tuổi, ông đi lên Edo, (Tokyo) để làm việc. Ông học cách làm thơ với Genmu cùng Chiku-a, và nhận Seibi Natsume làm thầy. Ông bắt đầu viết thơ bài cú vào năm 25 tuổi. Ông đi làm việc ở nhiều nơi như Kyoto, Osaka, Nagasaki, Matsuyama và các thành phố khác ở phía Tây Nhật bản. Ðến năm 1814, ông về lại quê nhà ở Kashiwabara và trở thành thủ lãnh trường phái thơ bài cú ở vùng Shinano. Ông mất ở quê nhà năm ông 65 tuổi. Trong thơ ông dùng các tiếng địa phương và các từ thông dụng hàng ngày. Thơ bài cú của ông phảng phất buồn vì đời sống gia đình của ông rất đau thương. Ông cưới vợ khi đã 51 tuổi, nhưng tất cả bốn người con của ông đều mất khi còn rất nhỏ.
Shiki Masaoka (1867-1902)
Shiki chết trẻ nhưng sự nghiệp văn chương của ông rất phong phú. Trong bảy năm cuối cùng của cuộc đời, ông bị bệnh phải nằm liệt giường, nhưng lúc nào ông cũng vui vẻ thảo luận về văn chương và các cải cách thơ bài cú với các môn đệ của ông. Trước nhà ông có giàn bầu nậm và người ta thường luộc nước bầu cho ông uống để tiêu đàm. Ông vẫn mong thân phận đau yếu của mình được như giàn bầu: xanh tốt, đơm hoa, kết trái, mà không phải đau khổ. Ông đã hoàn thành ba công trình quan trọng về văn chương hiện đại: cải cách thơ bài cú, cải cách thơ Tanka, và khuyến khích việc dùng văn xuôi để phác họa các cảnh thật của đời sống. Ông đã giúp phổ biến thơ bài cú qua tác phẫm của ông, bàn về lý thuyết làm thơ bài cú 'Haiku Taiyo' (Căn bản về thơ bài cú).
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.net Thuần Ngọc
(in reply to tamlang)
Post #: 11
RE: Software gõ chữ Việt & Luật thơ tham khảo - 12/13/2007 10:39:45 AM
metamorph
Starting Member
Posts: 951
Joined: 5/1/2007
Status: offline Thơ Haiku
Haiku là một thể thơ của Nhật, được truyền sang Trung Hoa rồi vào Vietnam. Hiện nay thể thơ này cũng đã du truyền sang các nước Tây Phương như Mỹ Pháp.
Hàng năm có những cuộc thi Haiku ở Nhật, số bài tham dự đến cả mấy chục ngàn, có khi cả trăm ngàn bàị
Về hình thức thì Haiku gồm 3 câu và 17 âm, không phải 17 chữ, chia làm 5,7,5.
Tiếng Nhật và hầu hết ngôn ngữ gốc latin-roman của TâY Phương đa âm nên nhiều khi 1 câu chĩ có 1 chữ hay haị Thí dụ như "Sayonara" tính là 4 âm, "unforgettable" đã là 1 câu rồị
Riêng tiếng đơn âm như Hán, Việt hay Triều Tiên thì có thể dùng 17 chữ trong 3 câu, vì vậy diễn dạt được nhiều hơn. Nhưng tinh túy của Haiku không phải là để nói nhiều, mà để diễn dạt một thoáng suy tư, một khung cảnh cô đọng, một chút thiền.
Haiku không phải là một phim bộ dài dòng mà là một tấm ảnh chụp lấy một khoảng khắc, một trừu tượng, một tư duy, nên nhiều khi vài chữ cũng đủ. Cái hay và khó hay của Haiku là ở chỗ đó. Đọc một bài thơ Haiku hay như nghe một tiếng khánh cô đọng thật ngắn gọn nhưng ngân nga, để lại ấn tượng lâu trong tâm hồn ngườị
Haiku không có luật về âm điệu và vần. Kết hợp vào thơ Vietnam ta có thể cho câu cuối vần với 1 trong hai câu trên, nhưng không bắt buộc.
Về nội dung, Haiku chính tông đòi hỏi trong bài phải nói về một trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Không có nghĩ là phải nêu tên một mùa ra mà dùng biểu tượng cũng được, như tuyết, hoa đào, nắng ấm v.v.
Dù vậy quy luật này cũng không cần theo vì gò bó vào một khía cạnh quá. Trong văn học sử Nhật có thiền sư Basho là người để lại nhiều bài Haiku bát ngát hương Thiền.
Những bài thơ hài cú tiêu biểu.
1.
Con hạc hồng kiêu sa
Trầm mình trong dòng suối nước nóng
Chỉ còn lại bộ da
The proud flamingo
Dived into the hot stream
Nothing left but skin
2.
Người chiết tự trong đêm
Chữ bình tâm loay hoay xếp mãi
Quên ngày mới vừa lên
Anagram at night
Could not arrange "peace of mind"
Missed the dawn's light.
3.
Ngư ông không dụng mồi
Con Koi bạc chưa hề sứt mép
Chiều nay về cơm chay
Fisher without bait
The silver Koís lips unhurt
Vege dish tonight.
4.
Xếp chân mong thiền tọa
Ruồi đậu bàn tay, vỗ bàn tay
Tâm tịnh mất khi nàỵ
5.
Khua nước xóa tan hình
Dễ hơn đập tấm gương soi mặt
Mình chẳng tự mê mình.
6.
Che mặt trời năm ngón
Có hai cũng giống có một tay
Chẳng thấy đến lông mày
7.
Cò trắng đứng một chân
Đại thử thử đại, đại thử dại
Túi trước bụng trống không.
8.
Người Trang Tử vỗ bồn
Ta từ nhỏ một đời nghi hoặc
Cogito, ergo ?
9.
Giá áo và túi phân
Vùng kinh điển đốt hoài chẳng hết
Về đi, tập đánh vần!
10.
Nước chảy đá cũng mòn
Ta góc cạnh từ khi nhập thế
Nay thành viên sỏi tròn
11.
Mổ cho sạch túi phân
Mà không sạch tâm hồn nhiễm độc
Khâu lại để làm chi ?
12.
Nhắm mắt và mở mắt
Nội tâm, ngoại giới tiếp liền nhau
Nơi nào ít khổ đau
13.
Tiền thân dù bồ tát
Hậu vận trăm năm vẫn mịt mùng
Bây giờ là túi cơm.
14.
Mùa thu cành thay lá
Con rắn già biết cách lột da
Trịnh Công Sơn chết sớm
15.
Lữ khách đứng trên cầu
Nhìn nước lũ cuốn đi ảo vọng
Hỏi sao bóng không trôi
16.
Tay khoanh vòng Thái Cực
Chút nhân duyên để lọt ra ngoài
Tình ơi là tình ơi
17.
Hạt sương trên cánh hồng
Cành Bonsai nghiêng về phía nắng
Giọt nến đọng đêm qua
18.
Bôn ba tìm cõi Phật
Giữa đường vứt bộ lòng tên cướp
Chết thành con bìm bịp
19.
Tượng gỗ chùa Tây Phương
Niềm khắc khoải hằn lên nét mặt
Niết Bàn là thế ư ?
20.
Người lên núi định thiền
Nghe gọi tên vẫn còn quay lại
Khi nào mới vô danh ?
21.
Khoanh hai tay bái Sư
Phật đứng tránh sang không nhận lễ
Hai tay bái hư không
22.
Quay nhanh vòng Bát Quái
Muốn hoà tan Lưỡng Nghi thành Thái Cực
Cửa nào là cửa Khôn ?
23.
Đến cổng chùa nghe đạo
Sư trụ trì bế môn tiễn khách
Phật cả cười Phật thăng
24.
Đi cùng Sư bái Phật
Cửa đóng, Phật từ tâm nhắn nhủ:
"Kiếp sau đến một mình!"
25.
Buổi sáng nhìn sang cạnh
Cám ơn đời vì vẫn có em
Mùi cà phê thơm ngát
26.
Cứ mỗi độ vào thu
Lại cùng Thanh Tịnh đi đến trường
Và ngâm Lưu Trọng Lư
27.
Cư sĩ hỏi Thiền sư
Khi nào là giác, khi nào ngộ
Thiền sư nhổ nước bọt
28.
Cư sĩ hỏi bóng mình
Khi nào là giác, khi nào ngộ
Bóng lập lòe lặng thinh
29.
Một đời nguời tự hỏi
Khi nào là giác ngộ, khi nào ?
Cư sĩ, Cư sĩ ơi!
30.
Khuấy nước trong cho đục
Khi nào không soi thấy bóng mình
Là khi hết nắng trời
31.
Chờ nước đục thành trong
Để nhận định ra chân bản ngã
Chờ bao giờ mới xong ?
32.
Người da trắng, vàng, đen
Năm ngón tay, ngón dài ngón ngắn
Tro bụi chỉ một màu
33.
Vẽ tranh không nhúng mực
Hoàng hạc bay ngang trời lặng gió
Hoàng hạc bay, mây trôi
34.
Cứ muốn tả rừng thu
Lại thấy con nai vàng ngơ ngác
Đành thua Lưu Trọng Lư
35.
Bên ngoài tuyết bay bay
Tình nồng ấm dù trời giá lạnh
Nên tuyết tan trong tay
36.
Tình thôi hết ân cần
Gặp lại người ánh nhìn xa lạ
Ta về thành phế nhân
37.
Đôi hài cỏ Basho
Ngàn năm dấu vết chẳng phai mờ
Tạc vào thiền, vào thơ
39.
Tiếng dương cầm lạc điệu
Ngươì đánh và người nghe câm điếc
Không cần kẻ thứ ba
39.
Biết cố công mài sắt
Có ngày cũng thành được cây kim
Nhưng nếu mua, nhanh hơn !
40.
Tiếng mưa đều trên mái
Tiếng xịch tắc xe mì bán dạo
Tiếng kinh cầu trong đêm
41.
Hổ ba chân trên núi
Cất tiếng gầm tiếc thuở dọc ngang
Tiếng thở dài vọng lại
42.
Gió thì thào lau sậy
Người tìm đạo trầm ngâm bất quyết
Quay gót hay qua sông ?
43.
Quay đầu lại là bờ
Mây ngừng trôi mây tan thành nước
Qua sông cũng đến bờ
44.
Mấy hôm không còn gạo
Chai thuốc ngủ trên bàn mở nắp
Mắt người buồn như kinh
45.
Một ngày làm hai ca
Như cây nến đốt cả hai đầu
Giọt nến chảy thành dòng
46.
Con muỗi bay vu vơ
Samurai chém hai nhát kiếm
Con muỗi vẫn thờ ơ
47.
Suốt đời trong thung lũng
Sao biết được phía bên kia đồi
Có những điều mới lạ
48.
Bão đại dương chuyển sóng
Bão sa mạc mịt mùng dậy cát
Bão lòng chuyển hồn tôi
49.
Diều ngạo nghễ tung trời
Chiếc sáo làm sai không ra tiếng
Người thả diều cắt dây
50.
Bình rượu đổ chan hòa
Người co quắp như bào thai, run, lạnh
Tiếng sói rú từ xa
51.
Người nay đã ngút ngàn
Lúc chia tay đem theo tất cả
Tiếng chuông rền ta mang
52.
Mùa Xuân chừng đến muộn
Cỏ cây chờ, người cũng chờ trông
Hạt lúa sắp ra mầm
53.
Tay không hề ném đá
Sóng đồng tâm tỏa nhẹ trong hồn
Mặt hồ tựa tấm gương
54.
Nhắm mắt chói hào quang
Bịt tai vẫn nghe ngàn tiếng động
Lấy gì để tịnh tâm
55.
Người lộng ngữ vọng danh
Hay lộng ngữ vì mộng không thành?
Một đời cứ quẩn quanh!
56.
Em học sinh yêu nước
Bụng căng khẩu hiệu đói sắn khoai
Qua đường cán bộ nhổ
57.
Trong tâm thiền an lạc
Một cánh hoa rơi xuống mặt hồ
Cũng ngân ngàn tiếng nhạc
______________________
Mời các bạn làm thử vài câu.
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.