Mar 28, 2024

Biên khảo

Quách Tấn và Thơ Mới
Quách-Giao * đăng lúc 08:05:03 AM, Sep 18, 2010 * Số lần xem: 1944
Hình ảnh
Quách Giao & huệthu (Nhatrang 2007)
#1


Thời tiền chiến (1930-1945) phong trào thơ mới đã nổi lên một cách rầm rộ. Thơ cũ vẫn có mặt trên thi đàn song có phần kém thế.

Quan niệm về thơ cũ lúc bấy giờ là thơcũ thiên về lý trí. Một số nhà thơ cũ nặng tình đất nước đã dùng văn chương vào việc tuyên truyền đạo đức, giáo dục quần chúng yêu thương nòi giống. Một số dùng thơ để gởi gắm tâm sự, bày tỏ nổi lòng với thời cuộc. Số trước tích cực, số sau tiêu cực. Thơ bên kia thì giọng chát, thơ bên này thì giọng sầu. Các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh thúc Kháng là đại diện cho lớp thi nhân ái quốc có thơ đăng trên các báo Tiếng Dân, Tràng An v.v..

Các nhà thơ như Đông Hồ, Tương Phố thì sướt mướt với Giọt Lệ Thu, Linh Phượng. Ngoài ra còn rất nhiều thơ phú xướng họa cùng nhau bằng những vần thơ Đường luật bằng những tiểu xảo học được của cổ nhân trong vấn đề thù tạc.

Trước tình trạng bế tắc của tình hình chính trị trong thời gian ấy, tâm hồn của những người đọc thơ cần đến một bầu trời khoáng đạt của lòng con người trong khi bên trời Âu đã rộng mở một không khí văn học tục gọi là Lãng Mạn. Tầng lớp thanh niên và người thức thời đã nhận thức được luồng gió mới này nên thơ mới đã bắt đầu lộ diện. Năm 1932 bài thơ Tình già của cụ Phan Khôi đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn với những bài diễn đàn đả phá thơ cũ coi thơ cũ vì bị câu thúc bởi niêm luật nên mất chơn chất và ông đã đề ra một lối thơ “ đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần không theo niêm luật gì hết và ông tạm mệnh danh là thơ Mới.

Một số đông thanh niên bỗng thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo dấu diếm của mình đã được một bậc đàn anh trong văn giới cổ xúy. Những bài thơ mới có tên như Trên Đường Đời Đời, Vắng Khách Thơ của hai nhà thơ Lưu Trọng Lư, Thanh Tâm đặc sắc hơn cả. Báo chí lại rầm rộ đăng thơ mới và tờ báo Phong Hóa bắt đầu từ năm 1932 không đăng thơ cũ lẫn thơ mới tuy lại có bài công kích thơ cũ. Đến năm 1933 tờ Phong Hóa luôn luôn đăng thơ mới của các nhà thơ Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Huy Thông, Lưu trọng Lư v...v…

Tháng 7 năm 1933 người đàn bà đầu tiên lên diễn đàn hội Khuyến học ở Sài Gòn hết sức tán dương thơ mới. Đó là nữ sĩ Nguyễn thị Kiêm. Những thi sĩ có tài lần lượt xuất hiện như Thế Lữ, Lưu trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn nhược Pháp, Thái Can v…v... Và thơ cũ đã phản ứng như thế nào ? Liên tiếp từ năm 1933 đến 1941 các ông Tân Việt (bỉnh bút báo Công Luận) nhà thơ Tản Đà, Nguyễn văn Hạnh, Tường Vân, Phi Vân, Thái Phỉ và Huỳnh thúc Kháng lên diễn đàn chỉ trích và mạt sát thơ mới… Cuộc tranh luận kéo dài trên 10 năm.
Trong giòng thi ca thời ấy đã có nhiều thi sĩ ban đầu đều là nhà thơ cũ và trước phong trào thơ mới dâng cao đã rời quê hương cũ của mình đi về phương trời thơ mới. Như thi sĩ Hàn Mặc Tử là một. Từ năm 1930 với biệt hiệu là Minh Duệ Thi, Lệ Thanh, Phong Trần, thi nhân đã được nổi danh với các bài thơ Đường như Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái ở Chùa đã từng được cụ Phan Bội Châu ngợi khen trên báo. Hàn Mặc Tử bước vào làng thơ cũ năm 1930 và đến năm 1936 lại nổi danh trong địa hạt thơ mới với tập thơ Gái Quê.

Nhà thơ thứ hai đã bỏ cũ theo mới là nhà thơ Bích Khê. Bích Khê đã nổi danh trong làng thơ cũ từ thủa thiếu thời trên báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn. Đến năm 1937, khi làm quen với Hàn Mặc Tử nhà thơ mới chuyển hướng theo giòng thơ mới. Năm 1939 tập thơ Tinh Huyết ra đời được Hàn Mặc Tử viết tựa. Cả hai nhà thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê đều là bạn thân với thi sĩ Quách Tấn. Cả ba đều nổi danh trong lãnh vực thơ Đường, Nhưng có hai đã ra đi và chỉ còn lại một mình nhà thơ Quách Tấn ...

Sự thân tình trong bè bạn, trong văn học đã làm cho chúng ta có một vài thắc mắc là họ có chịu ảnh hưởng với nhau trong văn thơ hay không ? Giữa Hàn Mặc Tử và Bích Khê chúng ta đã thấy rõ. Còn Quách Tấn thì như thế nào?
Quách Tấn có chịu ảnh hưởng về thơ mới như các bạn thân của mình không? Lẽ tất nhiên là có.

Trước tiên là với Hàn Mặc Tử :

Hàn Mặc Tử và Quách Tấn quen nhau từ năm 1931 và gặp nhau tại Đa Lạt năm 1933. Trong dịp gặp nhau này Quách Tấn đã ghi vào hồi ký Bóng Ngày Qua :

«Tối đến tôi đưa Tử đi dạo. Dạo cảnh Đa Lạt lúc ban đêm cũng là một kỳ thú. Những con đường quanh co, khi lên cao, khi xuống thấp, nhiều khi đường chồng lên nhau. Lắm nơi đứng xa mà trông thấy như những cuộn vải đen giăng lơ lửng trên đọt cây. Đèn điện lẫn lộn cùng sao, trên cao có, dưới thấp có, chỗ thì chói lọi giữa không, chỗ thì khép nép trong cành lá. Mùi nhựa thông ban đêm bay ngát cả không khí. Thỉnh thoảng mùi hoa Mimôsa, mùi hoa Violét trộn lẫn vào tạo thành một hương vị đặc biệt, hít vào thấy nhẹ cả toàn thân.

Tử nắm tay tôi đi từng bước một, không nói không rằng.

Đến bờ hồ nhìn xuống mặt nước, chúng tôi mới nhớ là đêm trăng! Mặt hồ lóng lánh. Và vầng trăng dưới nước trông sáng gấp mấy lần vầng trăng ở trên mây. Tử nói :
- Cứ xem bóng trăng cũng biết hồ Đa Lạt trong đến ngần nào.

Tôi tiếp :
- Theo tôi chỉ có nước hồ Đa Lạt và nước sông Hương mới đáng gọi là nước. Nước ở các sông các hồ, dù trong đến đâu, dù sâu đến đâu, sắc xanh cũng có phần lợt lạt. Duy chỉ có nước hồ Đa Lạt và nước sông Hương là đượm đà màu nước biển. Ai đã từng nhìn đôi mắt của người đẹp Ấn Độ- đôi mắt xanh như ngọc và xa thăm thẳm như vòm trời ngày thu- thì mới tin lời nói của tôi không huyển hoặc. Và muốn thấy rõ cái đẹp của nước hồ Đa Lạt thì phải đến ngắm lúc ban trưa khi tạnh trời.

Tử trầm ngâm hồi lâu rồi nói :

- Không có cảnh thì khó có thơ, mà đứng trước cảnh đẹp quá, thơ nghĩ cũng không ra được.

- Theo tôi không phải cảnh quá đẹp mà thơ không dám ra. Đó là vì đứng trước cảnh đẹp cũng như đứng trước tình đẹp, người thơ mắc lo tận hưởng cái đẹp của tình của cảnh, tâm trí đâu mà nghĩ đến thơ. Hơn nữa người thơ chỉ làm thơ trong khi thiếu thốn. Mà tình kia cảnh kia đã quá đủ cho tâm hồn ôm ấp, thì người thơ còn thiếu thốn gì nữa mà làm thơ ?

Tử vổ tay tán thưởng.

Chúng tôi đang nói chuyện thì dường như có một luồng sáng từ trong hồ bay ra và thoáng nhẹ ở trước mắt. Chúng tôi chú mục: một đám sương lớn bằng một chiếc chiếu chõng, nổi lền bềnh trên mặt hồ. Sương mỗi lúc một vươn cao và lan rộng, phản chiếu ánh trăng sáng rực cả bốn bên. Trong phút chốc, mặt hồ bị khuất hẳn và trước mặt chúng tôi, nổi lên một ngọn “núi bông gòn” trắng phau và sáng ánh. Rồi một ngọn gió thổi nhẹ, sương ùn ùn tỏa ra khắp nơi…cuốn cả trời đất muôn vật. Chúng tôi không còn thấy gì, ngoài ánh sáng. Đến nổi chúng tôi đứng sát bên nhau mà chúng tôi cũng không thấy rõ được nhau.

Chúng tôi có cảm giác trời đất đã tan thành thủy tinh và chúng tôi đang đứng giữa hư vô…Sương bay thắm má và một luồng hơi ấm tỏa khắp châu thân, gây một cảm khoái dìu dịu. Tôi nói khẽ cùng Tử :

- Mình đương chìm vào mộng hay mộng đang lắng vào mình?

- Hư thực phân biệt làm sao được ! Nhưng chớ nói nhiều.. Hãy lắng nghe…Dường như có tiếng thì thầm từ đáy hồ vọng đến. Tôi không mơ đâu nhé ! Hãy lắng nghe…

Đứng tựa lan can cầu trước dinh Quản Đạo, chúng tôi nắm chặc tay nhau.

Rồi sương tan dần dần và mặt trăng sáng trở lại. Tử nói:

- Cảnh thật huyền mơ ! Tiếng lòng lẫn cùng tiếng tạo vật! Con người hòa hẳn vào thiên nhiên!

- Trời đã khuya, nhưng còn tiếc cảnh, chúng tôi đứng tựa vào lan can cầu. Sương thấm ướt cả áo, nhưng chúng tôi không thấy lạnh. Bỗng một ngọn gió thổi, chúng tôi rùng mình ớn lạnh. Chúng tôi bèn dắt nhau đi nhanh về nhà …

Ðể kỷ niệm đêm trăng này, Hàn Mặc Tử đã sáng tác bài


ĐA LẠT TRĂNG MỜ

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thật huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu.

Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm
Hư thực làm sao phân biệt được
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm

Cả trời say nhuộm một màu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.

Và Quách Tấn cũng có bài thơ : ĐA LẠT ĐÊM TRĂNG

Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im
Thời khắc theo nhau lãi rãi chìm
Đứng tựa non cao bờ suối ngọc
Hồn say nhè nhẹ mộng êm êm

Một làn sương bạc bỗ ng từ mô
Lẻn cuốn vừng trăng cuốn mặt hồ
Cuốn cả non sao bờ suối ngọc
Người lơ lửng đứng giữa hư vô

Trời đất tan ra thành thuỷ tinh
Một bàn tay ngọc đẩm hương trinh
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình.


Đọc được bài thơcủa Quách Tấn, Hàn Mặc Tử đã viết thư khuyến khích Quách Tấn nên đi theo con đường thơ mới như hai bạn. Nhưng Quách Tấn đã khước từ.

Năm 1939 Quách Tấn gặp một bạn gái là LiênTâm và dấu không cho Hàn Mặc Tử biết. Và sau khi biết được nhà thơ họ Hàn đã gởi cho nhà thơ họ Quách một bài Đường luật :

Trường Xuyên ơi ! Trường Xuyên ơi !
Viết chẳng nên câu nói nghẹn lời
Mây nước bao la tình vắng lặng
Khói mây mờ mịt nhớ chơi vơi
Tương tư mộng thấy năm canh mộng
Luyến ái trời vương bốn phía trời
Ta nhớ ta thương mình tệ quá
Có ai khăng khít lại quên ai !

Bài thơ có hai câu khởi và hai câu kết ý rất mới cùng với cách dùng từ thoát ra ngoài khuôn khổ của một bài thơ Đường luật. Tình của tác giả ở đây đã bộc lộ “cái tôi” riêng tư mà các nhà thơ mới đương thời thường hay xữ dụng. Chính thi nhân Hàn Mặc Tử đã viết trong bài thơ nhan đề Một Nửa Trăng :

Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồI
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi

Bài thơ Đường Gởi Trường Xuyên tứ mới tình đậm đà nên đã gợi hứng cho nhà thơ Quách Tấn nhân một buổi trưa nằm mộng thấy Hàn Mặc Tử lúc ấy đang lâm trọng bệnh ở Qui Nhơn. Thấy bạn đã phục hồi sức khỏe nên vội gởi thơ mừng. Bài thơ này đã từng có nhiều nhà phê bình thơ nhầm lẫn là thơ làm sau khi Hàn Mặc Tử mất cho nên phê bình là không phải là bài thơ khóc bạn mà là một bài thơ mừng bạn. Đó là bài thơ Mộng Thấy Hàn Mặc Tử:


Ơi Lệ Thanh ! Ơi Lệ Thanh
Một giấc trưa nay lại gặp mình
Nhan sắc châu pha màu phú quí
Tài ba bút trổ nét tinh anh
Rượu tràn thu cũ say sưa chuyện
Hương tạ trời cao bát ngát tình
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.

Bài thơcũng có hai câu kết mang đầy thi vị và sắc thái của một bài thơ mới:

Tôi khóc tôi cười vang cả mộng
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành

Hai câu thơ nằm trong khuôn khổ của một bài thơ Đường đã làm cho nhà phê bình văn học Hoài Thanh nêu lên một thắc mắc: ” Quách Tấn có thực không bao giờ mơ tưởng bạn phương xa ( ý nói đến thơ mới )”

Trong những bài thơ Đường của Trung Quốc, của Việt Nam chưa hề có một bài thơ nào, một câu thơ nào đưa ra trên bài thơ cái tôi, cá nhân cùng với sự thổ lộ tình cảm nồng thắm tự nhiên như thế ngoại trừ các nhà thơ mới.

Vì vậy nên trong cuốn Thi Nhân Việt Nam của HoàiThanh khi bình luận ”Một thời đại trong thi ca Việt Nam” tác giả đã viết về Quách Tấn:

“Cảm được lòng người đàn bà khó chìu kia (thơ Đường ) họa chỉ có Quách Tấn. Mối lương duyên gây nên từ Một Tấm Lòng đến Mùa Cổ Điển thì thực đằm thắm. Mùa Cổ Điển gồm cả cái giàu sang của Thái Can, Leiba, súc tích lại trong một khuôn khổ rắn chắc. Nhưng Quách Tấn có thực là một nhà thơ cũ hoàn toàn? Có thực Quách Tấn không bao giờ mơ tưởng bạn phương xa.”

Ngay từ năm 1941 nhà phê bình văn học nổi tiếng Hoài Thanh đã nhìn thấy cái mới trong nhà thơ Đường cuối cùng của Việt Nam này.

Tuy nhiên sau này trong thơ Quách Tấn tràn đầy những bài thơ, tình mới, ý mới và thể thơ cũng mới nữa. Đó là các bài thơ trong các tập Mộng Ngân Sơn, Giọt Trăng và nhất là trong các tập thơ lục bát Trăng Hoàng Hôn, Nhánh Lục, Dàn Hoa Lý, Nửa Rừng Trăng Lạnh v...v…

Như trong Mộng Ngân Sơn :

Chiều đọng nhánh mồ côi
Nhìn chim sâu đút mồi
Nhớ thương tràn gió lạnh
Làng cũ bóng mây trôi
(Nhánh Chiều )

Và :

Bên dòng khe nước trong
Cây măng vòi cong cong
Lắc lư chim chèo bẻo
Trên nền trời rạng đông.
(Rạng Đông)

Như trong Giọt Trăng:

Chim chiều kêu trước dậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng
(Hư Tâm)

Và:

Cành sương thơm sắc lá
Nắng đọng lòng chim ca
Nghìn trước thu đang trái
Nghìn sau xuân đã qua.
(Cành thơm)

Như trong Trăng Hoàng Hôn:

Xa nhau lòng chẳng hẹn hò
Nhớ nhau trở lại bến đò năm xưa
Chuồn chuồn mặt nước điểm sưa
Hoa lau nở trắng đôi bờ tịch liêu.
(Bến đò năm xưa)

Và :

Hừng đông nối bóng trăng tà
Tiếng chim mát mẽ màu hoa ngọt ngào
Duyên trần đã tỉnh chiêm bao
Còn nghe bước sóng ra vào bến xưa
(Còn Nghe )

Và trong Nhánh Lục:

Tuổi già ngủ ít nghĩ nhiều
Nỗi nhà nỗi nước lắm điều thương tâm
Thâu đêm sùi sụt mưa dầm
Đầy chăn nước mắt cố cầm vẫn tuôn.
(Đêm Đông)

Một mình gác trọ chon von
Đêm nằm thương nhớ vợ con não nùng
Chập chờn theo ngọn đèn chong
Canh gà dục sáng tiếng trùng ngâm thu
Quê nhà xa cách bấy lâu
Lòng thơ úa mộng trái sầu trổ hoa
Thẹn thùng mang tiếng tài ba
Trăm năm sự nghiệp nghĩ mà ích chi.
(Một Mình Gác Trọ)

Và trong Giàn Hoa Lý :

Qua canh mưa gió sụt sùi
Trở nghiêng gối mộng mình vui với mình
Chung trà hớp vị bình minh
Giàn hoa lý nở ngọt tình cố viên
(Giàn Hoa Lý)

Lo buồn nghỉ chẳng ích chi
Đời còn vui được ta thì cứ vui
Một mai ba tấc đất vùi
Trần gian để lại nụ cười cho hoa.
(Một Mai )

Và trong Nửa Rừng Trăng Lạnh :

Nhớ em !
Mười sáu tháng năm
Mười sáu tháng bảy
Anh tầm thăm em
Trăng khuya lờ rạng bóng thềm
Xa xa mấy tiếng chim đêm ngập ngừng
Gặp nhau nửa tủi nửa mừng
Nửa e tai vách mạch rừng khổ nhau
Thà đừng nghĩa trước tình sau
Yêu nhau chi tội lòng nhau hỡi lòng
Miệng đời rằng đục rằng trong
Đục trong lòng biết cho lòng thời thôi
Yêu nhau trót đã lỡ rồi
Đành cam cay đắng với đời biết sao
Đắng cay đổi chút ngọt ngào
Lạnh lùng hứng giọt nắng đào chiều thu
Lòng nhau ấp ủ lấy nhau
Lời nguyền sau trước trước sau một lời
Hai đêm mười sáu em ơi
Hai đêm mười sáu suốt đời không quên
Vì tình mà xuống mà lên
Đường đi cách suối ngăn ghềnh quản bao.
(Hai đêm mười sáu)

Riêng trong 2 tập thơ xuất bản vào thời gian thơ mới thịnh hành là Một Tấm Lòng và Mùa Cổ Điển cũng đã chứa đựng nhiều tình thơ ý thơ đầy chất thơ mới. Trong bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ Hàn Mặc Tử có câu :

Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Thì Quách Tấn lại để tình mình vào trong bài Bên Sông :

Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc
Sông đừa lạnh đến bóng trăng run
Thuyền ai tiếng hát bên sông vắng
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.

Một bên mong cho thuyền ai đậu bến sông trăng đó có chở trăng về cho kịp tối nay. Một bên thì đã có sẳn trăng rồi song vẫn còn buồn và mong cho thuyền bên kia sông đang vang vọng tiếng hát ghé lại cho nhau gởi chút buồn.

Sở dĩ thơ Đường của Quách Tấn chống chỏi được với thơ mới và bền vững với thời gian là vì Quách Tấn đã kết hợp được cái vi tế của thơ Đường với cách dùng chữ dùng ý và nhất là cái chất thơ của lòng thi nhân hòa hợp với sự thay đổi của thời đại. Thi nhân đã nói lên được tấm lòng của người không cha mẹ :

Cảnh có núi sông nhiều thú lạ
Đời không cha mẹ ít khi vui.

thì dù là thơ mới hay thơ cũ lời thơ cũng quến được lòng người.

Quách Tấn đã thành công trong việc đưa thiên nhiên vào trong thơ một cách tự nhiên hòa lẫn với tâm hồn và tình cảm của con người. Như trong bài Về Thăm Quê :

Cội tùng bóng ngã sương rơi lệ
Ngõ trúc mây che cuốc giục sầu

Cũng như trong bài Trơ Trọi :
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ.


Trong vấn đề tư tưởng, khi nhận thức được lẽ tuần hoàn của vũ trụ, Quách Tấn đã chấp nhận sự biến chuyển của thi ca theo giòng trào lưu tiến hóa nên nhà thơ không phản ứng cũng như không theo giòng mà lại hòa đồng cùng với sự phát triển tích cực ấy.

Các nhà thơ như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đông Hồ v…v… đã tuân theo luật tiến triển của thơ ca từ bỏ thơ cũ theo thơ mới và đã có một địa vị trong thơ ca Việt Nam. Riêng nhà thơ Quách Tấn vẫn giữ cho mình thể thơ Đường luật song đã làm phong phú thêm về hình thức lẫn nội dung với lời thơ trau chuốt, ý thơ giàu sang và đã được Văn học sử Việt Nam dành cho một chổ ngồi trên Tao Đàn. Nhà thơ không lên tiếng trên thi đàn để bên vực cho thơ cũ cũng như không bài xích thơ mới mà chỉ lặng lẽ phát huy cái cao đẹp của thơ Đường và hòa hợp những cái mới có ích cho thơ Đường của những dòng thơ mới. Bằng hai tác phẩm Một Tấm Lòng và Mùa Cổ Điển nhà thơ Quách Tấn đã “khép lại sự tranh chấp mới cũ của một thời đại trong thi ca Việt Nam”.

Những người yêu mến thơ Đường vẫn tìm được hứng thú trong thơ Quách Tấn. Những người thích cái mới trong thơ mới vẫn tìm được hương vị nồng thắm mới mẻ trong thơ Quách Tấn.

Trong bài tựa của tập thơ Một Tấm Lòng thi sĩ Tản Đà đã đặt thơ Quách Tấn ngang với thơ của Yên Đổ, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan. Nhà thơ mới Chế Lan Viên đã viết báo thừa nhận thơ của Quách Tấn có những câu thơ đẹp nhất trong những câu thơ đẹp nhất Việt Nam. Hoài Thanh cũng đã viết: ”Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ. (Một thời đại trong thi ca ViệtNam)

Thơ của Quách Tấn gồm được cái uyên thâm, trong sáng của thơ Đường, cái giản dị hồn nhiên của ca dao Việt Nam và những rung cảm thiết tha của thơ mới. Thi nhân là sự hòa hợp trọn vẹn giữa thơ cũ và thơ mới.

Và để kết lại bài nói chuyện này tôi xin được đọc một bài thơ giản dị song cũng đầy hượng vị thơ đọng trong tình cảm hòa sống với thiên nhiên của nhà thơ :

Sân mận chiều nay hoa rụng đầy
Hương sầu theo gió chập chờn bay
Em ơi đừng quét em đừng quét
Anh chỉ yêu hoa những phút này.

Nhà thơ Quách Tấn và thơ mới cũng như QuáchTấn với thiên nhiên vì Quách Tấn là một nhà thơ có phong vị của một nhà thơ Đường có kỹ thuật tinh vi của một nhà thơ Đường đã hòa hợp được cái cũ và cái mới cũng như đã hòa lẫn thiên nhiên với con người.

Quách-Giao

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.