Oct 13, 2024

Biên khảo

Những Bài Viết Về Hàn Mặc Tử I
Hàn Mặc Tử (1912 -1940) * đăng lúc 07:01:48 AM, Jun 27, 2008 * Số lần xem: 4469
Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (Full Version)


Hàn Mặc Tử (1912 - 1940)


Hoài Thanh - Hoài Chân


Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22 Septembre 1912 ở Lệ Mỹ (Đông Hới), mất ngày 11 Novembre 1940. Trú ngụ ở Qui Nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo, cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc Điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn. Kế đó mắc bịnh hủi, đưa vào nhà thương Quy Hòa rồi mất ở đó.

Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh). Đến năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử.

Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo,Ng Người Mới.

Đã xuất bản: Gái Quê (1936).


* * *


Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo: 'Hàn Mạc Tử? thơ với thẩn gì! toàn là nói nhảm.' Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: 'Thơ gì mà rắc rối thế! mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!' Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mạc Tử trong khi việt đoạn này: 'Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên đây! tôi điên đây! -- Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống.'

Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã khúc mắt mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọnn những lúc đêm khuya thang vắng, họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vì giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết: 'Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử.'

Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử. Tôi đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tựa Thơ Điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh. Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.

Thơ Đường Luật: Theo Ông Quách Tấn, Phan Sào Nam hồi trước xem Thơ Đường Luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: 'Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp được bài nào hay đến thế... Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó.' Thơ Đường Luật Hàn Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:

Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.

Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện cho sử nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mạc Tử.

Gái Quê: Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Kỳ đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái Quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục.

Thơ Điên: Thơ Điên gồm có ba tập:

1) Hương Thơm

2) Mật Đắng

3) Máu Cuồng và Hồn Điên

Hương Thơm: Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.

Mật Đắng: Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồn sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.

Máu Cuồng và Hồn Điên: Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cái thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì chung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một người hay đúng hơn một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử. Ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ Điên. Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương Thơm, hấp hối với tập Mật Đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn tỏa lên nghi ngút.

Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu Cuồng và Hồn Điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.

Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:

“Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang”

Lên chơi trăng có câu:

“Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm.
Ta ở côi cao nhìn trở xuống:
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm”.

Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:

“Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên”.

Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng trở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:

“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da.

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,
Trải niềm đau trên mảnh giấy monh manh;
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết,
Cả lòng ta trong nhớ chữ rung rinh”.

Tôi chỉ trích ra vào đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm.

Xuân Như Ý: Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy dẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để ban ơn phước cho cả và thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng -- sao lại há miệng? -- cho thơ trào ra, làm chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người sẽ thấy:

“Đường thơ bay sáng láng như sao sa
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa”.

Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo khôngcó có gì giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân Như Ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.

Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật Giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với di thảo của thi nhân.

Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể.

Thượng Thanh Khí: Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh đã thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia Đại khái không khác cảnh Xuân Như Ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không thiêng liêng.

Cẩm Châu Duyên: Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mạc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khải ái: nàng Thương Thương. Nàng Thương Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử hình như cũng không biết gì hơn ngoài hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng đủ để thi nhân đưa nàng vào tháp thơ. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người mơ thấy mình là Tư Mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:

“Đã mê rồí! Tư Mã chàng ôi!
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! ôi! hãm bớt cung cầm lại,
Lòng say đôi má cũng say thôi”.

Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy:

“Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa”.


Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận. Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn. Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng.

Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội: Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần Tiên Hội viết chưa xong và không có gì. Duyên Kỳ Ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mạc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này. Nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.

Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập thơ này là trong trẻo hơn cả. Còn từ Thơ Đường Luật với những câu:

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

cho đến Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.


* * *


Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã...

Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn.



Hoài Thanh - Hoài Chân


* Trích Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.

Tài Liệu tham khảo

+ Thơ Hàn Mặc Tử hay Những Bài Tình Ca Bi Thiết của Huy Phong và Yến Anh.

+ Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại - Quyển I của Trần Tuấn Kiệt.

+ Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.
=========================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:06:03)


Về Quy Nhơn thăm Hàn Mặc Tử



Nguyễn Nguyên Vũ


Cách đây 60 năm, một nhà thơ đã đến chữa bệnh tại trại phong Quy Hòa, mang theo hành trang là tập thơ Đau thương (1937). Trên giường bệnh, anh đã làm thêm 2 tập thơ nữa là Xuân như ý (1939) và Thượng thanh khí (1940). Những tập thơ này là một trong những đỉnh cao thi ca Việt Nam. Sau này Chế Lan Viên đã không tiếc lời "Tử là một đỉnh cao, lòa chói trong văn học thế kỷ, thậm chí các thế kỷ".

Hàn Mặc Tử, theo lời kể lại, thời ấy thường ngồi dưới mái nhà tranh ở Ghềnh Ráng (biển Quy Nhơn) qua tàn phượng vỹ, ngắm chiếc cầu nhỏ xinh xinh bắc qua suối Tiên.

Năm 1958, mộ Hàn Mặc Tử đã được cải táng trên một ngọn đồi nhìn xuống biển xanh và bên trái là cây cầu, suối Tiên… đúng như nhà thơ mơ ước.

Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng.

Từ đó đến nay, hàng vạn người đã ghé Quy Nhơn thăm Hàn Mặc Tử.

* Quy Hòa - "thành phố" tượng

Thiên nhiên đã ưu đãi cho Bệnh viện phong và da liễu Quy Hòa một cảnh quan tuyệt vời. Núi xanh, biển xanh, cây xanh và bầu trời mùa hạ xanh ngắt.

Vâng, có thể gọi nơi này là một "thành phố mini" lắm chứ. Những con đường ngang dọc như bàn cờ được trải nhựa phẳng phiu chạy giữa rừng cây xanh. Những ngôi nhà nhỏ kiến trúc đặc trưng của trên 80 nước trên thế giới (mỗi nước xây tặng một nhà) trông thật xinh xắn. Những bức tượng điêu khắc được bố trí rải rác phù hợp với một không gian thoáng đãng. Bên bãi biển, dưới chân vườn phi lao là vườn tượng danh nhân y học Việt Nam và thế giới rất độc đáo. Điều hấp dẫn du khách của Quy Hòa còn là một bãi biển lý tưởng, sạch đẹp, chạy dài tít tắp để du khách có thể tha hồ vẫy vùng thỏa thuê trên sóng nước.

Nếu có thời gian, du khách hãy thuê thuyền sang các hòn đảo ngoài khơi Quy Hòa, cách 30 phút đi thuyền máy. Ở đây không có dân cư, chỉ có trời nước mênh mông với những gành đá, hang hốc kỳ bí. Thiên nhiên hùng vĩ sẽ hoàn toàn thuộc về du khách.

* Suối Tiên xanh

Rời Quy Hòa, lên đến đỉnh đèo trên đường Quy Nhơn - Sông Cầu, nhìn về phía Nam, du khách sẽ thấy thấp thoáng trong rừng cây xanh trên núi cao những mái ngói tứ giác đỏ tươi, nhô cao giống như một ngôi chùa cổ, gợi sự tò mò pha chút ngạc nhiên. Xe chạy lên con dốc chừng 200 mét rồi theo lối mòn rẽ vào rừng khoảng 200 mét nữa là đến khu du lịch Suối Tiên. Bên cạnh tiếng rì rào của cây rừng lộng gió là tiếng róc rách của những con suối nhỏ len qua từng khe đá, uốn quanh trên sườn núi, hòa cùng tiếng chim rừng hót líu lo. Suối Tiên là một trang trại du lịch sinh thái với nhiều loại cây ăn quả mùa nào thức ấy. Du khách có thể leo núi, ngắm cảnh dưới bóng mát cây rừng, trên tảng đá bên dòng suối xanh mà tận hưởng khúc nhạc thanh bình của thiên nhiên hiền hòa, thơ mộng. Khách cũng có thể ngồi trên "lầu vọng phố" nhìn về phía Quy Nhơn mờ ảo trong sương chiều hoặc sáng rực ánh điện đêm.

Ghi chú:

* Nơi an nghỉ của Hàn Mặc Tử

Xuôi hết con đèo Quy Hòa là đến đường Hàn Mặc Tử, rẽ về phía đông nam, lên dốc Mộng Cầm dài vài trăm mét là đến đồi Ghềnh Ráng - khu danh thắng đã được xếp hạng di tích quốc gia. Trên đỉnh đồi, dưới chân tượng Đức Mẹ là mộ Hàn Mặc Tử. Đã nửa thế kỷ, Hàn nằm đây nhìn về phía Quy Nhơn, bốn mùa trăng sao và sóng biển vỗ về anh - nhà thơ số một của Việt Nam cận đại. Đây là nơi hầu như không một du khách nào bỏ sót khi đến Quy Nhơn. Trong một tương lai gần, khu vực mộ Hàn Mặc Tử sẽ là trung tâm của công viên văn hóa nằm trong khu du lịch Ghềnh Ráng đang được xây dựng. Từ mộ Hàn Mặc Tử, đi thêm 300 mét trên đường đèo ven biển là đến bãi tắm Hoàng Hậu. Đây là nơi nghỉ mát của vua Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu với một bãi đá trứng nhiều sắc màu kỳ thú mà hòn đá nào cũng tròn nhẵn giống như trứng của những quái vật khổng lồ thời tiền sử.

Hiện nay, tam giác du lịch Quy Hòa - Suối Tiên - Ghềnh Ráng là nơi thu hút du khách nhiều nhất khi đến Quy Nhơn. Ba khu du lịch này nằm kề bên nhau, tạo thế liên hoàn, mỗi nơi đều có sắc thái riêng, cảnh quan đẹp và giao thông thuận lợi bởi nằm ngay trong nội thành Quy Nhơn. Bên cạnh đó, đường Quy Nhơn - Sông Cầu dài 33 km là một trong những con đường đẹp nhất Việt Nam, mở ra một vùng du lịch hoàn toàn mới chạy dài từ Quy Nhơn đến Sông Cầu (Phú Yên) qua những vịnh biển đẹp, những làng chài thơ mộng nằm dưới rừng dừa xanh với những địa danh lạ lẫm mà đầy hấp dẫn: bãi Dài, bãi Dại, bãi Xếp, bãi Bàng, bãi Rạng…

Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng với biển núi trùng trùng, môi trường trong lành… sẽ là những yếu tố hấp dẫn du khách nhiều nhất khi có dịp đến với quần thể du lịch Quy Hòa - Suối Tiên - Ghềnh Ráng.
=================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:09:22)


Ảnh hưởng đạo Phật
trong thơ Hàn Mặc Tử



QUÁCH TẤN



Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và mầu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc -nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn của một tâm hồn.

Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn - một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ - mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng ý muốn của người thơ.Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử, nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở tronglời mà ở trong nhạc.

Trong tâm hồn Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng mình là "Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá", Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo và dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh Nữ Đồng Trinh là một.

Bài này Là những lời Tử dâng lên Đức Maria để ca ngợi "ơn phước cả", mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong "cơn lâm lụy". Trong bài có những chữ "Từ Bi", "ba ngàn thế giới", là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:

Lạy Bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới

Hai chữ "Từ bi", còn thấy dùng trong nhiều bài khác:

Thơ tôi thường huyền diệu
Mọc lên đạo từ bi
(Cao Hứng)

Trời từ bi cảm động ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá
(Hãy Nhập Hồn Em)

Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như "hằng hà sa số" "mười phương" cũng thường gặp trong thơ Tử :

Mây vẽ hằng hà sa số lệ
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn
(Cuối Thu)

Đóng cửa mười phương lại
Dồn ánh sáng vào đây
(Điềm lạ)

Trời như hớp phải hơi men ngan ngát
Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương
(Nguồn thơm)

Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo:

Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo không biết mấy là hương.
(Phan Thiết)

Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,
Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.
(Phan Thiết)

Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như "thành chánh quả", "sông Hằng", Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng (Phan Thiết). Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời "Đao Lỵ", trời "Đâu Suất" - những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng - chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình:con chim Phụng Hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, "nơi đã khóc đã yêu đương da diết" để mà "chôn hận nghìn thu" và "sầu muộn ngất ngư".

Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:

Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hoá đai điện đã rất nên tráng lệ
(Phan Thiết)

Và cõi đời này -mà Phan Thiết là tượng trưng - là nơi đau khổ, là nơi "chôn hận nghìn thu", là nơi "sầu muộn ngất ngư". Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
(Ngoài vũ trụ)

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác
Rất phương phi trên hết cả anh hoa
(Ra đời)

Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
(Đêm xuân cầu nguyện)

những "ánh sáng vô cùng" "sáng láng cả mọi miền", những tiếng "nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh", những điệu nhạc "rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác" những "cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc", ở trong Tử là vang bóng của "vô lượng quang" của "thiên nhạc", của "hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo" trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.

Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm "Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép màu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung? (bài tựa Xuân Như Ý). Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng? Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (lòng vô lượng), mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời) chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời
gian (năm muôn năm). Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, Tử đã quan niệm cái Tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô chung, và coi những hiện tượng do "lòng vô lượng" đã "đưa ra" kia là "công trình châu báu" của Đức Chúa Trời, nên Tử "cao rao danh Cha cả sáng". Như thế Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo TC? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự Tôn giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo - Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho thơ thêm giầu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là "phạm thượng" đối với những Dấng Thiêng Liêng Tử phụng thờ. Ví dụ đương qùy trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ;
Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua

Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng:

Ta chắp tay lạy qùy hoan hảo,
Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian,
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
(Đêm xuân cầu nguyện).

Nghĩ đến những gì "giàu sang hơn Thượng Đế", Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện:

Tôi van lơn, thánh nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ Chúa trên thơ.

Còn đối với Đạo Phật ? Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệụ Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn huơng muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ rưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng,

Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa Giáo - một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng: -Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả hai thể văn và tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giầu cho nền văn chương chung.

Bởi vậy, khi đọc Hàn Mặc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.



Nha Trang , mùa xuân Tân Sửu, 1961
===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:11:08)


Hàn Mặc Tử
"sống mãi với trăng sao gấm vóc"



TRẦN XUÂN TOÀN



Không kể những tập thơ của Hàn in lúc sinh thời và những cuốn sách về đời thơ của ông do các nhà phê bình, nghiên cứu xuất bản trước đây, chỉ kể những tập sách về Hàn Mặc Tử xuất bản sau khi đánh giá lại các hiện tượng văn học nói chung, về Hàn Mặc Tử nói riêng, cũng thấy được tầm vóc cùng sự quan tâm của giới văn nghệ đến Hàn. Chúng ta đã có Tuyển tập Hàn Mặc Tử (Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn học, 1987), Thơ Hàn Mặc Tử (Quách Tấn, Chế Lan Viên giới thiệu, Hà Giao, Quách Giao, Trần Thi Huyền Trang sưu tầm, tuyển chọn - Sở VHTT Nghĩa Bình xuất bản 1987, tái bản 1988), Hàn Mặc Tử - Hương thơm và Mật đắng (Trần Thị Huyền Trang sưu tầm, biên soạn, NXB Hội Nhà văn, 1991), Hàn Mặc Tử - anh tôi (Thiệu Nam Nguyễn Bá Tín - NXB Tin, Paris, 1990, do Đỗ Mạnh Trí giới thiệu, Phạm Đán Bình sưu tầm, chú thích), Hàn Mặc Tử - thơ và đời (Lữ Huy Nguyên sưu tầm, tuyển chọn - NXB Văn Học, 1993) và cuốn Thơ văn Hàn Mặc Tử - phê bình và tưởng niệm của GS Phan Cự Đệ biên soạn (NXB Giáo Dục, 1993) tuyển cả thơ văn của Hàn cùng rất nhiều bài viết có giá trị của gia đình, thân hữu, các nhà nghiên cứu về Hàn.

Song song với những tập sách, từ nhiều năm nay, thơ văn Hàn Mặc Tử còn được giảng dạy trong nhà trường phổ thông và đại học. Một số sinh viên và nghiên cứu sinh đã chọn Hàn Mặc Tử làm luận án nghiên cứu của mình. Điều đó cho thấy không phải đến bây giờ người ta mới thấy được chân giá trị của những vần thơ, trang văn của Hàn. Mấy mươi năm trước người ta đã nói gì về Hàn? Hàn Mặc Tử là hiện tượng độc đáo trong làng thơ Việt Nam, ắt hẳn phải có những nét đặc trưng và đặc biệt trong tư duy thơ, trong quan niệm thẩm mỹ, trong thế giới nghệ thuật và trong cá tính sáng tạo của thi sĩ.

Thơ Hàn Mặc Tử từ Lệ Thanh thi tập qua Gái quê rồi từ Gái quê qua Thơ Điên (Đau thương), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên… đã đi qua một chặng đường dài từ cổ điển qua lãng mạn rồi từ lãng mạn chuyển nhanh sang tượng trưng, siêu thực. Chỉ hơn 10 năm hoạt động trên thi đàn, Hàn đã góp phần vào hiện đại hóa thi ca Việt Nam. Chỉ riêng điều đó, Hàn đã tài lắm rồi. Trần Tái Phùng trên Người Mới số 7-12-1940 đã viết: "Nghệ thuật chàng tựa một con sông dài đi xuyên qua thế kỷ chúng ta và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau, đẹp đẽ đến say ngợp, đến tê liệt cả lòng người."

Điều ấy thể hiện trong quan niệm thơ của Hàn. Do quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, nên vũ trụ thơ ca của Hàn là sự hòa hợp giữa bốn yếu tố "Trăng, Hoa, Nhạc, Hương":

Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ

Của hương hoa trong trăng lờn lợt bẩy

Của lời câm muôn vì sao áy náy

Hiểu gì không, em hỡi hiểu gì không?

(Trường tương tư)

Và trong tản văn Chơi giữa mùa trăng, Hàn đã viết: "Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh trăng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả".

Đọc những vần thơ của Hàn, ta thấy ông luôn hướng đến cõi vô cùng, vĩnh viễn, vĩnh hằng. Điều đó thật dễ hiểu với một con bệnh cô đơn giữa cuộc đời nầy. Hàn quan niệm về thơ: "Thơ là một tiếng kêu thương thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thủy, vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt". Còn Bùi Xuân Báo trong bài Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử có lý khi lý giải: "Những gì tươi đẹp nhất trong vũ trụ, quý hóa nhất trong tâm linh, huyền bí nhất trong tôn giáo, Hàn Mặc Tử đều đồng hóa với thơ. Trăng vằng vặc, mùa xuân mát dịu và tươi sáng, lòng thương yêu của Chúa trời và Mẹ Đồng trinh đều là những biến thể của chất thơ man mác".

Như vậy, thơ là lẽ sống, là hơi thở của Hàn, nhất là lúc Hàn nhuốm bệnh và nằm viện, biết mình sắp lìa xa cõi đời nầy.

Nói Hàn vị nghệ thuật, nói thơ Hàn nhuốm màu tôn giáo, chất Đạo, có ngờ đâu cái phần chất Đời trong thơ Hàn "vừa riêng biệt tưởng không hình dung nổi lại vừa rất chung, rất thực, có thể sờ mó lên được" như Yến Lan phân tích. Chế Lan Viên cho rằng: "Bài Ave Maria viết cho Đức Mẹ trên trời, có thể viết hay như thế không, nếu không có bà mẹ ở dưới đất?". Những người thân thuộc của Hàn chính là Đức tối cao trong thơ Hàn. Hàn đã viết: "Chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa, tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt, uy nghi như pho tượng Đức Bà Maria, là bực tinh truyền chí thánh" (Chơi giữa mùa trăng).

Có thế ta mới giải thích, mới yêu Hàn hơn như Phan Bội Châu đã yêu mến Hàn qua tấm lòng yêu nước qua ba bài thơ: Chùa hoang, Gái ở chùa, Thức khuya của Hàn.

Mà thôi, người ta đã nói về Hàn nhiều rồi. Hàn đã đến với Trăng, Hoa, Nhạc, Hương và với niềm tin của mình rồi.

Một chút gì còn lại ở Hàn mà hôm nay, những tấm lòng thơ ngưỡng mộ, về đây đốt nén hương tưởng nhớ đến Hàn. Ấy là ta nhớ đến con chim phượng hoàng đang sải cánh trên bầu trời thơ nước Việt của thế kỷ và nhiều thế kỷ.

Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất

(Phan Thiết! Phan Thiết!)

Hàn ơi! Với vũ trụ thơ, Người vẫn là con chim Phượng Hoàng…

Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc

Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay

(Trường thọ)

===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:12:39)


Hàn Mặc Tử, hồi ấy



Đỗ Lai Thúy. Con mắt thơ


Tôi gặp Hàn Mặc Tử trong một hoàn cảnh tình cờ. Hồi ấy trong sinh hoạt văn học cuộc bút chiến giữa nhóm Tự Lực văn đoàn và nhà văn Nguyễn Công Hoan. Lúc đó đã xuất bản tập truyện ngắn Kép Tư Bền. Cuộc bút chiến kết thúc phần thắng lợi nghiêng về Nguyễn Công Hoan. Đa số tán thành và ủng hộ tác giả Kép Tư Bền. Sau đó để đáp lòng hâm mộ của bạn đọc các địa phương miền Trung. Ông đến Quy Nhơn. Bạn đọc nô nức đến chào đón và xin chữ ký. Tất nhiên trong đó có Tử. Vì là tác giả, và từng đứng về phía bênh vực nên Tử sớm thành tri âm tri ngộ của Nguyễn Công Hoan. Không biết Tử dẫn ông đi đến những đâu, chỉ biết là sáng hôm ấy, hai người vào viếng Chùa Ông ở Bình Định. Chùa Ông lúc ấy còn có dải tường cao bao quanh cả mặt trước, ngăn cách điện tẩm, xa hẳn con đường số 1 chạy ngang. Cửa chính đóng kín, bên trong là cả một thế giới hoa cảnh mát tươi, đi vào phải thông qua cái cửa ngách. Tôi còn nhớ khi cả hai nhà văn vào sân trước, điểm trước tiên là Tử chạy đến trước cụm hoè hoa đang nở vàng chói, với tay bẻ một cành đưa cho Nguyễn Công Hoan, và họ cùng tiến lên bậc cấp của cánh cửa hông mở vào chính điện. Tôi ở nhà nghĩa tự và đang làm thơ. Ông cụ thân sinh tôi vốn là từ thừa ở đó, lên hướng dẫn hai người, sau cùng mời hai người vào xơi nước nơi nhà nghĩa tự. Tử thấy tôi cứ ngồi mặc nhiên viết, và hình như có liếc nhìn trang giấy, liền rất nhã nhặn lại ngồi bên:
- Xin quấy rầy đôi chút nhé, cậu em. À, mà cậu em đang làm thơ à?
Tôi bẽn lẽn, nhưng không mất vẻ tự hào:
- Vâng, tôi đang tập tành.
- Cậu có bài đăng báo chưa.
- Có một bài trong tập Bến My Lăng.
Bỗng nhiên Tử lộ vẻ hân hoan:
- Thế thì tôi biết: Cậu là Xuân Khai. Là Yến Lan .
Rồi Tử vỗ vai tôi, nói tiếp luôn:
- Tôi là Phong Trần, là Lệ Thanh.
- Thế là rất hân hạnh được biết. Tôi đọc anh đã lâu ở báo lời thắm xuất bản ở Lòng Sông và những bài thơ anh hướng họa cùng cụ Phan Sào Nam từ năm xửa năm xưa.
Tử quay sang giới thiệu tôi với Nguyễn Công Hoan. Thế là câu chuyện quay vào cuộc bút chiến vừa qua, vào tin tức văn học, tin tức sách báo ở Hà Nội, ở Sài Gòn. Khi từ biệt, Tử không quên dặn tôi khi nào đi Quy Nhơn thì ghé lại nhà chơi, và anh để lại mảnh giấy ghi địa chỉ.
Đó là một tạng người nhã nhặn lịch thiệp. Tôi không ngờ cái bộ ngoài của một người ăn vận sang trọng, chỉnh tề: com lê tussor . D.liguon Phú Phong, mũ Panama màu trắng lụa với cavát thắt ngang cổ áo như một ông “má chín”, lại là một nhà thơ viết ra Gái quê với cả một tấm “tình quê” buâng khuâng nồng đợm cũng bốc lên màu rạ vàng, sắc mạ xanh tươi.
Từ đó cứ mỗi bận có dịp đi Quy Nhơn thì tôi kết hợp đi thăm anh. Có khi kèm với Chế Lan Viên, có khi đi một mình, nhất là giai đoạn anh lâm bệnh. Anh thường tiếp chúng tôi ở số nhà 20 Khải Định. Tôi còn nhớ đây là một ngôi nhà xây để ở chứ không phải theo quy cách nhà có thể mở ra làm cửa hàng buôn bán. Nó dựng trên một khỏang đất chéo, nên hàng ba bước vào phònh chính không quay mặt ra đường. Có cổng và tường ngăn. Phòng khách bày biện ít đồ đạc. Cái tôi nhớ nhất là cái đồng hồ treo gõ kỳ cạch suốt năm tháng của nó, giữa cơn đau ốm, như người lễ sinh đứng đó không xướng lên lễ thức mà chỉ đếm thời gian, từng giọt, từng giọt, nhắc với Tử, bằng cách gây nên những xáo trộn tâm tư, có khi thầm thì báo hiệu cái cô đơn đang vây phủ xung quanh anh. Cái thứ hai là bộ ghế bành lùn , rộng và khoẻ bằng ruột mây đan. Mỗi lần chúng tôi đến, ở phòng trong ra, anh đến bắt tay từng người. Đó là lúc bệnh anh mới sơ phát, còn ở dạng nghi ngờ. Về sau thì anh chỉ chấp tay vào và khẻ khàng ngồi xuống chiếc ghế kê sát nách cửa vào phòng. Lòng ghế lót bằng một tấm vải cũ gấp lại.
Anh đọc thơ cho chúng tôi nghe, không giải thích, rồi anh ngâm. Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao… và cộng với lời thơ gây nên một không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào thế giới nào có suối, có đồi, có bóng dáng những cuộc hành hương , và nhạc điệu cung văn, đồng bóng. Trông anh như cành liễu mùa đông đang bị cơn gió lạnh tuân về day trở. Giọng nói của anh thì ngọt và mát như dòng sông Nhật Lệ quê anh từ thuở ấu thơ; nó đã được tiếng khen là nuôi dài tất cả những mái tóc để tăng thêm vẻ yêu kiều của lớp người sông Lũy Thầy. Trường Dục nhưng trong giọng ngâm, anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ, cao thấp cheo nhau như từng tia lửa bung lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn. Anh đã lấy xác thịt minh hoạ cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngân bài Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi triều mến hân hoan kỳ lạ. Chúng tôi có cảm giác như anh bay lên đôi cánh sải rộng ra, khi vút lẫn vào mây, khi là sông bể. Có lúc tưởng như anh đang ngồi trên lưng con tuấn mã phi nhanh trở về sau một chiến công, thỉnh thoảng dừng lại ngước nhìn suối thẳm, khe sâu vừa mới vượt qua.
Số là, theo anh kể lại, bận ấy người bạn thân thiết nhất là Quách Tấn ở Nha Trang ra giới thiệu với gia đình, ông cậu của Tấn vốn là một võ sư lừng danh tên là Đoàn Phong. Ông này có mô thuốc gia truyền chữa lành nhiều người mắc bệnh phong hủi, và Tử đã được tiếp cận, được cho đơn. Thang đầu hiệu quả chưa rõ rệt đến thang thứ hai thì có biến chuyển bất ngờ. Tử ăn, ngủ thấy ngon, tâm tư thư thái, hết ngứa ngấy, tê buốt. Anh vui mừng quá, gọi mẹ, gọi chị, em, nói cười rối rít và anh bảo rằng: đó là do có Đức Mẹ Đồng Trinh, đã xui khiến anh được như vậy. Bận ấy anh tưởng anh được thoát nạn:

“Lạy Bà là đấng trinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơ lâm lụy vừa trãi qua dưới thế…”

Tôi không sắp xếp theo một cách có hệ thống theo khoa học những trật tự thời gian và địa điểm các cuộc lui tới thăm viếng giữa chúng tôi với Tử. Đó những cái dễ quên thường tình qua quảng cách quá dài của năm tháng, nhưng cái không thể quên không có cái gì khác làm cho quên được là cuộc thăm viếng sau cùng với Tử. Đó là cuộc vĩnh biệt ngàn thu, mặc dù anh còn sống một thời gian nữa.
Một ngày se se lạnh vào cuối tiết tháng chạp, tôi và Chế Lan Viên đến số nhà 20 Khải Định như thường lệ, bà cụ thân sinh anh ra đón ở bậc cấp hàng ba ngôi nhà. Cụ vừa mếu máo vừa bảo: Tử đã được dấu ở một nơi khác. Chính quyền thành phố ra lệnh bắt đưa Tử vào Qui Hòa. Xin lưu lại vài ba ngày cũng không được. bà cụ đã gọi một em bé, theo yêu cầu của chúng tôi, dẫn đường đến đó. Hồi ấy Quy Nhơn chưa mở rộng như bây giờ. Lớp người thuộc thành phần lao động, buôn thúng bán bưng và số ít công chức nghèo, nối tiếp nhau chen chúc vào trong khu dộng cát phía tây thành phố dựng lên nhà cửa sơ sài, tạo thành xóm dân cư đông đúc. Nhiều nhà không có nền, người đi lội trong cát. Những mái nhà xoan, tre xiêu vẹo được phủ lên những tấm mái bằng tranh rạ, thỉnh thoảng mới có nhà lợp tôn hoặc ngói vẩy. Lối đi vào theo thế đứng không trật tự của lều chải, thành ra chỗ phềnh, chỗ eo và quanh co hun hút. Tử ở trong nhà một lều tranh thuộc vào lọi tồi tệ nhứt, nhì ở đây. Tiếp chúng tôi anh ngồi ở bên trái cái bàn, nơi có lối thông ra phía sau, một ngăn ô nho nhỏ kê chiếc giường chõng. Bàn là một tấm ghép hai lá gỗ thùng đặt lên một chân bàn cũ, chân kía là khúc củi còn nguyên nhánh nhóc róc rơ. Hai chân kia dựa vào hai cây trẩy chống thẳng lên mái làm cột. Đây là nhà của một bác phu xe kéo tay (hay làm lao công bốc vác gì ở đó) hôm ấy chủ nhà đi vắng. Một nỗi quạnh hiu đè nặng lên lòng. Tử có vẻ mệt nhọc, tư lự, nói ít và mỗi câu nói có vẻ trăn trở của sự cố gắng bình thản. Chúng tôi biết là anh tránh cho chúng tôi những lo phiền cho sức khoẻ. Nhìn anh lại cứ nhớ mãi đến câu tho trong bài Lưu luyến:

“ Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi…”

Những phút in lặng nhìn nhiều hơn trò chuyện. Cho đến giờ tan tầm, khu lao động trở nên ồn ào. Em Hành đã về nhà và xách cái cà mèn từ lúc nào chúng tôi không hay, vì lúc ấy tôi và Chế Lan Viên ngồi trên khúc tre cán ngang hai chân cột làm ngạch cửa, day lưng ra phía ngoài. Và Tử ra dầu có ý bảo là đã trưa và trời nắng gắt. Hai chúng tôi đứng dậy. Mỗi người đến cầm một bàn tay anh, không dám xiết chặt vì sợ anh đau thêm cả phần thể xác. Sau này lục ra trong đống di cảo, có bài thơ Những giọt lệ, không rõ anh viết trong cảm xúc nào, nhưng tất cả những điều anh viết trong ấy chẳng khác gì tình huống trong cuộc chia tay lần ấy với chúng tôi.
Giờ đây, tại nơi anh đã vặn thắt tâm hồn ra máu để viết nên những bài thơ rung động đến tận cùng sâu thẳm lòng người, tôi tưởng niệm anh, tưởng niệm một Hồn thơ. Sở dĩ tôi nhấn mạnh một chữ”hồn” vì thơ của Hàn Mặc Tử có cái thế mạnh nhất để tồn tại là cái hồn của anh.

Đỗ Lai Thúy. Con mắt thơ
H., 1997. VN/Đ: 37.190-91
============================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:13:55)


Gặp "chú tiểu đồng" của Hàn Mặc Tử



Nguyễn Hoàn


Nhà thơ nào không nặng nỗi ám ảnh về lẽ sinh tử ở đời. Với Hàn Mặc Tử, nhà thơ tài danh bạc mệnh của văn học Việt Nam hiện đại, nỗi ám ảnh ấy đã thành một định mệnh khắc khoải:

Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm

Nhưng trong họa có phúc. Phúc cho Hàn Mặc Tử, cũng là phúc cho cả nền thơ văn Việt Nam hiện đại. Trong suốt bốn năm cuối đời, từ năm 1937 đến năm 1940, nhà thơ chống chọi tuyệt vọng với căn bệnh nan y, cho dẫu có nhiều bạn bè và tình “trong mộng” cũng không ai rửa nỗi “vết thương tâm” cho nhà thơ, nếu như không có một người thương được gọi là “chú tiểu đồng” của Hàn Mặc Tử! đó không ai khác hơn là Phạm Hành, người em con chú ruột của Hàn Mặc Tử.
Trong chuỗi ngày bệnh tật đau thương dữ dội của nhà thơ, ông Phạm Hành từng theo sát gót để lo chăm sóc, bới xách, cơm nước tận tình, chu đáo (Hàn Mặc Tử mang họ Nguyễn mà ông Hành mang họ Phạm, là do trong gia tộc từng có sự cải tên họ từ “Phạm” sang “Nguyễn”). Ông Phạm Hành sinh năm 1924, tại làng Thanh Tân, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, năm nay đã 72 tuổi. Do một cơ duyên may rủi của số phận, ông trôi dạt đến vùng đất phía Nam cầu Mỹ Chánh, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, Quảng Trị và hiện vẫn còn sống tại đây. Nằm khuất nẻo sau con đường nhỏ ngoằn ngoèo là một căn nhà nhỏ, mái tranh vách đất tuềnh toàng, vườn nhà trồng dăm bảy hàng chè, luống sắn lèo tèo, nghèo nàn. Gia sản, mà cũng chính là gia bảo trong nhà đáng giá chăng là kho ký ức giàu về Hàn Mặc Tử của ông Hành.
Lúc Hàn Mặc Tử ôm mộng làm báo không thành do trong mình đã nhóm bệnh phải giã từ Sài Gòn để trở về Quy Nhơn, cũng chính là lúc người cha của ông Hành do cám cảnh trước bệnh tình Hàn Mặc Tử đã bảo ông bỏ học để lo chăm sóc cho người anh bất hạnh. Chú bé Phạm Hành 12 tuổi đã vui vẻ nhận lời giúp đỡ anh Trí (tên thật của Hàn Mặc Tử). Ngày ngày chú lo thay áo quần cho anh Trí để đem gửi thợ giặt, lo cơm nước, đặc biệt là lo dán tem, dán thư cho nhà thơ rồi trực tiếp gửi vào các thùng thư đặt dọc phố Quy Nhơn. Hầu như ngày nào chú cũng gửi thơ, một ngày gửi 3,4 lá.
Để dừng lắng lâu hơn ký ức của ông Hành, tôi bèn kéo dòng hồi tưởng của ông chầm chậm lại : “Hồi ở Quy Nhơn, ông thấy bệnh tình nhà thơ thế nào? Và nhà thơ bị bệnh thì viết thơ bằng cách nào?”. Gương mặt gầy gò nhưng quắc thước của ông đượm vẻ bùi ngùi: “Hồi đó, anh Trí chỉ mới bị mấy cái nụ hơi đỏ đỏ nổi trên mặt, gọi là “đơn”, chứ chưa phải phung. Khi bệnh còn nhẹ , mỗi sáng, anh thường hay tập thể dục bằng những sợi dây cao su bọc vải, có hai vật cầm tay, ở hai đầu dây, dang tay kéo vào, kéo ra. Khi mạnh, anh kéo 6 dây một lúc, khi yếu chỉ kéo được 2- 3 dây. Suốt ngày, anh viết thơ luôn tay và ngâm thơ say sưa một mình. Anh có thói quen nằm ngửa, kê giấy vào tay mà viết chứ không nằm sấp. Chữ anh viết kéo dài ra thành dây, người khác coi khó đọc. Anh “kéo dây” như thế để viết cho mau”. Bất giác, lời kể ông Hành xui tôi nhớ Hàn Mặc Tử từng có câu thơ tự hoạ về lối viết nằm ngửa mặt- một lối viết định mệnh : “Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng”
Cách biệt nhà thơ đằng đẵng mấy chục năm rồi, ông Hành vẫn nhớ như in,như tạc vóc dáng nhà thơ không nhỏ, không to, đầu tóc xờm xờm như mũ bê rê, ngày ngày cứ ngồi trên ghế mây, ngó ra đường Khải Định trước nhà, xem phong cảnh. Tính hiền như con gái, ít nói. Nhưng mỗi lúc có bạn thơ họp mặt, xướng hoạ với nhau, Hàn Mặc Tử tranh cải sôi nổi hơn ai hết. Nhiều lúc bệnh tình cũng đã khiến nhà thơ ngại ngần, né tránh chuyện giao du. Ông Hành nhớ có lần một cô gái Hà Nội đi xe kéo đảo lui, đảo tới hai, ba vòng trước nhà Hàn Mặc Tử để xin gặp, nhưng Hàn Mặc Tử lánh trong phòng, từ chối. Nể cô này năn nỉ mãi, Hàn Mặc Tử mới thuận cho gặp, nhưng với điều kiện cô phải lấy khăn bịt mắt lại. May có bà mẹ Hàn Mặc Tử biết được chuyện thông cảm với nghịch cảnh của hai người đã cho phép cô gái được cởi khăn bịt mắt ra.
… Thế rồi căn nhà Quy Nhơn với con đường Khải Định thân quen cũng không đủ sức lưu giữ nỗi thân phận lênh đênh của nhà thơ. Vì nhiều lý do. Gia đình đã đem gửi nhà thơ vào một cái động nằm kề một đồn Tây, trên đường ra Gềnh Ráng. Động, gọi theo tiếng địa phương, không phải là hang động mà là một bãi cát lồi lõm ven biển. Động này chỉ toàn dân “kẻ biển” ở. Hai anh em kết nghĩa tử sinh đã “nương náu” qua ngày trong cái nhà tranh lụp xụp thuê được với giá 5 – 7 xu/tháng. Số phận những chủ nhân ngôi nhà cho thuê cũng đen bạc chẳng kém: họ là hai chị em gái không chồng, một chị có được mụn con trai tự “kiếm” lấy!
Về chuyện ăn uống, ông kể: “Anh Trí thường ăn loại cá liệt, vì loại cá này không độc. Cá liệt hồi đó con to bằng bàn tay chứ không nhỏ như cá liệt thời chừ. Lâu lâu anh mới được ăn thịt, vì bà già anh Trí cho rằng bệnh phung rất kị hơi thịt mỡ”.
Ở trong động chừng 5 tháng, hai anh em dắt díu nhau về nhà thương Quy Hoà, nơi tột cùng đau khổ nhân gian. Lúc về Quy Hoà, Hàn mặc Tử viết lách khó khăn hơn vì cứng tay, trên mặt nổi nhiều mụn đỏ sắp nứt. Ban đầu, Hàn Mặc Tử được nhà thương xếp cho “nằm tập thể”, sau đó do bị liệt mới được xếp nằm riêng một mình, một phòng. Nằm riêng được mấy ngày thì Hàn Mặc Tử trút hơi thở cuối cùng. Lúc nhà thương khâm liệm cho Hàn Mặc Tử xong xuôi, ông Hành đạp xe từ Quy Nhơn lên Quy Hòa mới biết, trong tay ông lúc đó còn cầm gói đồ ăn mang cho anh Trí! “Tôi như còn vẳng nghe câu nói anh Trí dặn tôi lúc vào Quy Hoà- Giọng ông Hành nghẹn lại- Anh dặn đi, dặn lại: Em đừng có nhổ nước miếng giữa nhà nghe chưa. Nếu em nhổ, anh sẽ bị phạt ăn cơm nhạt và nhổ cỏ đớ”.
Nhắc chuyện người thiên cổ , ký ức trĩu nặng làm cho ông Hành vốn đã già càng già đi. Tôi hiểu, thời gian giành cho “pho” ký ức sống về Hàn Mặc Tử hiếm hoi còn lại này đã tính từng ngày. May có bà Thông, vợ ông còn khoẻ đôi phần, bà lại học được nghề bốc thuốc bắc để lo thuốc thang cho người bệnh và lo cơm cháo cho gia đình. Thì ra, chuyện thuốc thang, thăm hỏi bệnh tình đã gắn bó với gia đình ông Hành như là một “nghiệp dĩ”. Thảo nào, ngay từ hồi trẻ, ông đã từng chấp vi khuẩn Hansen, trên đường đến với Hàn Mặc Tử, trên đường về cõi thơ.

Nguồn: Kiến thức Ngày nay
1996. số 230. Ngày 10 tháng 12
===============================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:16:57)


Sức sống Hàn Mặc Tử



Nguyễn Thị Ngọ



Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.

Mấy câu thơ này không ứng vào đời Hàn Mặc Tử, bởi lẽ, sau khi qua đời, Hàn Mặc Tử đã trở thành đối tượng của thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật, tư liệu văn học kỳ này, xin giới thiệu cùng các bạn những điều có thể bạn chưa biết có liên quan đến Hàn Mặc Tử.

HÀN MẶC TỬ VÀ LÊ THƯƠNG

Với những ca khúc như Hòn Vọng Phu, Học sinh hành khúc, Thằng Cuội… nhạc sĩ Lê Thương đã trở nên bất tử trong âm nhạc Việt Nam hiện đại. Nhưng ít ai ngờ rằng, chính nhạc sĩ Lê Thương đã từng phổ thơ Hàn Mặc Tử . Đó là bài Kinh tụng sinh nhật (phổ từ bài thơ Ave Maria). Nhạc sĩ đã viết lời nói đầu như sau: “Cách đây chín năm, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã chết vì bệnh cùi trong một chòi lá quạnh quẽ tại Quy Hoà (Quy Nhơn). Bài Kính mừng bà Ave Maria) của thi sĩ là một lời than vãn tha thiết, gửi của báo Thế giới, xuất bản tại miền Nam năm 1949. Chúng tôi công bố ca khúc này để các bạn có thêm tư liệu về Hàn Mặc Tử.

HÀN MẶC TỬ TRONG NHẠC NHÀ THỜ

Ngay sau khi Hàn Mặc Tử qua đời, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận định: “Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho hàn Mặc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ đồng trinh Maria và chúa jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu thi ca Việt Nam thấy được một nguồn cảm hứng mới”. Nhận định này rất chính xác. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những nhạc sĩ trong Ca đoàn đã phổ thơ Hàn Mặc Tử. Tư liệu của chúng tôi đã có được hợp ca Ra đời của nhạc sĩ Hải Linh sáng tác năm 1972. Tập hợp ca này dày 16 trang, khổ 21x27cm, và đã được thu băng một giờ hợp ca số 1

HÀN MẶC TỬ TRONG TÂN NHẠC

“Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ông Hoàng đó thở nao chân Hàn mặc Tử đã qua. Ánh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng, tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương…” đó là lời trong ca khúc Hàn Mặc Tử của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Tác giả sáng tác vào năm 1967 tại miền Nam, kể lại cuộc đời bất hạnh của thi sĩ tài hoa bạc mệnh. Đã có một thời ca khúc này trở nên quen thuộc trong lòng khán giả ái mộ Hàn Mặc Tử.

HÀN MẶC TỬ TRONG KỊCH

Một người bệnh Ở Quy Hoà từ năm 1959 đã viết vở kịch Hàn Mặc Tử người đó là Đinh Xuân Hoà, tác giả đã bố trí khá chính xác căn phòng mà Hàn Mặc Tử đã dưỡng bệnh, ví dụ ở màn tư: Căn phòng nhỏ, vách bằng đất, quét vôi vàng, vừa đủ cho hai người nằm nhưng sạch sẽ như phòng bệnh ở các nhà thương khác, cửa sổ ở cuối phòng ngay chính giữa, nhìn ra một khu vườn có trồng cây, cửa ra vào ở hai bên. Một giường sắt không nệm. trải chiếu kê ở bên phải. Trên giường có mền, gối. Ở đầu giường có một tủ nhỏ, thấp, trên mặt tủ để chai nước, mấy ve thuốc, hộp bông gòn v.v…” Xin trích lớp X là đoạn cuối cùng để các bạn thưởng thức.
Lớp X
(Xê lùi lại để cho Mai Đình nhận ra Hàn Mặc Tử đang thơ hổn hển)
Mai Đình: (gọi thất thanh)… Anh! (chiếc va ly từ tay Mai Đình rơi xuống đất khiến quần áo và đồ nữ trang đổ tung toé. Mai Đình chạy lại lắc tay Hàn Mặc Tử, gọi) Anh!…Anh !… Em đây… Mai Đình đây… Tỉnh lại, Anh!
Hàn Mặc Tử: (mở mắt, giọng phều phào)- Mai Đình đấy à! Giờ phút này em còn nhớ đến anh ư!
Mai Đình:- Em vẫn nhớ đến anh và sẽ nhớ đến anh mãi mãi… Em đã thu xếp để lên đây ở với anh . Chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau nữa.
Hàn Mặc Tử: (Kiệt lực, giọng nói nhỏ dần)- Ồ! thế thì sung sướng cho anh quá ( thở hắt ra).
Mai Đình: (lo sợ) – Anh đừng bỏ em một mình tội nghiệp em!
(Hàn Mặc Tử ngả đầu, tắt thở).
Qui: (hốt hoảng) – Anh Trí chết rồi, anh Xê ơi!
Xê: (đau khổ) – Anh Trí! Anh Trí!
Mai Đình: ( gọi thất thanh) – Anh!… Anh!…(nước mắt giàn giụa, gục đầu vào Hàn Mặc Tử nức nở khóc)
(Màn từ từ hạ)

HÀN MẶC TỬ TRONG CẢI LƯƠNG

Soạn giả Viễn Châu và Thể Hà Vân đã soạn tuồng cải lương Chuyện tình hàn Mặc Tử. Tuồng này đã được thu audio và diễn nhiều lần trên sân khấu, truyền hình lẫn thu thanh. Ở tuồng này các tác giả đã khai thác hơi quá về cuộc tình của Hàn Mặc Tử. Xin mời các bạn đọc đoạn sơ lược của tác giả:
Sơ lược:
Ba năm về trước, Hàn Mặc Tử chưa nổi danh, còn mang tên Nguyễn Trọng Trí, làm thư ký tại Ty Công chánh Quy Nhơn, yêu Thu Cúc, con gái của ông chủ sự Phòng. Nhưng ông bà Tham (cha Thu Cúc) thấy Tử không có tương lai bèn từ chối lễ trầu cau khi Tử đem đến xin dạm hỏi và còn hẹn sau ba năm, khi Tử có sự nghiệp ông sẽ gả. Tử bị chạm tự ái, bỏ sở vào Sài Gòn làm báo và nổi danh với tên Hàn Mặc Tử.
Ba năm sau!!!

CHUYỆN TÌNH HÀN MẶC TỬ

Hàn Mặc Tử về Quy Nhơn để nhắc lại lời hẹn xưa thì Thu Cúc sắp có chồng, cùng hôm ấy Tử gặp Mộng Cầm tại nhà ông Tham. Mối tình chớm nở từ đó. Trong lúc Tử với Mộng Cầm sống tại Quy Nhơn, đêm nào cũng dìu nhau ra bãi biển làm thơ trao đổi tâm tình, thì tại nhà ông Phú (cậu của Tử) phải an ủi Mai Đình, cô gái láng riềng đã thầm thương trộm nhớ Tử hồi thơ ấu. Cũng tại đây thêm một người tình thứ ba nữa chen vào, người đó đau đớn thay lại là dì ruột của Mộng Cầm với cái tên Hồng Sương.
Tử ở giữa ngã ba đường tình cảm. Không thể giải quyết nổi sự tranh giành một trái tim, Tử đã âm thầm lấy vé xe lửa vào Sài Gòn ngay đêm đó. Để lại sự ngỡ ngàng cho những người tình ở lại.
Thế rồi định mệnh khắc khe, Tử mang chứng bệnh phong cùi, vào giờ phút cuối của cuộc đời đi vào tàn phế. Tử đã gặp đông đủ những khuôn mặt tình yêu. Nhưng người chấp nhận được sự đau đớn của Tử lại là Mai Đình, Người con gái đã bị thiệt thòi hồi Tử còn lành mạnh.
Tưởng đó cũng là sự đền bù xứng đáng vậy.
Thế nhưng phải thừa nhận rằng, trong tuồng này có nhiều câu vọng cổ rất hay. Xin mời các bạn tưởng thưởng sáu câu mùi mẫn:
M. Tử: Mộng Cầm ơi, nếu sợ tiếng từ ly thì hãy về đi cho anh gói tròn thân phận, trọn cuộc đời anh đã mang nhiều cay đắng, nên cũng chẳng muốn chở tình ai cho nặng gánh…
VỌNG CỔ
1… Phiêu bồng, Mộng Cầm ơi có phải đêm nay mười sáu trăng tròn- ai sẽ thay anh làm thơ ca tụng, nhắc nhở tình mình qua mấy mùa trăng, trăng không còn là trăng của tình duyên, mà treo chơi vơi trên bờ liễu rũ. Thắm lạnh vào hồn sương đêm nhỏ giọt trên mái tóc xanh cô gái tuổi xuân thì.
M.Cầm: (dặm) - Suối tóc tương tư theo đường trăng vàng úa, thành bờ cát dài đưa lối đến tình yêu. Đâu cả rồi những kỷ niệm đầu tiên, hãy cho em nghe lại một vần thu sầu muộn.
M.Tử: 4 … Lần sau chót anh đưa em ngược về dĩ vãng, để đừng đón tương lai vì chẳng đến bao giờ-(dặm luôn) – Thôi thì những bài thơ đã làm tặng riêng em đó, xin hãy coi như di vật cuối cùng anh để lại cho em.
M.Cầm: 3… Hàn Mặc Tử. Anh hết thương em rồi sao. Ai cấm được tình yêu qua vần thơ còn căng nhựa sống? Em còn đây, anh còn đó, trăng chưa sầu, liễu chưa rũ, tóc còn mềm như mạch suối yêu đương. Như thuở nào ngồi đợi trăng lên, trên bãi vắng anh ru em vào giấc mộng. Mộng chưa tàn mà sao anh bỏ trốn, để em một mình ngơ ngác nẻo trần gian, kéo gọi tên anh cho mờ đôi mắt lệ, trăng vẫn còn soi, em lại ngỡ trăng tàn…

“ĂN THEO” HÀN MẶC TỬ

Rõ ràng, tên tuổi Hàn Mặc Tử đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tạo nghệ thuật. Ngay sau khi Hàn Mặc Tử qua đời và đến nay đã có khá nhiều sách viết về cuộc đời bất hạnh nhưng tài hoa của ông hầu hết các bạn đều biết nên chúng tôi không đề cập đến nữa. Nhưng cũng xin cung cấp cho các bạn một tư liệu khá tiêu biểu cho chuyện “ăn theo” tên tuổi của ông. Đó là “Qũy bảo trợ mang tên Hàn Mặc Tử”. Gia đình Hàn Mặc Tử hay bạn bè Hàn Mặc Tử đứng ra tổ chức? Không ! Đây là một nhóm người nào đó đã tùy tiện mượn tên tuổi của ông, nhưng chưa được phép của bất cứ cơ quan Nhà nước nào .
Chúng tôi xin nêu lên để các bạn thấy được sức sống của tên tuổi Hàn Mặc Tử. May thay! Qũy bảo trợ trái phép này đã… đóng cửa rồi! Thiết nghĩ, nêu lên sự việc này cũng không thừa nhằm tránh những sự lợi dụng về sau đối với Hàn Mặc Tử và cũng nhân đây xin cung cấp các bạn mẫu quảng cáo về tập thơ Hàn Mặc Tử được in sau khi ông qua đời.


Nguồn:
Văn hoá Văn nghệ Công an
1996 . Số 12
===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:18:43)


Người viết tiếp Quần Tiên Hội của Hàn Mặc Tử



Tô Kiều Ngân


Như nhiều người đã biết, Hàn Mặc Tử qua đời để lại một tác phẩm dang dở, đó là kịch thơ Quần Tiên Hội mà ông mới viết được 41 câu. Cùng với 41 câu đó là một bản đề cương vở kịch mà nhà phê bình Trần Thanh Mai đã công bố trong cuốn sách của ông viết về cuộc đời và sự nghiệp của Hàn (1941). Theo đó thì Quần Tiên Hội chỉ mới xong hồi I, hồi II. Ba hồi nữa, năm mươi năm sau mới được thành hình mà lại do một tác giả khác. Tác giả đó là nhà thơ Đơn Phương, tên thật là Trần Hồng Phương, sinh năm 1945 tại Hóc Môn (Nam Bộ). Điều đặc biệt là Đơn Phương cũng mắc bệnh phong cùi như Hàn Mặc Tử, phải vào nằm hẳn trong trại cùi Bến Sắn từ năm 1960. Ở đây gặp ông Nguyễn Văn Xê là người bạn của Hàn Mặc Tử hồi hai người còn ở chung với nhau tại trại hủi Quy Hòa. Ở trại cùi BẾN SẮN, Đơn Phương kết thân với một số người đồng bệnh cũng ham thích thơ văn như ông và họ đã coi việc sábg tác thơ văn là nguồn an ủi nhiệm mầu đối với những người không may bị vi trùng Hansen tàn phá cơ thể. Đơn Phương có thơ đăng trên các báo tại Sài Gòn từ năm 1967; năm 1971, ông cho ra đời tập thơ Thương Quê, được nhà văn Sơn Nam và nhà thơ Kiên Giang ân cần giới thiệu.
Đã là thi nhân, lại mắc bệnh phong cùi thì việc say mê thơ Hàn Mặc Tử là điều dễ hiểu, nên từ năm 1972, Đơn Phương nẩy ra ý định viết tiếp vở kịch thơ mà Hàn Mặc Tử bỏ dở dang. Trong một chiếc chòi nhỏ lợp lá, trông ra bờ sông Thủ Thiêm, thuộc phạm vi trại an dưỡng Thanh Bình của những người bị bệnh cùi ở khu An Khánh, bàn tay cụt ngón của ông đã miệt mài làm việc. Trên cơ sở 41 câu thơ di cảo của Hàn Mặc Tử và bản đề cương còn lại, ông đã khai triển thành 195 câu, rồi 526 câu. Trải qua các bước sơ thảo, phát triển, cuối cùng Đơn Phương đã hoàn thành kịch bản vào năm 1988 với 700 câu, được phân thành 5 hồi, với 10 nhân vật là: Thi sĩ, Thương Thương, Hoa Khôi, Nguyệt Tiên, Thiềm Tiên, Lan Tiên, Tiên Tiên, Hồng Tiên, Đào Tiên, Cúc Tiên cùng một số lời chim tiếng vượn như: Chim Bạch Hạc, Anh Võ, Hoạ Mi, Vượn I, Vượn II và tiếng hợp xướng, đơn xướng của vạn loài, tinh tú, rừng tùng, không gian, tiếng tiêu, tiếng suối, lời trăng, lời sao, lời gió… Bản thảo của Đơn Phương được tác giả trao cho học giả Võ Long Tê là người chuyên nghiên cứu về Hàn Mặc Tử. Được ông Võ khuyến khích và giúp đỡ ý kiến về kịch thuật. Đơn Phương đã hoàn chỉnh tác phẩm và năm 1991 kịch thơ Quần Tiên Hội được nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh in ra.
Theo tôi, tuy là đồng bệnh và đồng nghiệp với Hàn Mặc Tử, Đơn Phương hẳn phải tạo cho mình một bản sắc thi ca riêng biệt; điều đó có thể nào ta sẽ tìm hiểu trong một dịp khác. Ở đây, vì là tiếp nối công trình của Hàn Mặc Tử, nên lời thơ và phong cách của Đơn Phương đã rất ăn ý, nhịp nhàng với không khí “Quần Tiên Hội” của người xướng xuất, điều đó tưởng cũng là một điểm son, không có tài dễ gì thể hiện:

“Được tin tiên nữ về trần
Đám Tiên Trai ấy khóc gần trắng đêm
Lệ rơi, chảy ướt cung thiềm
Rủ nhau bỏ động đi tìm tình yêu
…Tình yêu là trái gì ngon?
Mà sao tiên cả, tiên non cũng tìm
Không gian vắng lặng đường chim
Cung thương, dạ khúc biết tìm đâu ra!
… Mi ơi! Mi ơi! Mi ơi! Mi!
Gẫm mãi không ra sự diệu kỳ!
Coi sót gì không trong gió thẳm?
Xem thơ còn rớt dấu chân đi?”

Tập kịch thơ, có thể nói là công trình tim óccủa một nhà thơ tật nguyền, ra đời đã 5 năm, tiếc thay đã chìm mất, không gây một tiếng vang nào giữa cái chợ thơ hỗn độn, xô bồ hiện nay. Nó cũng giống nhiều tập thơ khác, in ra là để tặng bạn bè, may mắn lắm thì được một dòng giới thiệu trên một tờ báo nào đó, thậm chí thơ có in ra mà không ai biết đến! thơ đăng báo và thơ xuất bản thành tập càng lúc càng trở nên quá tải do đó, gây được một tiếng vang cũng không phải là một chuyện dễ. Đối với Quần Tiên Hội của Đơn Phương, chúng tôi nghĩ rằng: hãy khoan nói đến chuyện thơ hay hay dở, chỉ nghĩ đến một hình ảnh một người mắc bệnh nan y, ngồi trong cái chòi nhỏ trông ra bờ sông cô quạnh, cố gắng kẹp cây bút bằng những ngón tay cùi cụt để chép đi, chép lại những vần thơ, điều đó cũng để cho chúng ta thương cảm và trân trọng. Giá như được phép có một lời khuyên, xin khuyên Đơn Phương: Trên đầu sách, cứ mạnh dạn đề một tên Đơn Phương mà thôi, bên dưới chú thêm là viết tiếp kịch Quần Tiên Hội theo đề cương của Hàn Mặc Tử là được. Khỏi cần đề hai tên Hàn Mặc Tử - Đơn Phương như đã làm, sợ có người hiểu nhầm chăng?


Nguồn: Thanh niên Bán nguyệt san
1997, Ngày 15 tháng 7. số 81
==================================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:20:00)


Đôi nét về hai tượng chân dung của Hàn Mặc Tử



Phạm Xuân Tuyển


Đầu năm 1973, ông Phạm Minh Công – Giám đốc trường Nguyễn Bá Tòng – Gia Định (nay là trường Hoàng Hoa Thám - quận Bình Thạnh - TP Hồ Chí Minh) đã cho đắp đặt trong công viên của nhà trường một tượng bán thân chân dung nhà thơ Hàn Mặc Tử (HMT). Trải qua gần một phần tư thế kỷ, nay tượng HMT vẫn còn được lưu giữ, đặt trang trọng ở một công viên ở quận Bình Thạnh –TP. HCM.
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của chủ nhân tượng HMT, kẻ viết bài này “sung sướng” đọc được những dòng từ thủ bút. Cảm nghĩ của người đắp tượng thi sĩ Hàn Mặc Tử… Tượng HMT có di ảnh. Ông mất đi giữa tuổi thanh xuân, dù căn bệnh nan y cũng không làm mất đi những nét tinh anh như mắt sáng, trán rộng, hình dung tìêm ẩn một bộ óc nghệ thuật siêu việt… Dù có hai ba di ảnh để trước mặt nhưng tôi hằng nương theo tư tưởng tâm phục tài nghệ của ông và tôi quyết định “Đắp bộ” phải nhanh nhạy mà thật hơn hết… Thi sĩ, xin phù hộ cho những người hằng ngưỡng mộ ông…(ký tên) Thi, Họa sĩ Vĩ Nhuế Lê Đằng Giao”.

Ngày chủ nhật 17-8-1997, tôi vô cùng cảm động khi được tiếp kiến cả người thiết kế lẫn người thực hiện công viên và tượng HMT năm 1973. Trong hơn một giờ tìm hiểu, tôi được biết vị giám đốc trường Nguyễn Bá Tòng năm xưa cũng chính là chủ nhân công viên có tượng HMT hiện nay và cũng là người thường giúp đỡ những người đồng bệnh với HMT ở các trại phong gần xa trong nước. Và tôi cũng được biết thêm “tiểu sử nghề nghiệp” của người đắp tượng HMT: Cụ sinh năm 1920 tại Vĩ Nhuế- phủ Nghĩa Hưng - tỉnh Nam Định; tốt nghiệp trường Mỹ thuật Gia Định năm 1958 và tốt nghiệp cử nhân văn chương Đại học Sài Gòn 1973; làm giáo sư, giảng viên môn phỏng họa, trang trí, lý luận mỹ thuật từ năm 1962 đến năm 1978 của các trường quốc gia cao đẳng mỹ thuật, trang trí mỹ thuật Gia Định, 2 trường Nguyễn Bá Tòng I và II. Taberd, Pétrus Ký, Nguyễn Tường Tộ… và từng tham gia triển lãm chung các năm 1965 – 1966…
Ở Bình Định – Quê hương của Hàn Mặc Tử, những tháng cuối năm 1994, Hội Văn học nghệ thuật và ban giám dốc khu điều trị Phong Quy Hòa đã mời họa sĩ điêu khắc gia Âu Như Thụy của Hội nghệ sĩ tạo hình TP. Hồ Chí Minh làm tượng Nhà thơ Hàn Mặc Tử để đặt tại phòng lưu niệm (tức nơi phòng thi sĩ trút hơi thở cuối cùng) ở Quy Hoà nhân 54 năm ngày mất của ông.

Sau lễ khánh thành tượng Hàn Mặc Tử tại Quy Hoà 3 ngày. Họ sĩ Âu Như Thụy đã tử nại tại đèo cả ngày 14 tháng 11 năm 1994, hưởng dương 57 tuổi. Được biết nhà làm tượng xấu số cũng đã tốt nghiệp tại trường Mỹ thuật Gia Định và lúc mất là hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình TP.HCM, tuy gia đình đang cư trú ở Đà Lạt.
Tôi tưởng ở đây cũng tiện ghi lại những câu trả lời rất đáng ghi nhớ của Âu Như thụy, khi được ông Trần Xuân Toàn, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đai học sư phạm Quy Nhơn phỏng vấn: “Anh dựa vào đâu để tạc tượng Hàn?” – “ vào tấm hình duy nhất 4x6 mà bệnh viện cung cấp và những bức vẽ về Hàn, vào phác thảo của Tạ Ty, nhưng cái chính vẫn là cái hồn nghệ sĩ của tôi đã cộng cảm với hồn thơ đau thương của Hàn, tay cầm quyển vở và cây viết, đang ngồi đăm chiêu, sáng tạo một tượng cao 1,5 – 1,8m. Tôi mê Hàn từ nhỏ, đây là dịp tôi thể hiện tình yêu đó với Hàn, với cả bệnh viện ngày nào Hàn chữa bệnh và với Quy Nhơn này!” (Theo báo tuổi trẻ thứ ba ngày 15 tháng 11 năm 1994).

Xin kính thắp nén hương 57 năm ngày mất của Hàn Mặc Tử. Và một nén hương cho người đắp tượng Hàn thi sĩ là hoạ sĩ quá cố họ Âu nhân lễ đoạn tang 3 năm cùng lời chúc sống thượng thọ bát tuần cho cụ Vỹ Nhuế.

Nguồn:
Bình Định, 1997. Ngày 8 tháng 11
===============================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:21:44)


Hàn Mặc Tử và
những nhà thơ trường Quốc Học Quy Nhơn



Phạm Hổ


Nhân dịp kỷ niệm 84 năm ngày sinh của nhà thơ (22 - 9 – 1912 – 1996) và kỷ niệm 70 năm ngày ra đời Trường Quốc học Quy Nhơn (15-9-1926 – 1996) tôi xin có đôi điều muốn trao đổi với bạn đọc về Hàn Mặc Tử và những nhà thơ cùng học trường Quốc học Quy Nhơn trước kia với ông.
Theo tôi, thơ Hàn Mặc Tử gồm có ba mảng lớn.
-Mảng viết cho các thể thơ cũ (chủ yếu là thơ Đường) về đất nước, truyền thống, tình bạn… như Cửa sổ đêm khuya, Buồn thu, Cây đàn nguyệt, Gái ở chùa v.v…
- Mảng viết theo thể thơ mới về cuộc sống hàng ngày, những cô gái quê, những người lao động,.. như: Em lấy chồng, Mùa xuân chín, Tình quê, Bẽn lẽn, Đây thôn Vĩ Dạ v.v…
- Mảng viết về những nỗi đau khổ đến tột cùng của tác giả từ khi lâm bệnh hiểm nghèo và tình yêu bị dang dở như: Những giọt lệ, Rụng rời, Trường Tương tư, Hồn là ai? Biển hồn ta, Phan Thiết! Phan Thiết v.v…
Đọc lại nhiều bài trong ba mảng thơ lớn trên đây tôi bỗng cảm nhận thêm được vài điều mới lạ.
Trước đây, đọc bài Em lấy chồng, tôi cũng thấy nó hay hay:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mõm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ

Nhưng lần này, khi tôi tự đặt ra câu hỏi: cái hồn thơ của anh hình dáng nó ra sao? Thả lên trời (như diều) hay thả xuống nước (như thuyền)? Tôi bỗng bắt gặp được tâm hồn của tác giả… Đây là một phản ứng về một tâm hồn. Thả vậy thôi chứ rồi anh lại kéo xuống, với lên…anh làm sao bỏ làm thơ được!
Cũng như trong câu thơ thiên tài này:

Áo em trắng quá nhìn không ra

Nếu chúng ta cùng hỏi vặn: nhìn không ra ai? Chúng ta sẽ có thể trả lời ngay là
Nhìn không ra em, nhưng ngắm kỹ hơn một chút nữa, chúng ta lại thấy nhìn ra cả anh nữa. Vì em đẹp quá làm anh sững sốt, bàng hoàng, và anh như không còn là anh trước đó. Câu thơ cũng giúp ta hiểu sâu hơn thế nào là cái đẹp. Cái đẹp thường không bao giờ lộ hết ra, mà luôn cất giữ trong mình một cái gì bí ẩn …
Hoặc như hai câu thơ kết thúc bài Mùa xuân chín:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Lần này đọc lại tôi mới chợt thấy: Chính nhờ sự để lửng lơ không rõ Chị ấy là ai, gánh thóc đi đâu ? làm gì? Mà dư âm của bài thơ cứ vang lên nhẹ nhàng rồi toả lan ra rất xa, rất xa…
Hình ảnh thơ thoát đọc lên nghe rất đẹp nhưng đọc lại thấy rất buồn, buồn một nỗi mênh mông như dòng sông trắng, như bầu trời nắng chang chang. Đọc đi đọc lại thấy muốn chảy nước mắt. Mà vẫn không hiểu hết vì sao…
Thơ hay thường dễ giúp người đọc hiểu được tác giả. Hàn Mặc Tử có một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên đến lạ lùng. Không phải chỉ hồn nhiên lúc còn trẻ mà về cuối đời trong hoàn cảnh bệnh hoạn ngặt nghèo, tình duyên vỡ lỡ, anh vẫn thế Đây thôn Vĩ Dạ! được viết khoảng một năm trước ngày anh mất. Còn bài trăng vàng trăng ngọc là anh viết trong thời gian anh phải sống lần lũi trong căn lều rách nát ở giữa xóm Động, cái nóng vây quanh.
Hàn Mặc Tử hồn nhiên nhưng lại là người say mê sâu sắc. Anh có thể yêu một người chỉ thấy trong ảnh (Ngọc Sương) hoặc chưa bao giờ gặp mặt (Thương Thương) yêu đến mức viết không biết bao nhiêu là thơ với nàng…Song người mà Hàn Mặc Tử yêu nhất, say đắm nhất là Mộng Cầm. Mai Đình thì nhà thơ cũng quý cũng thương nhưng có lẽ chỉ đến vậy. Tôi có chú ý một chi tiết này: Sau khi tình yêu giữa hai người (Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm ) bị tan vỡ, Hàn Mặc Tử cũng có lúc nhắc đến Mộng Cầm nhưng dưới một cái tên khác. Mặc dù tên gì thì nó cũng mang âm hưởng hai tiếng Mộng Cầm nghĩa là một chữ dấu nặng và một chữ dấu huyền. Phượng Trì, Lệ Kiều v,v,.. Như thế có thể xem như con người của Mộng Cầm đã nhập vào hồn anh còn gì nữa!
Say mê trong tình yêu, say mê trong sáng tác, ban đầu hai yếu tố này đã cùng nhau hổ trợ cho anh trong cuộc sống. Nhưng từ khi anh gặp phải tai biến về cả hai phía thì cả hai yếu tố đó tưởng như có thể đối lập nhau. Thế mà Hàn Mặc Tử đã có đủ nghị lực để giải quyết tốt. Anh lấy cái đau khổ để làm chính cái chỗ dựa cho thơ anh Anh vẫn làm thơ và nhờ vậy mà chỉ trong 6 năm đã để lại một sự nghiệp lớn.
Là một con người, đau khổ quá, Hàn Mặc Tử cũng khóc, nhưng khóc mà không cho ai biết.
Khóc một chắc (một mình) có ai vô mà biết! hoặc khóc cho chính mình nghe:

Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ ló, trong dãy đông
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng

Trong suốt bao nhiêu năm đau khổ ê chề, anh không bao giờ có ý nghĩ tự tử. Anh Yến Lan đã quả quyết nói như vậy. Và câu thơ này đã chứng minh câu nói của Yến Lan là đúng:
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi !

Bao giờ tôi chết đi thì rõ ràng là một cái chết bình thường như mọi người. Có người hỏi. Hàn Mặc Tử tìm đâu ra sức mạnh để vượt qua những nỗi đau?
Có thể câu thơ tiếp theo câu thơ trên, đã phần nào trả lời được chăng ?

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Chắc là đúng như vậy! Chính sự yêu vì của tất cả những con người mà Hàn Mặc Tử đã gặp, đã sống đã có một sức an ủi, động viên lớn đối với anh.
Nhưng bên cạnh những con người, qua thơ Hàn Mặc Tử tôi còn thấy có một yếu tố nữa: Thiên nhiên; Vũ trụ, trăng sao, mây, gió… Với anh, con người và vũ trụ luôn sống bên nhau, vui buồn cùng chia sẻ! “Cho em buồn, Trời đất úa sương khuya” và không một nhà thơ nào trên thế giới viết nhiều về trăng, lạ lùng về trăng như anh.
Cuối cùng là Đạo của anh. Điều ấy không thể khác. Có điều là trong thơ Hàn Mặc Tử tôi thấy có đủ cả Đức Chúa trời và Phật, Thiên Đảng và Niết bản Đức Mẹ Maria và bà Tây Vương Mẫu các thiên thần và các nhân vật Liêu Trai v.v…
Có thể nói tâm hồn của Hàn Mặc Tử phóng khoáng đến mức lạ kỳ.
Trong ba mảng thơ lớn của Hàn Mặc Tử, hình như từ trước đến nay, hai mảng trên được nhiều người nhắc đến, thuộc hơn. Nhưng đọc kỹ lần này, tôi thấy mảng thơ thứ ba của nhà thơ cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Qua nhiều bài thơ trong mảng đó, Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ nói về nỗi đau của con người sâu sắc nhất.
Trong những bài thơ ấy, nỗi đau về thể xác và nỗi đau về tình cảm (tâm hồn) đều được Hàn Mặc Tử miêu tả đến:

Thịt da tôi, sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Khá rõ ràng là qua các bài thơ đau, tôi thấy Hàn Mặc Tử đau khổ về tình cảm tâm hồn hơn là về thể xác. Điều đó thật dễ hiểu. Tôi còn chú ý là tên các bài thơ, trong các bài thơ rất nhiều chữ hồn, xuất hiện. Tôi có cảm giác như trong những cơn đau xé lòng, anh như thấy cái hồn của anh đã tách ra cho anh thấy được những nỗi đau của mình rõ hơn. Có lẽ vì thế mà trong Hồn ai là ? anh đã kết thúc bằng hai câu

Dẫu hồn đi ròng rã đêm nay
Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc

Chết giấc (phần thể xác) thì không còn cảm thấy gì nữa. Nhưng mệt lả (phần tâm hồn) thì vẫn tiếp tục cảm giác, tiếp tục đau.
Và giúp cho con người thấy được, hiểu được thế nào là nỗi đau, nhắc con người đừng có bao giờ gây nên nỗi đau khổ cho người khác nhất là về mặt tâm hồn, đó cũng là một thu hoạch mà tôi rất trân trọng trong lần đôc này, về thơ Hàn Mặc Tử, cuộc đời Hàn Mặc Tử…
Cuối cùng theo sự đánh giá của Chế Lan Viên và nhiều người khác. Hàn Mặc Tử là ngôi sao sáng nhất trong các ngôi sao của trường thơ Mới Bình Định. Nhóm Tú Linh; Long, Ly, Quy, Phượng đã tôn anh làm rồng (Long), anh Yến Lan là lân (Ly), anh Quách Tấn là rùa (Quy) và Chế Lan Viên là Phượng (Phụng), nhóm thơ này đã có những sinh hoạt đặc biệt: cùng rủ nhau ra ngủ biển, đọc thơ và trao đổi về thơ, đến thăm lều Hàn Mặc Tử ở xóm Động và bàn nhau về tên một tập thơ sắp ra của nhóm v.v…Cạnh đó còn có các nhà thơ khác như: Phạm Văn Ký, Xuân Diệu, Xuân Sanh (trước cách mạng) và Nguyễn Viết Lãm, Vương Linh, Giang Nam, Phạm Hổ (trong cách mạng kháng chiến). Cũng hay là Phạm Văn Ký đề tựa “Gái Quê” cho Hàn mặc Tử. Trong kháng chiến chống Mỹ lại đề tua cho “Quê Hương” của Giang Nam.
Truyền thống về thơ của trường Quốc học là như vậy đó. Bao giờ mới có những Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên của những thế kỷ sau ? Đó là nhiệm vụ và vinh dự của trường Quốc học Quy Nhơn ngày nay.


Nguồn: Văn nghệ
1996. Ngày 21 tháng 9 (số 38)
====================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:25:24)


Hàn Mặc Tử thi sĩ đồng trinh
-


Tiểu thuyết tư liệu (trích)



Tác giả: Nguyễn Thụy Kha


XII
TINH HUYẾT

Có thể nào quên được
Câu thơ buồn vương cây ngô đồng
N.T.K

Bích Khê lội bộ từ núi Ấn về tới nhà thì nhận được thư Trí và bài tựa cho tập “Tinh huyết”. Chàng mừng quá, xé ngay thư xem. Và cứ thế, nước mắt ứa ra làm nhoè những con chữ thân thuộc của Trí.

Lần rồi ghé Quy Nhơn thăm Trí, Bích Khê thấy Trí sa suốt qúa. Mình đau khổ có kém gì Trí, nhưng hình như ở bên nhau, an ủi nhau cũng làm vơi được chút ít sự xót xa trong nhau. Ba bài thơ “Thi tứ”, “Anh ấy” và “Thời gian” của Bích Khê được Trí khen là tài và tình hoà hợp một cách song toàn, rung cảm người đọc đến da diết, tê mê. Bữa ấy, thương Trí, dù biết Trí đã từng yêu Mộng Cầm – là bậc cháu, Bích Khê vẫn tặng Trí tấm ảnh chàng chụp chung với chị Ngọc Sương. Ý ngầm của Bích Khê là muốn hình ảnh của chị Ngọc Sương sẽ gây mộng cho Trí nguôi ngoai bớt u sầu. Quả nhiên Trí đã làm thơ gửi cho Bích Khê.

Ta đề chữ ngọc trên tàu chuối
Sương ở cung Thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắm phải môi.

Bích Khê xem xong vui mừng nhưng giấu chị. Chàng đã thành công trong một kế “bá đạo” thuộc tình cảm. Chắc chắn Trí lại hồi hộp, lại mong chờ, lại mộng mị.Và vì thế mà có thể, quên bớt tật nguyền.
Khoái chí vì được Trí khen thơ Bích Khê đã tập hợp thành một tập gửi cho Trí, thì Trí gửi trả lại và chê qúa kém, nhiều lời phê bình rất nặng nề. Bích Khê giận run người, xé nát tập thơ và viết cho Trí một câu thề: “ Trong 6 tháng tới sẽ trở thành một thi sĩ phi thường. Bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa”. Cú Huých của Trí thật công hiệu. Chỉ ba tháng sau Trí đã nhận được tập thơ “viết bằng máu huyết tinh túy và châu lệ và tất cả say sưa đắm đuối của một hồn thi sĩ”. Đấy! Trong thư Trí viết cho Bích Khê là Trí đã mừng ứa nước mắt, nằm ôm tập thơ suốt một buổi chiều sau khi đọc xong. Trí gọi tập “Tinh huyết” của Bích Khê là “Một bông lạ nở hương, một thứ hương qúy trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc! Một đoá hoa thần dị. Lòng Bích Khê như tê dại đi trước những con chữ của Trí : “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì thực sự sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu...” Trời ơi! Bích Khê chỉ muốn băng ngay khoảng cách xa giữa đất Thu Xà khô quạnh này tới túp lều tranh bên bờ biển của Trí để cùng được chia sẻ những gì Trí dành cho Bích Khê. Những con chữ của Trí như có thần linh đang xô chạy vào mắt Bích Khê.

“… Ở Sọ người cũng như ở Tranh loã thể, sự trần truồng dâm đảng đã nhường lại cho ý vị nên thơ, của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ.

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ
Ô tiên nương nàng lại ngự nơi này
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm?
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương, hay nhan sắc lên hương
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi

Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả song nghê thường đường nao nao gợn và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc y huyền xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ.

Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền điệu cám dỗ được ngũ quan của người trần…

Sự say mê, tìm kiếm những nguồi hoan lạc vô biên, đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của huyền diệu. Ở đây, sự mường tượng của thi nhân lại dồi dào hơn nữa, người ta chỉ gặp toàn âm thanh đương ngã ngớn, với muôn thứ xạ hương bay lẳng lơ trong lòng ngực, trong khi đó hằng hà sa số là ánh hào quang va vào hồn hoa, chạm nhằm không khí lạ, không có sự say đắm nào ở phương xa, hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến đây để xum vầy, gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ, mùa trăng bát ngát.

Ở địa hạt huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Vì bởi mê man với sự “nhẹ nhàng, nhịp nhàng thơ đều trong sương”, thi nhân đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình, diễm ảo, và nhạc lúc bấy giờ cũng không là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẫy hay âm thầm nức nở, lanh lãnh như giọng cười, mơn man như ân tình dò hỏi:

…Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung thương
Tôi không bao giờ tôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông!

Đây là cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm hưởng, buồn nào, buồn nề:

Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông!

Thi nhân kéo ta đi lướt thướt trong cõi u hoài, đằm thắm từ những bản đàn xôn xao hồi hộp như Tỳ Bà, Mộng Cầm Ca, Hoàng Hoa, sang qua thế giới hào qung, gây cho ta nghe một điệu nhạc hiền hoà và ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng:

Ô nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc
Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm.
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương
Màu trăng không gian như gờn gợn song
Từ ở phương mô nhạn mang thơ về
Đàn thơ cơ hồ lên cung ân điệu
Đây dây trinh bạch khóc mướt trong mơ
Dây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
Ô cõi lầu mây ánh gì kim cương
Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường
Thơ bay, thơ bay vô bàn tay nghề
Thơ ngà ngà say thơ ngà ngà say
Nàng ơi đừng động có nhạc trong dây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động
Ô nàng tiên nương hớp nhạc đầy hương
Đây là một lối sáng tạo, bỏ vần ở chữ thứ tư (vần giữa) ta đọc đến những câu:

… Nhẹ nhàng nhịp nhàng thở đều trong sương
… Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
… Thơ ngà ngà sday thơ ngà ngà say
… Ô nàng tiên nương - hớp nhạc đầy hương

Phải chăng ta nhận thấy sóng âm thanh xao gợn, nổi trôi, lên xuống như muôn hoa lá bị cơn gió lùa. Lời thơ rất thanh: ngào ngạt như tình ý say sưa, mát mẻ phổi ta, tim ta, hồn ta nở nang ra, háo hức một lương duyên kỳ ngộ.

Tác giả khéo dùng hơi và hạ vận ở chữ thứ tư làm cho câu thơ nửa như riêng tây, nửa như thuận hòa…

Chưa hết đâu, thi sĩ Bích Khê vốn là tay sành âm nhạc, đã nghe quen tai những bản nhạc tây như Valse, Menuet, Sérénahe, Marahe… đã từng lĩnh hội và thiệp liệp đến thể cách của văn thơ Thái tây, nên am hiểu một cách thông minh những lối sáng kiến từ điệu. Và đây là một đoạn thu phảng phất như âm điệu bài “Re versibilité” và “Harmonie du soir” của Baudelaire hay bài “Féerie” của Valéry:

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ
Chân nhịp nhàng lắng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trăng mơ

Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới huyền điệu. Còn một nửa khác phải là màu sắc phương phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ của một trời lưu ly, mã nảo, trân châu. Hình như, đã lâu lắm chàng thi nhấnc cái ý niệm bao quát, tân kỳ, đem mình ví với một thiên tượng luôn ấp ủ những khói mây huyền ảo.

Màu sắc như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây đều gồm có hai tính cách:

- Màu sắc cụ tượng
- Màu sắc trừu tượng

Màu sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó, như gấm, như hoa, mà ta sờ được, nắm được với đôi tay, còn màu sắc trừu tượng là thứ gì nửa thực nửa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ được nó. Ví dụ: Ánh sáng, hương thơm, nhạc vui, không gian, thanh khí…

Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của một kẻ siêu phàm, thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó. Với màu sắc trừu tượng, thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ tượng? Nghĩa là có thể nắm được một nạm hào quang, lùa không gian vào vạt áo, dồn kinh cầu nguyện về phương Nam, cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là.

Bắt cái vô hình trở thành hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa.

Đây là nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là thiên tài.
Bích Khê đã tỏ cho chúng ta thấy chàng xứng đáng với hai chữ thiên tài ấy;

Ôi cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm
Một bàn chân ve vuốt một bàn chân
Mát làm sao, mát rượi cả châu chân
Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực
Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bậc

Bên những chữ cụ tượng như cặp mắt, bàn chân, châu thân, ngực, thớ thịt rất tầm thường không gợi cho ta được một sự rung động tân kỳ nào cả mà thi sĩ đã khéo đưa chúng ta một nguồn cảm giác tinh thần khiến đôi mắt ngời sắc kiếm, bàn chân được ve vuốt, châu thân mát rợn lên và thớ thịt lại có đàn lên cung bực:
Và đây là những màu sắc, màu nhiệm mà trí người thường không tạo ra được:

Lầu ai gánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ
Không gian xà cừ hay san hô

Bích Khê lững thững đi. Chàng đã tới rặng dừa bên Cổ Lũy Cô Thôn lúc nào không hay. Trong tâm trí chàng còn đang rối bời những con chữ mà Trí đã trao cho tập “Tinh huyết” của chàng. Gió ùa lên Đồng mía xào xạt như lay gọi. Chiều ở phía cửa sông Trà thật buồn. Phía xa, núi Ấn như một con dấu khổng lồ đóng xuống sông Trà. Cũng phía xa bên này sông, núi Bút như đang viết lên trời mây những câu thơ rớm máu của một thời loạn ly gươm dáo.
Không hiểu sao, Bích Khê chợt nhớ Hà Nội, cái quán nước ở đầu ngõ Cẩm Chỉ và những bóng dáng sĩ Bắc Hà. Chắc Trí sẽ chẳng bao giờ biết đến Hà Nội được nữa. Trí có lẽ là một thi sĩ lớn khác nhiều thi sĩ đương thời là ở chỗ đó. Cũng lạ…

XIII

RA ĐỜI

… Một ngọn núi vô cùng
Mùa xuân đông chín lại
N.T.K

Tháng 6 năm 1939. Mùa hạ Quy Nhơn oi nồng. Mãi cuối chiều mới thấy gió mát từ biển trào vào. Bệnh tật làm Trí gầy hẳn. Chỉ có đôi con mắt còn linh hoạt như chưa đau yếu gì. Lá thư của Trọng Miên từ Sài Gòn gửi ra khiến Trí nghĩ ngợi mấy bữa nay. Thế nào nhà thơ? Đó là câu hỏi ngàn đời nay. Và chắc là còn hỏi mãi không thôi. Nhưng rõ ràng là mỗi người làm thơ đều có một quan niệm của mình. Trí lại nghĩ đến Bô-Đờ-le. Dù sao cái ảnh hưởng của “Mặt trời thi ca” này quả là không nhỏ. Nhưng thi ca Pháp không thể làm mất bản sắc Việt Nam. Những mô phỏng kiểu vẹt lập tức bị đào thải. Riêng Trí, Trí cảm thấy mình đã vươn tới một cái gì khác lạ hơn. Một cái gì lấp lánh đằng sau Thánh kinh, Trí quyết định viết thư trả lời Trọng Miên.

Quy Nhơn, Juin 1939
Miên thân mến

Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Trí quan niệm rất khác thường không giống Baudelairemlàm. Theo Baudelaire thì va lấy Passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu Miên lật tập Thơ Diên của Trí ra, Miên sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng nàn và rất say sưa… Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc. Chỗ ấy, hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói: “nghĩa là va đã hiểu lầm chữ Passion rối vậy.

Tình cảm – hay cảm hứng (en-thousiame) - với dục tình (passion) khác nhau nhiều. Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không có một chút gì bơn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường ngoài điều răn của Đức Chúa Trời. Tất cả trong thế gian này, hay có một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy (cõi hữu tình và cõi vô vị) đều là hình ảnh của thơ cả. Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ (elements de la poésie) nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hượng một cách say sưa, và nhân đấy, chime nhiệm lẽ màu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần và loài người ta”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi sĩ, loài này là những bong hoa rất quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta, những nguồn khoái lạc đê mê rất thơm tho, rất tinh sạch (but de poésie). Bởi muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ với thế gian này – nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời. Người bắt chúng phải mua bằng giá máu, luôn luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình.

Không rên siết là thơ vô nghĩa lý Hay:
Ta hiểu chị trong áng gió nhiệm màu
Những hạt lệ của trích tiên đày đọa

Cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt, Thi Sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lung. Không có lấy một người hiểu mình. Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngon ngọt mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ…(gene d un poènme). Song le - miệng luỡi của thi sĩ vẫn nóng ran, vẫn còn khát khao them thuồng những vật lạ muôn đời(génic créateur aimant toujours le nouveau) của thế gian nếm mãi, chưa bưa, chưa ớn, chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn tìm mãi vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến cõi ước muốn hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi nhân thấy ở người con trai cũng như ở người con gái, đều có một tâm thuật nhỏ nhoi tầm thường, không hợp với tính tình thanh cao của thi sĩ. Vì thế, thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao qúy, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận thấy như là hết cả mọi sự. Đấng ấy là Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương của Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng của anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian…

Nguồn trích: Sông Hương.- 1992.- Tháng 9-10 (Số 5) (1352);
KHPL: BĐ.04(91)
===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:28:00)


Con người Hàn Mặc Tử qua thơ anh



Tác giả: Nguyễn Minh Vỹ


Một văn hào nổi tiếng trên thế giới đã có một lời đầy triết lý, “muốn viết, phải biết mùi đau khổ”.
Điều kiện ấy, mọi chúng ta đều biết, Hàn Mặc Tử có thừa.
Chúng ta đau xót nhớ lại điều đó, nét đặc trưng của con người anh, của tâm hồn anh, của văn thơ anh. Lịch sử văn học của cả thế giới – không phải chỉ riêng ở nước ta – không hề có một trường hợp như anh. Nhà thơ mến yêu của chúng ta đã trãi qua quá nhiều đau khổ - trước hết cũng phải nói đến nỗi khổ chung của dân tộc thuở ấy đang còn là “Vong quốc chi nô” mà anh là một con người có tâm hồn yêu nước ngay từ thuở còn là thiếu niên, mang trong mình cái “gien” chung của mọi con người Việt Nam, lại được sự bồi dưỡng ngay từ lúc mới bắt đầu biết suy nghĩ, nhờ nhà chí sĩ Phan Bội Châu mà anh có may mắn làm quen và có quan hệ thơ văn thuở Cụ là “Ông già Bến Ngự”.
Nhưng điều đáng chú ý lại còn là nỗi đau khổ của riêng anh: Thân anh đã mắc phải một trong “tứ chứng nan y”, mà lại là thứ “nan y” nhất. Ác nghiệt hơn nữa là bệnh của anh làm cho người bệnh không sống được trong cuộc sống bình thường. Là một thanh niên đang độ đắm say trong cuộc “sống xã hội” mà bị cách ly với xã hội; yêu quý gia đình vô vàn, nhất là mẹ, mà phải cách ly với gia đình, với mẹ; Tha thiết yêu đương mà phải cách ly với cả người, người yêu chung thủy suốt cả đời, dù anh bệnh tật… Đau xót hơn nữa là đang tuổi xuân xanh tràn đầy sức sống, mà phải sống trong cái cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình “tàn rữa” vì bệnh tật. Chung cuộc, một con người tài hoa, son trẻ, đang “độ xuân thì” mà phải lìa cõi đời khi mới hai – mươi – tám - tuổi!
Nhưng trong cái đau khổ riêng ấy, vượt qua tất cả các mức đau khổ của con người, anh vẫn ra sức phấn đấu để sống, sống mảnh liệt – Càng cảm thấy mình chết đến nơi, lại càng ra sức sống, càng sống một cái sống nồng cháy, nóng bỏng hơn, với hồn thơ của mình, với thơ của mình! Có thể nói là anh sống gấp bội lên trong tâm hồn
Trên cái thể xác đang chết dần mòn của anh! Trong cái cảnh một con người biết mình sắp chết, sắp trút linh hồn, anh cố gắng bằng … thơ!

“Một mai kia ở bên khe nước ngọt
Với sao sương anh nằm chết như trăng”

Thơ đối với anh trong những khoảng khắc ấy đã trở thành một nhu cầu sống, một liều thuốc cứu tử, cho riêng anh, và có thể nói là cho cả loài người! Để loài người hiểu thấu nỗi khổ đau dằn vặt của con người như anh.
Trong tình cảnh ấy những bài thơ, ý thơ của Hàn Mặc Tử những bài thơ mà tự anh anh thích gọi là “thơ điên, thơ loạn”, thực ra không điên loạn chút nào- trái lại đó là những bài thơ, văn, thể hiện một sức sống phi thường, thể hiện một lòng ham sống vô biên, thể hiện một ước mơ rất chi là “con người”: ước mơ được sống khi ý thức được rằng mình sắp chết, đang chết. Hơn nữa vì ý thức được mình sắp chết cho nên phải “sống gấp”, sống bằng thơ…

Thơ ra chưa khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đà toát mô hôi!”

Hoặc:

Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man, chết điếng cả làn da”.

Xin nói thêm ngay rằngkhi anh nói “làn da chết điếng” đó không phải là tưởng tượng mà là thực trạng của làn da của con người bị bệnh phung đang bị căn bệnh nó dày vò “chết điếng” thật!

Cho nên anh thiết tha cầu khẩn:

“Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy rung rinh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh”.
Là “con người” được cái diễm phúc là lành mạnh, sống bình thường như mọi người, có lẽ ta khó cầm được nước mắtkhi đôc lại những lời đau thương, quặn quại của hồn thơ của con người hàn Mặc Tử!
Cho nên để hiểu thấu thơ anh, ta cố làm sao hiểu thấu được lòng anh, hiểu thấu được con người anh trong cái đau thương vô hạn của anh. Không phải vì anh là “lãng mạn, là siêu thực” mà vì anh là một con ngườiđau thương vô hạn…


*


Ta hãy bắt đầu bằng con người bình thường của anh. Thì nó cũng như con người của mỗi người Việt nam, mỗi thanh niên Việt Nam thuở ấy: sinh ra, lớn lên trong cảnh đất nước bị đọa đầy, dân tộc còn bị thực dân, phong kiến áp bức bóc lột, nhân dân còn đau khổ, có chí khí, tìm đường đấu tranh tháo gỡ xích xiềng nô lệ, noi gương truyền thống cha ông.
Trong thơ Hàn Mặc Tử anh cũng đã nói lên tinh thần đó, bằng những lời tho ngắn gọn nhưng đủ để ta hiểu lòng anh:

“Thương em không dám nghĩ
Đúng lúc nước nhà nguy
Mối thù tràn như song
Lòng nào anh nỡ si”

Nhưng tôi không muốn nói nhiều về mặt này mà muốn nói về nét riêng của thơ anh trong thời kỳ thơ anh “bung ra” với bệnh tình anh chớm nở và phát triễn đến hủy hoại dần thể xác anh, cướp mất anh, chỉ trong vòng ba bốn năm trong lúc- cho phép tôi vẫn nhắc lại – anh đang thời sung sức cả về thể xác lẫn tinh thần.
Để lộ hết tâm tình của người viết bài này, tôi xin thật thà kể lại rằng khi biết tôi định viết về Hàn Mặc Tử một bạn già thân quen dặn chừng tôi: “Này vừa phải thôi nhé. Đừng có như ai khi chê thì nhận đến bùn đen mà lúc khen thì đưa tận mây trời!”. Lời “răn đe” đó làm tôi hơi cụt hứng. Ở đời phải bốc lên một chút mới lý thú chứ, nhất là khi đi vào thơ văn. Nhưng ở đây tôi không làm nhà “phê bình” thơ, vì việc đó quá khả năng và ngoài nghề nghiệp của tôi. Tôi chỉ xin kể lại cuộc sống của con người hàn Mặc Tử trong thời gian chúng tôi cùng cộng tác với nhau trong “Thái dương văn đoàn” ở Quy Nhơn. Nhà hai chúng tôi lúc ấy ở gần sát nhau: anh sống chung với gia đình ở 20 còn tôi thì “Ăn cơm tháng” ở nhà bà con ngay số 24 đường Khải Định cũ. Về sau anh buộc phải sống riêng, tôi cũng đổi nhà, nhưng cũng ở Quy Nhơn thôi và liên lạc thường với anh. Xin thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng là một trong những người anh yêu và yêu anh - cả về con người và văn thơ – cũng là quen thân với gia đình tôi, cụ thể là với vợ chồng tôi: đó là Mai Đình.
Nhóm “Thái dương văn đoàn “ tập hợp một số cây bút ở Quy Nhơn, số lớn là trường Quốc học Qui Nhơn, tiếng Tây gọi là college, tập hợp người ở các tỉnh miền Nam Trung bộ và cả Nam Tây Nguyên. Xưng là Văn đoàn cho ra vẻ nhưng thực ra chúng tôi có cái mặc cảm của con người tỉnh lẻ, nhút nhát, rụt rè lắm. Có làm gì “nên nỗi” thì phải ở trung tâm lớn như hà Nội, Sài gòn, Huế, chứ còn ở tỉnh thì ăn thua gì? Nhưng chúng tôi đã tự giải quyết cho mình cái mặc cảm ấy. Ao ta thì ta tắm; biết đâu nước ao ta cũng gạn đục khơi trong được, nước ao nhỏ có khi dễ khơi trong hơn! Ì thế mà chúng tôi mạnh tay làm: Chế Lan Viên ra “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử “Gái Quê”, cả đám chúng tôi ra “Nắng xuân”: Xuân Khai (sau này là Yến Lan), Viết Lãm, Phú Sơn, Trọng Minh (là Vỹ tôi)… Thế là ngòi pháo đầu đã nổ! Làn điệu mới của Điêu Tàn, Gái Quê có tiếng vang khá xa và khá nhanh… Lòng tự tin của chúng tôi được nhen nhóm lên: thì ra tỉnh lẻ cũng đẻ ra “nhân tài” được.
Về Hàn Mặc Tử thực ra lúc ấy chúng tôi cũng chưa tìm hiểu gì về anh cho thật sâu sắc lắm. Nhưng anh lớn tuổi hơn cả trong nhóm chúng tôi, lại là nhà viết báo hẳn hòi trong một tờ báo lớn ở Sài Gòn! Tôi cũng không hề hỏi đến tên Thánh của anh, chỉ biết tên thật là Nguyễn Trọng Trí trong một gia đình mới, anh em trai gái lấy tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu nữa! Chúng tôi cũng không hề tranh luận với nhau về hữu thần và vô thần tuy tôi biết là gia đình “có đạo” và anh biết tôi là chính trị phạm mới ra tù, là cộng sản. Chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến với nhau, thường là khá sôi nổi về vấn đề viết gì, làm gì để chống lại những thủ đoạn lừa mị của thực dân phong kiến lúc bấy giờ đang giả danh tự do, dân chủ để đẩy thanh niên nhất là ở các thành thị vào lối sống hưởng lạc, sa đọa, trong lúc chúng bị bắt buộc phải “thay gót sắt bằng góc cao su” vì do Mặt trận Bình dân ở Pháp thắng thế, phong trào trong nước ta dưới sự chỉ đạo của Đảng cũng đấu tranh thực hiện Mặt trận tổ quốc dân chủ, đẩy mạnh phong trào đòi dân chủ dân sinh(1)
Nhà báo Hàn Mặc Tử - nói thêm cho vui là ngày ấy trong nhóm chúng tôi mới chỉ có anh là “nhà” còn anh em khác chưa ra lều ra chõng gì cả - nộp cho chúng tôi một tiểu phẩm lấy tên là “Ông nghị gật”, bút danh là “ Trật Sên”, chế diễu trò hề bầu cử “ Trung kỳ nhân dân đại biểu viện” một cách khá sâu bén và ngộ nghĩnh, đúng lúc tại địc phương đang có phong trào vận động bầu người do ta đưa ra, chống lại người của chính quyền. Ai đã đọc bài ấy lúc bấy giờ và ngày nay nữa: nội dung, cũng như bút phápkhá sâu sắc! Chúng tôi cho vào tập Nắng xuân 1937 ngay.
Còn thơ? “Gái Quê” của anh cũng gây cho chúng tôi một ấn tượng rất sâu sắc về nội dung lành mạnh, thi tứ dồi dào và lời thơ… rất hay. Hẳn cho phép tôi trình bày cách đánh giá của riêng tôi về tập thơ đó trong cái trách nhiệm kiểu như “chính trị viên” của nhóm chúng tôi.
Hàn Mặc Tử của chúng ta là một dân thành thị - lại có sống và làm báo ở Sài Gòn nữa, nhưng sao hồn thơ anh lại hướng về nông thôn và thơ anh về người nông dân lao động nhẹ nhàng trong sáng gần như là một lời ca dân gian:

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng Trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Thi sĩ đã mưu tả “cái” lao động nặng nhọc của cô nông dân trẻ trung sao mà thấy nhẹ nhàng, thánh thót như vậy? Và còn gì đẹp bằng những lời thơ như:

“Sóng cỏ xanh tươi gơn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!”

Nghe nói trong các trường học của chúng ta các cháu học sinh ít biết về thơ Hàn Mặc Tử và các thầy cô cũng cho rằng giảng thơ Hàn Mặc Tử khó lắm. Nhưng những ý thơ, lời thơ như trên, không ít trong các tác phẩm đầu tay của thi sĩ, theo tôi nghĩ dễ cảm, dễ thương lắm chứ! Có cần phân tích thêm chăng là “cuộc chơi” của các cô “gái quê” của Hàn Mặc Tử là cuộc chơi tươi trẻ, lành mạnh, nên thơ của những chàng thanh niên và nàng thanh nữ lao động, đầy tình yêu lao động, tình yêu con người, chứ không phải là những cuộc hoan lạc của đám người sa đoạ trụy lạc ở thành thị đang bị mắc vào cái bẫy mà thực dânphong kiến thuở ấy gài cho họ để làm cho họ quên đi cuộc đời thực, quên đi nhiệm vụ đấu tranh cho lý tưởng tuổi xuân trong thời điểm ấy của lịch sử đất nước ta, dân tộc ta!
Thêm nữa: anh thanh niên Nguyễn Trọng Trí yêu nông dân, yêu quê hương tươi đẹp, cuộc sống thựccủa người lao động như thế và đang tuổi thanh xuân ắt đã nhìn trời nhìn đất, con người với một niềm lạc quan trong sáng mà thi nhân Hàn Mặc Tử không tiếc lời ca ngợi. Anh mơ xuân, anh “mừng xuân ra đời”, anh muốn “Tứ thời xuân” - thực ra thì không thực tế, nhưng ta hãy tha thứ cho hồn thơ của người thơ có khác con người bình thường của chúng ta – và xin mời các bạn hãy thưởng thức một số câu thơ của anh về xuân:
(1) Tôi không nói dài về điểm này tuy đây là một điểm rất quan trọng vì có lần tôi đã phân tích khá sâu trong một bài về thơ Chế Lan Viên (Tạp chí văn học tháng 1- 1988).

… Bao nhiêu mơ ước trong trần ấy
Như chực xuân về để lộ ra
… “Xuân đây rồi, lan tràn như bóng nắng”
Anh muốn:
“Sống mãi với muôn xuân đầm ấm”
Anh trách:
“Mùa xuân đến mà không ai biết cả!”
Anh kết xuân với thơ anh:
“Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều”
Anh reo lên khi:
“Xuân vờn trong ánh sáng
Hãy hoan hô, lời cao như sấm
Vạn tuế bay ơi, nắng rợp trời”
Anh tin tưởng:
“Mây hờ không phủ đồi cao nữa
Vì cả trời xuân tắm nắng tươi!”

Còn ai yêu đời hơn anh, còn ai yêu xuân, mê xuân như anh? Vá lời ca của anh vừa thực, cừa đẹp vô ngần…


*


Nhưng bỗng nhiên sao anh lại nói đến xuân với những lời như:

“ Ngày xuân hờ hững
Lòng xuân não nề…”

Xin lỗi bạn đọc, tôi lỡ lời. Không phải bỗng nhiên mà có duyên cớ - Duyên cớ đó, không phải là cái duyên cớ thường gặp và vì thường gặp nên bình thường thôi như bị người yêu phụ tình, ruồng bỏ chẳng hạn - Ở đời chán gì cái thứ “trắc trở” trong nhân duyên mà bao nhiêu nhà văn, nhà thơcủa tứ xứ, của muôn thuở, xưa nay, đã trút bao nhiêu mực cho đề tài ấy rồi!
Duyên cớ ấy là do nhà thơ tràn đầy sức sống của chúng ta mắc bệnh hiểm nghèo, chạy chữa nhiều nơi, nhiều thầy, nhiều thuốc mà không chữa được và có khi vì chạy quá nhiều thấy, nhiều thuốc mà bệnh quá trầm trọng, phát triển nhanh hơn… Điều đau đớn nhất là anh phải cách ly với xã hội, với đời… Ban đầu tì gia đình giấu anh trong một góc xép trong nhà (20 đường Khải Định) sau phải đưa đi sống riêng trong một túp lều tranh ở một động cát, ngoài bãi biển, sau phải đưa vào bệnh viện (Quy Nhơn) (bệnh viện thường) cuối cùng phải đưa vào “nhà thương phung Qui Hoà” - Bệnh anh càng nặng, càng phát triển nhanh và cướp mất đời anh…
Những lời thơ, ý thơ của anh trong thời gian đau khổ đến cực kỳ này, ta cố gắng thông cảm cho anh bằng cách đi sâu hơn nữa để gắng tìm hiểu tâm hồn anh. Nào trên đời xưa nay đâu phải có một mình anh là người bị bệnh phong (còn gọi là phung hay hủi) tuy nghe tên bệnh đã thấy rờn rợn người rồi! Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta (trong đời thường là Nguyễn Trọng Trí, tên Thánh là Phêrô Phanxicô) có suy tư như những người bệnh thường không? Anh là thi sĩ, là người thơ…Anh đang tuổi xuân đầy nhựa sống! Con người anh đang vươn lên. Cuộc sống xã hội của anh cũng thật là phong phú. Đừng như ai nói là anh nghèo. Kể cả chuyện nghèo đói – không thật đâu - của anh vào đây làm gì? Phải thấy anh thuộc hạng người ít nhất là trung lưu của thời đại bấy giờ. Con công chức, có học không đến nỗi tồi, có làm báo, thu nhập ít nhất vào loại bình thường, có gia đình ở một căn phố, trên một đường phố lớn ở một thành phố thuộc loại vừa thuở ấy. Nói đến túp lều tranh là túp lều anh phải ở riêng vì mang bệnh! Khi anh kêu đói, thơ anh có câu nổi tiếng- nay ghi lên bia mộ anh ở Gành Ráng (Quy Nhơn):

Trời hỡi! Nhà ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”

Ta cũng không nên hiểu chữ đói trong thơ anh một cách thô thiển bình thường để cho có “lập trường” – Hàn Mặc Tử đói là “ Đói trăng, đói gió…”. Nếu muốn tô đậm niềm đau khổ của anh , phải hiểu chiều sâu tâm hồn anh, chứ không nên hiểu đơn giản như có người hiểu…
Cái “đáng thương” nhất ở anh là “thấy” được bệnh mình phát triển, “thấy” được cái chết sắp đến, sẽ đến với mình, “thấy “ được anh sẽ “trút linh hồn” không thể nào cưỡng được.
Cái đáng thương và đáng quý nữa ở anh là trong khi “thấy” được mình sắp chết, “thấy” được xác thịt mình ngày đang tan rữa, ngày càng tan rữanhưng anh vẫn cố sống, có một sức sống phi thường, thậm chí anh đã diễn đạt suy tư của anh một cách “phi lý”: “Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang sống”.
Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta “sống” không có nghĩa là còn ăn, còn sống, còn ngủ, còn thở như một người sống theo lý tưởng của con người Hàn Mặc Tử, “người thơ” - Đọc thơ anh từ lúc bệnh tình càng tăng lên, giây phút lìa đời gần kề, dù lời thơ có lâm ly, có kinh dị, như thét, như gào, như rú lên… Ta càng thấy đó là sự phản ứng mảnh liệt của tâm hồn anh trước cái chết, để cố đẩy lùi cái chết của thể xác, bù lại cái sắp tiêu tan của thể xác bằng cái sống của tâm hồn. Thơ anh trong những phút giây sẵn sang đón chờ cái chết này có những lời nghe “kinh dị” thật đấy nhưng tự anh đã nói đúng cái đau khổ của tâm hồn anh, nói đúng cái đau khổ của thể xác anh, đau khổ cực kỳ, đau khổ hết mức.
Khi anh viết:
“Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rung rợn đến vô biên”

Tôi nghe như là lời “khai” bệnh của bệnh nhân với thầy thuốc - thịt da anh “sượng sần” thật, “tê điếng” thật, anh “rùng rợn đến vô biên” thật trước bệnh tình của mình bằng thơ?
Khi anh viết:
Tôi muốn vớt ai ra ngoài song điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn da”

Ta hãy mường tượng đến “sắc mặt” và “làn da” của người mang bệnh như bệnh anh mới hiểu hết tâm hồn anh, nỗi đau khổ của anh khi “nhìn thấy” sắc mặt và làn da của mình ngày một khác đi, biến dị đi.
Hoặc khi:
“Anh đã thoát hồn anh ngoài xác chết
Để chập chờn trong ánh sáng mông lung”

Thì cái đau khổ nhất của anh là:
“Máu đã khô rồi, thơ cũng khô
Tình ta chết yểu từ bao giờ…”

Cho nên anh không chịu để cho “thơ khổ” và còn nhắn lời cho bạn thơ tâm đắc nhất của anh, thi sĩ Chế Lan Viên:

“Ta không muốn người thôi ca hát
Vì luôn đêm song hận réo cung Hằng”

Và anh cười:
“Lá đổ rào rào
Trăng vàng lao xao
Chuỗi cười ha hả
Trên cánh đồi cao”

Nghe tiếng cười ta càng thương anh vì thật ra anh cố phấn đấu với bản thân, có thể nói là tự dối mình vì thực ra ở một bài thơ khác anh phải thú nhận:

“Này đây nước mắt giọng cười theo nhau”
Vì làm sao cười nổi trong tình cảnh ấy?

Làm sao còn chơi được với trăng, tuy trước đây anh say sưa biết bao với xuân ấm, với ánh nắng mặt trời?
Trong thơ, ở đoạn cuối của đới anh, đầy trăng và trăng! Sau đây, nghiên cứu kỹ hơn nữa về thơ anh, có lẽ chúng ta nên đánh dấu thời gian của từng bài để thấy ở từng bài, vào thời điểm nào “hơi thở” của anh thế nào, nhịp đập của tim anh - tiếng nói của “lòng” anh có khi nó “thơ” hơn chăng- thế nào, cả sức đề kháng của não cân anh ra sao và ôi! lại phải kể đến thể xác của anh, tay, chân, mặt mày, da thịt của anh bị thần chết gắm nhặm, ăn dần, ăn mòn đến đâu? Và ở mỗi lúc càng đi đến gần cái chết “ thế nào” ngày càng rõ ấy thì lúc đó, lời thơ anh thế nào?

“Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động - Cũng hình như em hỡi động huyền không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi, trong tim trong hồn nữa”

Thì tôi nghĩ là anh viết khi đã “bị” câu thúc ở trong “nhà thương phung Qui Hoà” rồi hoặc cũng có thể là chưa vào Qui Hoà nhưng ở một túp lều trên động cát, dưới những hàng cây mà đêm đến trăng lung linh trên biển, biển lung linh dưới trăng, cành cây lấp lánh ánh trăng, “trăng bay lả tả ngủ trên cành vàng…”
Vì ác nghiệt thay cho nhà thơ đang bệnh nặng là cái cảnh Qui Hoà đẹp lắm! Và đã vào đây rồi, với tâm hồn anh, tri kỷ chỉ còn là trăng, anh chỉ còn tâm sự được với chị Hằng, anh say trăng, ngắm trăng trên biển, anh “rược trăng” trên ngọn đồi, anh ngủ với trăng, anh nhìn “người trăng ăn vận toàn trăng cả”, anh “chơi trên trăng”, anh thấy “trăng tự tử”… Ở đây tôi muốn nói ý riêng tôi mà tôi cho là không đúng nhưng tôi xinphép cứ nóilà trong tình hình đau khổ cả thể xác và tâm hồn như anh thỉ anh tự tử, ta có thể hiểu được – Nhưng trái lại, anh “nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên” - để trăng khỏi chết vì trăng tự tử!

“Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ
Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ”

Có thể ai đó đã làm một luận văn riêng vời đề tài Hàn Mặc Tử viết về trăng! Luận văn ấy chắc sẽ dài, dài lắm và thử so với nhiều nhà thơ kim cổ, đông tây đã viết về trăng để xem ai thèm trăng, khát trăng, đói trăng, ai có cảm xúc để vịnh trăng như anh? Chắc không phải dễ, nếu không nói là khó ghi được hết ý anh và chính anh cũng không hiểu hết anh:

“Té ra ta vốn là thi sĩ
Khát khao trăng gió mà không hay

Còn một tình riêng của anh? Tôi sợ tham lam quá nên cũng chỉ nói qua một ý: anh thương, anh nhớ, anh giận, anh nhen, anh mơ màng mộng mị về người yêu cũng không phải như con người bình thường thất tình vì bị phụ tình mà anh ở trong một trạng thái tâm hồn khác thường vì tha thiết yêu, được yêu nhưng – ta đã nói rồi , vì bị bệnh nên phải sống cách ly; lại là một người thơ đa tình đa cảm, tình cảm dồi dào, tràn đầy đến nỗi bạn lừa mình, dối mình để an ủi về một người yêu “không có thật”, nhưng có cái tên đẹp làm sao! Thương Thương – Anh tuởng thật, đóng kịch với người yêu không có trên trần gian ấy, trong lúc con người yêu mình …Người bình thường đau khổ vì tình yêu không được đáp lại là khác là Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh riêng của mình nhất định phải khác hơn nhiều, phải điên, phải “loạn” vì những mối tình mà có khi anh gọi là “vô duyên” ấy.
Tóm lại, con người Hàn Mặc Tử khác mọi con người khác, nhà thơ Hàn Mặc Tử có tâm hồn, có hồn thơ khác… Anh là người gốc đạo Thiên Chúa giáo cho nên không lạ gì trong cái tính và cái cảnh của “nhà thương Quy Hoà” anh viết “Đêm xuân cầu nguyện”.

“Đế vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng đế”
anh kêu lên “Thánh nữ đồng trinh Maria” Bằng:
“Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
và “cầu nguyện”:
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh dấu
Cho đê mê âm nhạc, và thang lương”

Ta thông cảm với tâm hồn anh, với giấc mơ anh với lòng tin của anh, rất là con người: được sống, sống để làm thơ ngợi ca cuộc sống dù có đau thương lâm ly, dù có sắp trút linh hồn thậm chí khi anh tưởng tượng đã thoát khỏi thể xác, chỉ còn sống với linh hồn, để làm thơ…

*

Tôi đã viết khá dài về Hàn Mặc Tử nhưng vẫn thấy nói chưa đủ, nói chưa hết, chưa hiểu thấu tâm hồn anh, chưa nói được đúng mức sức sống của tâm hồn để thắng cái chết uy hiếp trong từng giây phút nhưng cuối cùng phép lạ vẫn không làm gì nổi để giành lấy, giữ lấy tâm hồn anh bị cơn đau về thể xác cướp đi đúng độ tuổi xuân xanh.
Trước đây ba năm. Năm 1988, nhân dịp đi Quy Nhơn có việc riêng, tôi đã đến viếng mộ anh ở Gành Ráng – Tôi thấy, lại một điều khiến tôi càng thương anh, tiếc anh đến thắt ruột – khu vực Quy Hoà (phía ngoài nhà thương phung) đang được xây dựng thành khu du lịch nhờ cảnh non nước hữu tình như tôi đã nói ở một đoạn trên. Tôi có hỏi anh em địa phương là địa thế một khu du lịch gần một khu bệnh viện đặc biệt như thế có làm cho du khách ngại ngùng không? Anh em cho biết là không can ngại gì vì khu bệnh viện và khu du lịch tuy cùng “địa danh” nhưng không phải ở gần nhau lắm. Anh em lại phân tích thêm rằng: vả chăng ngày nay “khoa học” đã cho biết bệnh phong không “lây” đâu và “khoa học” ngay ở Việt Nam cũng đang nghiên cứu đề phòng ngừa và chữa trị cái chứng “nan y” đó… Và anh em chỉ cho tôi xem một số bà con ở đây, ngay là bệnh nhân được chữa lành và còn sống tuy hình hài không còn được bình thường trở lại như cũ – Có người trở về quê cũ, nhưng không ít người đã xây dựng gia đình - giữa những người đồng bệnh với nhau – và xin đất làm nhà ở ngay tại chỗ, sinh sống bằng cách riêng mà địa phương có điều kiện, phổ biến là chặt củi trong rừng cây gần khu vực bệnh viện, chiều chiều gánh hay vác cho bà con ngoài phố đến mua.
Bất giác tôi tự hỏi: sao hàn Mặc Tử của chúng ta lại không được chữa lành như người khác nhỉ?… Để có thể sống thêm, không mong đến ngày nay mà 5, 3 năm nữa, chỉ ít vài ba năm nữa thôi tính theo thời gian lúc bấy giờ, cũng được, thì kho tàng văn học của ta được giàu thêm, với những tác phẩm khác nữa! Những tác phẩm khác nữa mang dấu ấn độc đáo của “người thơ” giàu sức sống như anh, thơ của một tâm hồn đau khổ luôn muốn vươn lên, bay cao, thoát ra khỏi một thể xác bị huỷ hoại từng giờ, từng phút, thơ càng nở rộ khi bệnh tình càng phát triển! Thơ anh phải chạy đua với thời gian, thách đố với bệnh tật, thách thức với Thần chết ở ngay trong con người anh, lăm le muốn cướp lấy hồn anh.
Để thương nhớ anh, tôi lại xin nhắc đến lời cũa một triết gia xưa nhưng vận dụng vào đời anh rất là phù hợp: “Cái chết không có ý nghĩa gì khi người ta, khi “con người” đã hoàn toàn sự nghiệp của đời mình”.
Dù căn bệnh ác nghiệt đã cướp đi cuộc đời quá ngắn ngủi của anh, anh đã đóng góp cho đời một sự nghiệp rất qúy giá, anh không những đã hoàn thành mà hoàn thành vượt mức sự nghiệp của đời anh.
Vì vậy, Hàn Mặc Tử anh ơi, anh vẫn “trường thọ” với thơ anh:

“Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay!”.


Nguồn trích: Nha Trang.- 1992.- Tháng 1-2 (Số 10) (1353);
KHPL: BĐ.04(91)
=========================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:30:45)


Đối thoại trong đêm với Hàn Mặc Tử



Phạm Xuân Nguyên


- Thưa ông, cách đây mấy hôm là tròn đúng năm mươi năm ngày mất của ông tại trại phong Quy Hoà. Hôm ngũ thập chu niên ấy tôi có đọc lại tuyển tập thơ ông do “thi sĩ Chàm” bạn ông tuyển chọn và giới thiệu. Trong “lời giới thiệu” Chế Lan Viên viết: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Tượng trưng càng không. Chủ yếu anh vẫn là nhà thơ lãng mạn (Nhưng siêu thực là gì: romantisme jusqú au bout: lãng mạn đến tận cùng). Anh cũng chưa bao giờ nói đến tôi điên tôi dại. Giờ bảo anh là nhà thơ duy nhất của Việt Nam dùng nhiều yếu tố siêu thực, có khi anh cự cho cũng nên. Siêu thực đây chỉ là yếu tố, chớ không phải là chủ nghĩa, là ngọn cờ đâu mà ngại nó! Tuy chữ ấy từ châu Âu của Breton mà đến nhưng từ xa xưa đã có yếu tố ấy ở Phương Đông”. Như vậy: Hàn Mặc Tử là nhà thơ có yếu tố siêu thực duy nhất ở Việt Nam, ý ông thế nào?

-Cái ông bạn họ Chế “quý dâng tràng chuỗi hột” cho tôi làm lễ trường thọ năm nào vẫn đầu óc thông minh thái quá đến thành rối rắm, phức tạp. Tuyển tập tôi ra năm 1987, thời đổi mới rồi, Chế muốn vĩnh cử hóa, bất diệt hoá vinh quang cho bạn mình sao cứ phải rào chắn vòng vo mãi quanh cái Surréalisme ấy thế. Siêu thực tôi có là có tự bản thân tôi, chứ hồi đó nào đâu tôi đã hiểu tường tận các học thuyết triết học của các triết gia Hútxét, Sôpenhaogiơ, Bécxông. Tôi chỉ biết trong tôi có gì, cảm gì thì nói ra cho biết, cho đạt đến độ say sưa, cuồng nhiệt nhất của khoái cảm tâm linh, vậy thôi.
- Thưa ông, đọc thơ ông ai cũng có cảm nhận đây là siêu thực, hay ít nhất là thơ có yếu tố siêu thực như họ Chế nói. Cảm giác đó ở tôi được củng cố bằng lý luận, xin lỗi, thói quen nghề nghiệp mà, qua tìm hiểu trường phái siêu thực của Pháp. Các nhà siêu thực muốn mô tả cái không thể nhìn thấy, muốn ghi lại trên giấy hoặc trên vải những phản ứng mù mờ của ý thức và tiềm thức, những liên tưởng nẩy ra bất ngờ và vô nguyên nhân trong đầu óc. Chủ nghĩa siêu thực chỉ cần ghi lại những cái nhìn lạ lùng đó, xâu chuỗi chúng vào nhau thế là đủ, dường như những lĩnh vực bí ẩn của cái huyền tưởng tồn tại tự nó phát triển hoàn toàn nội tại. Thế giới vũ trụ trăng sao của thơ ông chính đã được tạo ra trên cơ sở này. Và ông xác định rõ đó là “thơ mầu nhiệm”. Nghĩa là ông có ý thức tìm đến cái siêu thực.
- Có lẽ vừa là thế vừa không phải là thế. Trước hết tôi làm một thi sĩ. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng. Điểm này tôi giống các thi sĩ khác. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cã những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên”. Đây là cái khác người của tôi, có thể từ đó mà ra cái siêu thực cũng nên. Chế Lan Viên nói đúng, tôi vẫn là nhà thơ lãng mạn. Duy chỉ có do hoàn cảnh, do khí chất nhất là do tài năng, tôi cũng xin lỗi anh nói thế để cho thật công bằng và chính xác, nên thơ tôi có một vẻ riêng đặc biệt. “Người thơ phong vận như thơ ấy”, viết câu đó tôi muốn nói phải lấy thơ để xét đo người chứ không phải ngược lại.
- Thưa ông, câu thơ rất thích hợp để nói về tính chất siêu thực của thơ ông. Theo nghiên cứu, các nhà thơ siêu thực Pháp thừơng hay làm phép so sánh “ngược”, nhấn vào vế thứ hai chứ không phải vế thứ nhất, do đó phá vỡ trình tự liên tưởng thông thường. Thí dụ “Điếu xì gà đắng và ngon như cuộc sống” (Apoline) – Không phải nói điếu xì gà, mà nói về sự đắng cay - ngọt ngào của cuộc sống; hoặc: “những kẻ thị dân đáng thương hơn lòng căm thù của tôi, sự giận dữ của tôi” (P. Iunhíc) – đó là nói về cơn giận dữ tuyệt vọng, vô ích của nhà thơ. Trong thơ ông những so sánh ngược, liên tưởng ngược như thế không nhiều nhưng đáng chú ý.
- Tùy anh và các nhà nghiên cứu xét đoán, còn tôi viết là tôi mơ và tôi điên tôi nói như người dại…
- Thưa ông, đó chỉ là một mặt mà thôi. Có một mặt khác là ông rất có ý thức dùng trực giác thẩm mỹ để khám phá ra những bí mật của tự nhiên và ý thức, rất muốn tìm cách chuyển dịch những ranh giới của cái gọi là hiện thực. Một điều kỳ lạ và lý thú là có sự trùng hợp hoàn toàn giữa tư tưởng của André Breton và của ông, mặc dù ông mất trước 4 năm khi tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực ra đời. Trong bản tuyên ngôn đó A. Breton nêu lên nhiệm vụ của nhà siêu thực là nghiên cứu “trạng thái đặc biệt của trí tuệ khi cuộc sống và cái chết, hiện thực và tưởng tượng, quá khứ và tương lai không bị xem như những cái tương phản” (Tài liệu đã dẫn, P. 1946, trang 76-77) Còn ông viết trong bài “Chiêm bao với sự thật” như sau: “có hay không, hư hay thực là những huyền hão chập chờn trước mắt. Nếu Đường Minh Hoàng phục sinh chắc cũng rỉ tai tôi mà nói cái chuyện lên chơi cung trăng với chuyện xuống âm ty gặp Dương Qúy Phi là có thực. Tôi cũng tin là có chứ sao! Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống gần cũng như xa và hư cũng như thực…” nếu nói là những tư tưởng lớn Đông – Tây gặp nhau, ở đây là những tư tưởng tìm kiếm khai phá lối đi cho văn học nghệ thuật, thì vinh dự cũng xứng với ông trong làng thơ Việt Nam hiện đại.
- Xin lỗi, tôi không dám. Nhưng quả thực tôi coi làm thơ là sống thật. Trong mộng, trong mơ, trong chiêm bao, chứ không phải là thoát cõi trần lên cõi tiên. Tất cả là hóa làm một, vạn vật nhất thể hiểu theo nghĩa tôi hòa vào vũ trụ, thiên nhiên là là cái “tôi” thứ hai của tôi, là sự thể hiện bản ngã của tôi. Tôi lưu ý ông đến bài “Ave Maria”.
- Thưa ông, theo ý tôi bài đó dưới cái vỏ lời cầu nguyện của con chiên Nguyễn Trọng Trí thực ra là một bản tuyên ngôn thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Một tuyên ngôn khá là siêu thực. Hai hàng lệ rưng rưng của ông khóc cảm tạ Đức Mẹ phò nguy cứu bệnh biến thành:
Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang.

Một bức chân dung tự họa thật đẹp của ông. Ca ngợi đức mẹ thực ra là ông khẳng định tài năng của mình và chứng tỏ trong cái nước Trời thi ca thì chính ông là chúa tể. Tiếp đến ông cầu xin phước lành Đức Mẹ:

Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh lương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng.

Sức mạnh của thơ đến như vậy, hỏi còn ước gì hơn? Và ông đã làm được vậy. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đã dám “Vãi tung thơ lên tận sông Hằng. Thơ phép tắc bổng kêu rên thống thiết”. Siêu thực là ở chổ làm cho thơ phải kêu lên như thế chứ ở đâu nữa. Mà vì thơ kêu thống thiết, tiếng kêu bi thảm và lạ lùng của một con người bất hạnh, nên dù không nhiều lắm người nghe hiểu, dù chịu bị bịt bung che chắn nhiều năm thơ đó vẫn sống như bông phượng nở trong màu huyết nhỏ xuống lòng những giọt châu.
- Cám ơn anh. Thật tình cho đến bây giờ, 50 năm sau ngày nằm xuống, đôi lúc tôi vẫn cảm thấy buồn tủi cho thân phận thi ca của mình. Những dòng thơ huyết thổ ra qua những cơn ho, cơn vò xé tâm can đó trộn lẫn với trăng, hoa, đất cát thành một khối chất của Tử tôi sao lại bị dập vùi, trầm luân đến thế. Phải chăng khối chất ấy là một cái gì quái dị, khó hiểu, khiến người đời kinh ngạc.
- Thưa ông, quả đúng vậy, nhưng xin nói ngay để ông yên lòng và vui lòng rằng đó lại là cái riêng, cái độc đáo duy nhất của ông. Thế giới thơ ông là thế giói của những cái quái lạ, cái kinh ngạc, ông tạo những hình ảnh gây ngạc nhiên sửng sốt, trong thi pháp siêu thực có thuật ngữ Image stupéfiante do Apôline đưa ra. Ông chắc biết dịch ra tiếng việt nghĩa là “hình ảnh” (hoặc hình tượng) có tính sững sờ, kinh ngạc. Đó là sự đặt cạnh nhau những yếu tố thuộc các bình diện khác nhau của hiện thực, sự đối chiếu cái không thể đối chiếu được - chủ nghĩa siêu thực đã hình thành dưới phương châm này và đây vẫn là một thuộc tính chính của nó. Trong thơ ông điều này thì đầy tràn, đó là đặc điểm thi pháp chủ đạo xuyên suốt của thơ Hàn Mặc Tử. Ngay cái việc kéo trăng và máu vào cùng một bình diện đã có lẽ là một hành động chưa từng có trong lịch sử thơ ca nói chung rồi. Đây là 4 câu tiêu biểu:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tang thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

Theo nhà nghiên cứu Xô Viết T. Balasôva trong chuyên khảo “Thơ Pháp thế kỷ XX” (Nhà xuất bản “Khoa học”, M. 1982) thì hiệu quả của hình ảnh kinh ngạc và phản ứng đáp trả “bất ngờ” (thuật ngữ Surprise cũng của Apôline) không phải các nhà siêu thực là những người đầu tiên tìm kiếm. Trước họ Rembô, Lôtrêamông, Apôline đã từng đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng chỉ các nhà siêu thực mới đẩy hiệu ứng kinh ngạc đến mức gay gắt, mạnh mẽ. Ông có thể tự hào ở Việt Nam ông là ngừơi đi theo hướng này. Cố nhiên đạt được như vậy còn là do tài sử dụng ngôn ngữ của ông…
- Anh muốn nói đến sự kết hợp từ ngữ trong thơ.
- Thưa ông, đúng - sự kết hợp từ ngữ. “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự kết hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán và thoạt nhìn ngỡ như không thể được” (A. Breton). Thí dụ trong thơ Pháp: “Con chuột chết nằm trong não bộ” (G. Rípmông – Đétxen), “ăn xong cái gì văng, con gấu khạc ra bộ ngực phụ nữ” (B. Pêrê), “Đồ ăn đóng đinh câu rút giống như mùa thu” (G.Acpơ). Còn đây thơ ông: “thơ như tình ái của ni cô” (huyền ảo), “nhiều hành tinh tan đi vì đã lỏng” (đôi ta), “Ngả nghiêng đồi cao bộc trăng ngủ” (Ngủ với trăng) v..v.. Thơ mới đã làm một cuộc cách tân táo bạo trong ngôn ngữ Việt Nam, ở đó có phần đóng góp không nhỏ của ông, đặc biệt trong phạm vi khả năng kết hợp từ. Và về mặt này tôi muốn nói thêm là ngay cả trong giới hạn một từ ông cũng có thể buột nối các bình diện khác nhau lại với nhau, dĩ nhiên là có dòng ngầm văn bản bên trong. Câu “đừng ngã tay mà hứng máu trời xa” (đừng cho lòng bay xa) đã nhập máu ngừơi với máu trời (những vì sao) đọc lên cảm biết thắm thía đau thương. Ví sao là máu trời quả là kinh dị và độc đáo.
Pôn Êluya viết: “Những tư tưởng và tình cảm trần trụi gây ấn tượng mạnh như ngừơi phụ nữ khỏa thân. Nghĩa là cần phải lột trần chúng ra”. Thơ Hàn Mặc Tử có tính chất siêu thực cả ở điểm này nữa ông không ngại nói trần trụi nhưng vì đó là chân thực nên có tính nghệ thuật và có sức thuyết phục, truyền cảm “trời hỡi làm sao cho khỏi đói, gió trăng có sẵn làm sao ăn” - tiếng kêu nhói lòng đau đớn. Rồi bao lần ông cắn thơ, cắn trăng, nhả ra trăng, nhả ra một nàng, mửa ra huyết…, những câu thơ không hoa mỹ để lại cảm giác nhức nhối tê tái lâu dài cho người đọc.
- Tôi với anh đã thức cùng nhau gần trọn một đêm trò chuyện, trao đổi về thơ tôi. Cái chính là tôi nghe anh nói, tôi nhập hồn về đây là để làm một chứng nhân im lặng trước sự phán xét của hậu thế. Còn những cái gì tôi sinh thành từ tâm trí tôi thì đã xuất hiện và vĩnh viễn còn lại ở thế gian như chúng vốn vậy. Ông bạn thi sĩ Chàm của tôi khi còn sống đã lo cho tôi: “thế thì đọc Tử thế nào? ở miền nam trứơc kia ngừơi ta đọc Tử hoặc thấp xuống với Freud với tình dục bản năng hoặc cao lên thượng thanh khí với chúa trời, hoặc tít tắp xa ra trong thời gian, trong con đường về cái chết với Haiđêgơ và nhiều nhà triết học khác”. Anh lại muốn kéo tôi về gần Bécxômh. Thôi tùy, chân lý chỉcó một những lẽ phải thì có nhiếu, cứ tranh cãi đi để từ nhiều trở về một. Bây giờ xin phép anh tôi đi đây, ngày sắp rạng rồi. Tôi đi “từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết…” (Chiêm bao với sự thực).
- Adieu, Hàn Mặc Tử! Câu cuối cùng ông vừa nói tôi xem như một quan niệm văn học, một cách thức làm thơ riêng của ông. Và có thể coi bài thơ sau đây, nhan đề rụng rồi – như lời di chúc một đời thơ ngắn ngủi mà trường tồn cho các duyên kiếp thi nhân đang tới.
Thơ chưa ra khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đã toát mồ hôi.

4h kém 15 phút sáng 17 –11- 1990

Nguồn trích: Nha Trang.- 1991.- Tháng 9-10 (Số 8) (1354);
KHPL: BĐ.04(91)
===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:32:51)


Đọc lại Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử



Mai Văn Hoan


Có rất nhiều bài thơ nói về mùa xuân nhưng không hiểu sao tôi cứ bị ám ảnh với “Mùa Xuân chín” của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Ngay cái tiêu đề “Mùa xuân chín” đã khác lạ rồi. Trong “Bức tranh quê” của Anh Thơ ta gặp “Chiều xuân”, “ Đêm xuân”. Ở Xuân Diệu ta gặp “Xuân không mùa” và Chế Lan Viên ta gặp “Xuân”… Tất cả những tiêu đề đó đều rất quen thuộc nên ít gây ấn tượng. Tiêu đề “Mùa xuân chín” buộc ta phải nghĩ ngợi để tìm một cách hiểu. “Mùa xuân” sao lại “chín”? phải chăng mùa xuân là trái trên cây, là quả ở trên cành. Trên cành có quả xanh, quả chín. Mùa xuân cũng thế: có mùa xuân đang xanh và có mùa xuân đã vào độ chín. Hàn Mặc Tử là người đầu tiên có cách nói về mùa xuân độc đáo, mới lạ như vậy. Nhưng đó mới chỉ là suy đoán. Đọc hết bài thơ ta mới hiểu ngầm ý của tác giả.
Muốn hiểu chủ đề của “Mùa xuân chín” tốt nhất là ta thử làm phép so sánh, đối chiếu hai khổ thơ quan trọng sau đây:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Trước mắt chúng ta hiện lên hai bức tranh, hai khung cảnh gần như hoàn toàn đối lập nhau, hai khung cảnh hình như hoàn toàn đối lập nhau. Một bên “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Còn bên kia “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Cái “xanh tươi” của cỏ, đối với cái “chang chang” của nắng. Một bên “Bao cô thôn nữ hát trên đồi. Còn bên kia “Chị ấy năm nay còn gánh thóc”. “Cô” và “chị”, “Bao cô” và “Chị ấy”, “ Hát trên đồi” và “gánh thóc” bên sông… Một còn xuân xanh, một đã qua thời tuổi trẻ. Một bên đông đảo vui vẻ, một bên lặng lẽ cô đơn. Một bên hát hoà một cách say sưa. Bao cô thôn nữ đang hát những bài hát về tình yêu. Khi thì tinh nghịch như tiếng sáo thiên thai “vắt vẻo”, khi thì “hổn hển” như tiếng thở gấp của lồng ngực đang phập phồng. Khi thì “Thầm thì” như lời tình tự. Các cô thôn nữ hát một cách hồn nhiên, vô tư. Ở đây có sự hoà hợp giữa ngày xuân và tuổi xuân. Mùa xuân ở trên là mùa xuân đang xanh còn dưới kia là mùa xuân đã chín. Chị ấy đang gánh trên vai gánh nặng của cuộc đời. Chị cần mẫn, chăm chỉ, siêng năng như “con cò lặn lội bờ sông” như bà Tú trong thơ Tú Xương “lặn lội thân cò khi quãng vắng” Hàn Mặc Tử có ý nhấn mạnh chữ “còn”. Trong khi bao cô thôn nữ chơi đùa hát hò vui vẻ thì chị ấy “còn” gánh thóc, chị gánh năm này qua năm khác giữa cái nắng “chang chang” như vậy. “Chị” có vẻ đẹp riêng của “Mùa xuân chín”. Thi sĩ hết sức cảm phục nhưng đồng thời cũng hết sức cảm thông với chị. Từ hình ảnh chị ấy đang gánh thóc “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” mà Hàn Mặc Tử ngậm ngùi cho bao cô thôn nữ ở trên kia:

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Đó là quy luật ít ai cưỡng được. Thi sĩ biết vậy mà cứ tiếc thầm cho họ. Và biết đâu cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử cũng tiếc cho cả tuổi xuân của mình. Xuân Diệu thì bộc trực hơn: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua. Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Hàn Mặc Tử cũng với ý ấy nhưng thể hiện kín đáo hơn. Nói cho cùng các thi sĩ đang nói hộ tâm trạng chung của mọi người. Vì ai mà chẳng muốn tuổi xuân của mình được dài thêm nếu “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” vì nói như Xuân Diệu: “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”… Trong khi tả cảnh mùa xuân vui tươi với các thi sĩ thường hay có những phút chạnh lòng như vậy. Ngày xưa Nguyễn Du vẽ cảnh mùa xuân thật sinh động với “Cỏ non xanh rợn chân trời” với “Dập dìu tài tử giai nhân”… Nhưng cũng chính Nguyễn Du đặt câu hỏi trước ngôi mộ của nàng Đàm Tiên (qua lời nàng Kiều):

Rằng sao trong tiết thanh xuân Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?

Cũng như vậy. Hồ Xuân Hương tả cảnh chơ idu trong ngày xuân với “Bốn mảnh quần hồng bay phất phới” với “Đôi hàng chân ngọc duỗi song song” và nữ sĩ hạ hai câu thật bất ngờ:

Chơi xuân ai biết xuân đang tá
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Đó chính là sự gặp nhau của những tâm hồn lớn. Những thi sĩ vốn mang nặng “nỗi đau nhân tình”. Cái điều họ “Sực nhớ”, sực nghĩ, cái điều họ băn khoan… tuy nó khác nhau nhưng đều quy tụ trong tình yêu thương đối với con người - đặc biệt là số phận của người phụ nữ.



Nguồn trích: Giáo dục và thời đại chủ nhật.- 1997.- Ngày 16 tháng 2 (1355);
KHPL: BĐ.04(91)
===============================================






--------------------------------------------------------------------------------

tieuboingoan -> RE: Cuộc đời và sự nghiệp của Hàn Mặc Tử (20.6.2005 15:34:22)


Nữ sĩ Mai Đình kể về mối tình với Hàn Mặc Tử



Đắc Trung


28 tuổi “ra đi” giữa lúc tài năng đang rộ nở, thi sĩ Hàn Mặc Tử không chỉ để lại “những vần thơ có cánh” mà còn để lại mối tình tuyệt vời với nữ sĩ Mai Đình. Đã có người viết về mối tình đầy thi cảm và đẫm nước mắt này, nhưng tài liệu có đôi phần chưa chính xác. Rất may trong một dịp từ thành phố Hồ Chí Minh, nữ sĩ Mai Đình ra du ngoạn Hà nội, tôi có hân hạnh được tiếp kiến bà tại căn phòng nhỏ bé của mình ở số 64 Bà Triệu. Trong cuộc tri ngộ qúy giá ấy, tôi đã được bà kể cho nghe về mối tình của bà thời xuân sắc với nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử…

Đã sắp qua tuổi 78, mà nữ sĩ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, qúy phái. Mái tóc dài bạc trắng chải rất mượt, búi rất gọn. Da hồng, mắt sáng, miệng tươi, khăn hoa, áo lụa hảo hạng. Giọng nhỏ nhẹ mà đầy âm hưởng.

- Tôi sinh ra trong một gia đình quan lại nhỏ, chính quán ở Nông Cống, Thanh Hoá, nhưng thân phụ tôi lại nhận chức tại Phan Thiết. Mười sáu tuổi tôi đã theo sống bên cha và được cha hết mực cưng chiều. Tôi mê đọc sách, đặc biệt Đường thi. Tâm hồn đẫm thơ văn. Một lần trên mục Văn chương tờ “Sài Gòn” tình cờ tôi đọc được bài “Thức khuya” của Hàn Mặc Tử. Chất thơ, hồn thơ, tâm trí lự của tác giả làm tôi say, tôi cảm. Không hiểu sao cái tên Hàn Mặc Tử cứ án ảnh tôi hoài và từ đó tôi cố ý tìm đọc hàng loạt những bài khác của thi nhân này. Bài nào tôi cũng cảm thấy hay, thấy xúc động và trong tôi bỗng thấy hình thành bóng dáng một thi sĩ Hàn Mặc Tử thật tuyệt vời. Cũng từ đấy dường như có sự kỳ diệu nào thôi thúc tôi quyết định gửi những bản thảo thơ của mình cho mục Văn chương của tờ “Sài Gòn” cùng những niềm huy vọng rất mơ hồ, rất khó giải thích, bởi tôi biết rằng trong Ban Biên tập của tờ báo đáng kính đó có Hàn Mặc Tử… Thế rồi tôi nhận được thư anh. Lời thư thật tao nhã cao sang. Anh nói rằng anh thật sự xao xuyến trước vẻ đẹp và sự tinh túy của những bài thơ tôi viết với một bút danh rất mới: Mai Đình và anh lần lượt cho đăng. Dường như tiền định, hai tâm hồn thơ gặp nhau cảm trọng, mến mộ nhau, chỉ qua thư từ trao đổi thôi chứ chưa hề gặp mặt, vậy mà đã rất ý hợp tâm đồng.
Năm 1937, trong chuyến đi từ Thanh Hoá vào Phan Thiết, ngồi trên ô tô, tôi nghe mấy người bạn đồng hành trò chuyện. Họ nói về Văn chương, đặc biệt nhắc nhiều tơi Hàn Mặc Tử. Qua câu chuyện của họ tôi được biết hiện tại Hàn Mặc Tử đang ở Quy Nhơn. Bỗng nhiên trong đầu tôi nẩy ra ý định ghé Quy Nhơn thăm anh. Nhưng mà… phần e ngại mình là thiếu nữ con nhà gia giáo lại tự tìm đến một người con trai. Mà người đó mình chưa hề gặp mặt. Biết anh ở chỗ nào trong cái thành phố rộng lớn đó? Chẳng lẽ làm quen rồi hỏi thăm mấy người trên xe ư? Đâu có được. Tôi chợt nhớ ra được ở Quy Nhơn có một người bạn thơ. Đó là anh Trần Thông. Vợ chồng anh rất mến tôi. Ghé qua thăm anh chị đó rồi tính… Vợ chồng anh Thông đón tiếp tôi niềm nở. Trong câu chuyện tôi làm như đã quen biết Hàn Mặc Tử lắm và hỏi anh chị đó rằng hình như Hàn Mặc Tử đang ở Quy Nhơn, tôi muốn tới thăm ảnh. Cả anh chị đều buồn bã . Chị nói rằng Hàn Mặc Tử đang bệnh nặng, không nên tới. Tôi hỏi anh bệnh gì, tại sao lại không nên, trong lúc anh hoạn nạn thế cần tới thăm mới đúng chứ. Lát sau chị nói cho tôi hay rằng Hàn Mặc Tử mắc bệnh cùi, hiện ở nhà riêng tại số 20 đường Khải Định, anh từ chối mọi người, không muốn tiếp xúc với ai. Tôi đắn đo. Nhưng chiều đó tôi vẫn một mình tìm đến nhà anh. Căn nhà nhỏ nằm khiêm tốn đến vắng lặng. Tiếp tôi là một thanh niên tên là Hiếu, em trai của Hàn Mặc Tử, biết ý định của tôi, Hiếu tỏ ra cảm thông, nhưng gương mặt đợm buồn. Hàn Mặc Tử nằm trong buồng kín, nghe Hiếu vào nói lại, anh bảo Hiếu ra cho tôi hay rằng, anh rất cảm động về việc tôi tới thăm, nhưng anh bệnh không ra tiếp được, mong tôi hiểu cho, hẹn dịp khác tri âm. Tôi ra về lòng ngùi ngùi thương cảm. Ngay chiều gần tối hôm đó, trước khi tôi lên tàu vào Nam thì anh Nguyễn Minh Vỹ tìm gặp. Anh Vỹ đưa tôi tập “Gái quê”, nói rằng Hàn Mặc Tử nhờ chuyển. Mở ngay ra coi và tôi rất xúc động về dòng chữ Hàn Mặc Tử đề tặng tôi. Lên tàu tôi liền đọc một mạch hết tập thơ của anh. Qua thơ anh, tôi càng cảm mến anh. Xúc động tôi viết ngay bài “Biết anh”.

Tàu đến Nha Trang tôi xuống, tìm đến thăm anh Quách Tấn, một nhà thơ có tiếng bấy giờ. Anh em lâu ngày gặp nhau mừng lắm. Tôi kể lại việc đến thăm Hàn Mặc Tử, tất nhiên khoe với anh tập thơ “Gái quê” Hàn Mặc Tử mới tặng tôi. Vốn là bạn thân với Hàn Mặc Tử, anh kể cho tôi nghe nhiều chuện về Hàn Mặc Tử. Chẳng hạn tên thật của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí. Ngoài bút danh Hàn Mặc Tử anh còn những bút hiện khác như: Phong Trần, Lệ Thanh, Minh Duệ Thị. Về bút danh Hàn Mặc Tử nguyên trước là Hàn Mặc Tử có nghĩa bức rèm lạnh. Anh Quách Tấn có lần bảo: “Đã có rèm thì thêm bóng nguyệt vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ hơn”. Nhà thơ hiểu ra, gật đầu và thay chữ ả vào chữ a thành Hàn Mặc Tử, có nghĩa là Chàng Bút Mực. Nâng niêu tập “Gái Quê” trên tay. Anh Quách Tấn nói rằng Hàn Mặc Tử cũng tặng anh một tập nhưng một người bạn đang mượn. Anh muốn viết một bài về tập “Gái quê” của Tử mong tôi cho anh mượn vài ngày. Tôi bằng lòng đưa anh, nhưng bẳng quên trong đó có kẹp bản thảo bài thơ “Biết anh” tôi làm tặng tác giả “Gái quê”. Trong bài ấy có mấy đoạn:

Còn anh em đã gặp anh đâu
Chỉ cảm thấy thơ có những câu
Âu yếm say sưa đầy cả mộng
Xui lòng tơ tưởng lúc đêm thâu…

Mộng hồn em gửi theo chiều gió
Để em gần anh ngỏ ít lời

Chẳng hiểu nghỉ cách nào mà Quách Tấn chép liền bài thơ đó gửi ra Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử. Đọc “Biết anh” của tôi, Hàn Mặc Tử làm đáp lại ngay bằng bài “Lưu luyến” (nữ sĩ Mai Đình nheo nheo mắt, cười rất tươi. Tôi thấy bà trẻ lại như thời con gái). Tôi “chết” ở bài “ Lưu Luyến” này đây:

Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong hồn gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Nghĩa là thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong ánh gió băn khoăn…

Vậy là “Biết anh” và “Lưu luyến” đã nói lên nỗi lòng của hai chúng tôi, từ đó chúng tôi thư từ cho nhau, gắn bó với nhau như cặp tình nhân trong mộng.

Sau đó tôi rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Hàn Mặc Tử vẫn ở Quy Nhơn. Đầu năm 1939 tôi mới có dịp ra thăm anh. Lại tìm đến nhà anh ở 20 Khải Định. Nhưng lần này lòng tôi ngậm ngùi buồm tê tái. Anh không còn ở đây nữa. Bệnh cùi tàn phá cơ thể anh, vi trùng đã ăn lên đến mặt. Gia đình khánh kiệt để lo chạy chữa, nhưng bệnh tình anh không giảm. Chính quyền thành phố bắt đưa anh vào bệnh viện cùi Quy Hoà. Thân mẫu anh mếu máo nói cho tôi hay, khiến tôi không cầm nổi nước mắt. Thương anh gia đình giấu anh ở một nơi kín đáo dưỡng bệnh. Đó lá Gò Bồi. Gò Bồi nằm phía Tây thành phố Quy Nhơn, một khu cát rộng, trên đó là những túp lều cỏ sơ sài của những người nghèo khổ bần cùng đói rách. Muốn ra đấy phải lội bi bõm nước ngập lưng bắp chân, rồi đạp trên cát bỏng dưới nắng hè chói chang. Tôi xin phép bà cụ ra thăm Hàn Mặc Tử. Cụ bằng lòng và một chú bé dẫn tôi ra Gò Bồi. Đến trước túp lếu tranh xơ xác xiêu vẹo, chú bé bảo tôi dừng lại. Vén tấm màn che cửa, chú bé ra hiệu tôi chui vào. Một người đàn ông nhỏ bé, gầy yếu ngồi trên chiếc giường chõng, cạnh bàn viết. Bàn là một tấm gỗ thùng đặt trên một khung chân cũ. Người đàn ông ngước đôi mắt đen sáng long lanh nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng lặng đi. Hàn Mặc Tử đấy ư. Thật xa lạ với một thi sĩ mà tôi hằng tôn thờ trong mộng tưởng. Anh ốm yếu, tàn tạ, da mặt sần sùi, chỉ có đôi mắt làm tôi sững sốt: sáng như hai ngôi sao, đầm thắm, thông minh và có sức cám dỗ diệu kỳ. Từ đôi mắt ấy toát ra thứ ánh sáng huyền diệu, khiến tôi bỗng thấy thương, yêu anh vô cùng. Tôi nhìn xoái vào mắt anh, khẽ nói nhỏ chỉ đủ anh nghe: “em là Mai Đình đến thăm anh đây… Vâng, Mai Đình đây”. Anh chằm chằm nhìn tôi không nói và từ đôi mắt ấy bỗng rưng rưng lệ. Tôi buớc đến gần định ngồi xuống bên anh, nhưng Hàn Mặc Tử vội lắc đầu xua tay. Tôi hiểu vì trên đường ra đây chú bé có kể cho tôi hay rằng từ khi lâm chứng bệnh nan y này. Hàn Mặc Tử hết sức giữ gìn. Anh không bao giờ bắt tay ai, không để ai đến gần, khi giao tiếp, luôn giữ khoảng cách xa để bệnh tình của anh không lây sang người khác. Phút xúc động lặng xuống, chúng tôi bình tĩnh ngồi tâm sự với nhau. Càng trò chuyện càng tâm đồng ý hợp, chúng tôi nói về những người bạn mà cả hai chúng tôi đều quen, nói chuyện văn thơ, chuyện đạo, chuyện đời…

Từ ấy cứ mỗi lần thu xếp được công việc tôi lại từ Sài Gòn ra thăm anh, cố gắng được gần anh nhiều hơn. Vốn liếng tư trang chẳng đáng bao nhiêu, tôi cũng bán đi để có chút tiền đem ra chăm sóc anh. Chúng tôi ngồi suốt ngày say sưa đàm đạo, làm thơ xướng họa, quên cả nắng nóng như dội lửa, quên đói, quên khát. Lúc ấy Hàn Mặc Tử rất vui. Những bài thơ xướng hoạ, những bài thơ chúng tôi cùng làm, bài nào cũng dạt dào xúc cảm. Tôi chép vào một tập. Hàn Mặc Tử bảo tôi đặt tên. Tôi đặt là “Đôi hồn”. Hàn Mặc Tử gật đầu bằng lòng. Có thể nói chúng tôi yêu nhau say đắm. Đó là mối tình hoàn toàn trong sạch. Trọng nhau về đức, về tài, cảm phục nhau về thơ mà yêu chứ thậm chí cầm tay nhau cũng không. Lần đó ra thăm bệnh tình anh càng nặng hơn, sức khoẻ suy sụp. Nhìn anh tôi không cầm nổi nước mắt. Tôi bảo anh hay là anh cứ đi bệnh viện Quy Hoà tôi sẽ nghỉ việc theo anh ra đó chăm sóc anh, không muốn tôi phải khổ vì anh. Hôm sau, tôi chia tay anh về Sài Gòn. Và, đâu có ngờ rằng đó là lần gặp cuối cùng giữa hai chúng tôi.
Nữ sĩ Mai Đình lặng đi, lát sau tôi dè dặt hỏi:

- Thưa bác, vậy bản thảo tập “Đôi hồn” bác còn lưu giữ được không?
- Còn, tôi vẫn giữ, vẫn thuộc nữa
- Giá mà…

Hiểu ý tôi bà nói luôn:

- Đã có người đến mượn, đến xin, đòi mua với giá đắt nữa, nhưng tôi từ chối. Bởi với tôi đó là những kỷ niệm vô gía thiêng liêng với Hàn Mặc Tử, không muốn chia sẻ cùng ai.



Nguồn trích: Nhân dân hàng tháng.- 1997.- Số 6 (tháng 10) (1358);

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.