Mar 29, 2024

Biên khảo

Những bài viết về Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) * đăng lúc 12:53:59 PM, Jan 05, 2024 * Số lần xem: 4654
Tiếng Đàn Trên Sông
(Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị)

Nhạc Phẩm Tỳ Bà Hành (Thơ Vương Ngọc Long - Nhạc Mai Đức Vinh)


--------------------------------------------------------------------------------

Hải Đà sưu tập và biên soạn (Phần 1)



Tranh: Thu Huệ


Bạch Cư Dị , tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây , có bản chất thông minh từ nhỏ, năm 6 tuổi đã bắt đầu học làm thơ . Ông đã lớn lên trong một bối cảnh lịch sử triền miên khói lửa binh đao, nên ông gần gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh cơ hàn cay đắng của tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đã đồng tình với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm thụ đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được bổ làm quan trong triều đình giữ chức Tả thập di . Ông đã sống trong một thời kỳ đen tối, lúc mà xã hội Trung Quốc đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe cánh thống trị trong triều đình khó hàn gắn được . Với bản tính trung thực dám nói thẳng (dù với tinh thần tôn quân), ông đã dám phê phán gay gắt và can đảm đấu tranh cho chính nghĩa, nên ông đã làm mất lòng vua và các quan đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét, dèm pha, và hạch tội ông . Ông bị giáng chức làm tư mã Giang Châu (815-818) , là một chức vị nhàn rỗi, không có công việc gì làm, mang một tâm sự buồn bã chán ngán thế thái nhân tình . Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi chùa, và dành nhiều thì giờ để tu tiên học đạo . Bài thơ nổi tiếng Tỳ Bà Hành của ông đã được sáng tác trong giai đoạn nầy, được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân và được xã hội đón tiếp thưởng thức quí trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội, hiện thực đã được truyền tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ . Trên bước đường phiêu bạt, ông đã thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đã ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của trường làng, chùa chiền, quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội quán thi phú, tập văn của các nho sinh . Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ ông gần gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích. Bạch Cư Dị đại diện cho dòng thơ hiện thực phê phán vì khi ông đã phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến đồi trụy, Bạch Cư Dị đã dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xã hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quý tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi..

Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với đời sống, phản ảnh hiện thực xã hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân văn . Bạch Cư Dị đã nói “ Làm văn phải vì thời thế mà làm, làm thơ phải vì thực tại mà viết “ (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác ). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường “phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xã hội và đất nước. Bài Trường Hận Ca của ông diễn tả mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi, nhưng cũng có những ý tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai …

Bài Tỳ Bà Hành của ông có tình tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “ thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu , để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời . Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía …Ông đã nói “ sự việc dẫn dắt ở ngoài, tình lý rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh …” Đó là những lời bộc bạch chân tình, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đãi trong một xã hội phong kiến đầy dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đã gióng lên tiếng chuông cảnh cáo một chế độ phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, tình cảm, hạnh phúc, và quyền sống của người phụ nữ . Nhà thơ đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ tình của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống. Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đã nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca : “ Cái cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa . Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa “ (Nguyễn Khắc Phi dịch) . Bài thơ Tỳ Bà Hành đã tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thúy bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố : tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa .


Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư Mã Giang Châu, và ông cũng đã trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:

Chu Trung Dạ Vũ

Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu
Bạch Cư Dị

Trong Thuyền Đêm Mưa

Mây đen nghịt, nước sông trôi
Gió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơ
Mui thuyền thánh thót hạt mưa
Bập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyền
Trong khoang khách bệnh nằm yên
Chẳng may giáng chức về miền Giang Châu
Hải Đà

Bài Tỳ Bà Hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức làm Tư mã Giang Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên thuyền . Giang Châu có núi Khuông Lư, bến Tầm Dương đều là nơi danh lam thắng cảnh . Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn thánh thót văng vẳng, lúc biến hóa lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó . Ông ghé thuyền, và gặp người kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đã cảm thấy mình đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng .Cô đào đã gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng xao động người nghe .Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng nhan đa truân và đã bộc bạch thổ lộ tâm tình riêng tư của mình cho ông nghe . Cảnh và tình hòa hợp . Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh ngộ . Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hòa mình với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ . Chợt có mối đồng cảm, đồng tình giữa người thơ long đong trên bước đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lãng của người ca nữ đáng thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đã tài hoa sáng tác một mạch bài Tỳ Bà Hành đầy nhừng hình ảnh tâm trạng thực và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân tình tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lãng đãng che phủ khoan thuyền . Trời không lất phất những hạt mưa .. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong lòng ai ?


”Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh “

Tỳ Bà Hành


Bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan-Huy-Vịnh được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc nhất . Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ .Theo tác giả Trần Thị Băng Thanh (Từ Điển Văn Học – nxb Khoa Học Xã Hội) : “ … cho đến nay, những người yêu thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ Bà Hành … nguyên tác là của Bạch Cư Dị . Tỳ Bà Hành miêu tả tâm trạng quan Tư Mã Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe người ca nữ đã luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể chuyện cuộc đời chìm nổi của mình . Bản dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát … Đóng góp lớn nhất của Phan Huy Vịnh là sử dụng tiếng Việt . Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đã làm cho tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch . Từ lâu bản dịch Tỳ Bà Hành đã được phổ cập rộng rãi và coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó đã chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam “ (TTB)

Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú : “Riêng bản dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích . Năm 1986, trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia của UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ Bà Hành (bản dịch) , được nghệ sĩ Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đã được tặng giải thưởng cao . Đó cũng là sự phát triễn, kết hợp tài tình giữa bản dịch thơ (lời) và âm nhạc “.

Tỳ Bà Hành là một bài thơ cổ kính, súc tích, lồng vào một câu chuyện thi vị, tạo ra một âm hưởng nhạc thơ nhẹ nhàng, tha thiết làm xao động lòng người. Cái thân phận bèo bọt của người thiếu phụ đã dùng tiếng đàn để bộc lộ nỗi than oán và uất hận của mình. Bạch Cư Dị là nhà thơ đã mạnh dạn đề cập đến giá trị của người phụ nữ, cái bất công của xã hội phong kiến đối với vai trò của người phụ nữ. Những âm thanh của tiếng đàn được diễn tả rất tài hoa, những uẩn khúc thầm kín riêng tư của nỗi lòng, những ưu tư dằn vặt thăm thẳm đáy lòng như đã tuôn trào ra để hòa nhịp cùng với những âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng oanh ríu rít, tiếng nước tuôn róc rách, tiếng dao xô xát, tiếng lụa xé kêu vang .. lúc trầm lúc bổng, những giây phút ngừng lại im bật, thì lại bỗng rung lên những tiếng tơ lạnh ngắt run rẫy, lối diễn tả thật tuyệt vời . Những đợt sóng cảm xúc cứ dạt dào tuôn trào ra, tạo nên những chấn động dư ba, làm nao lòng, ủ rũ người nghe. Những tiếng rung luyến láy chuyển nhịp theo từng ngón tay mềm mại nõn nà của người thiếu nữ, như muốn níu kéo lại âm vang của một thời niên thiếu ngây thơ, như muốn thở ra những tiếng não nuột của một tâm trạng chán chường, như buồn thương nuối tiếc một dĩ vãng vàng son đã mất hút tự hôm nào . Bỗng tiếng đàn tắt lịm, hụt hẫng như tiếng khóc khô không lệ , buồn tủi tiếc thương cho một thiên đàn ước vọng đã xụp đổ tan tành … Người thơ đã dùng những ước lệ, ẩn dụ, những cái đẹp trữ tình lãng mạn của thi ảnh qua những ngôn từ chắt lọc tinh tế tạo thành nhừng hình tượng tinh túy khơi động cảm xúc lòng người, làm trái tim rung động bần thần, làm tâm hồn xao xuyến , man mác bâng khuâng . Đó là thanh âm rung vang của tiếng đàn Tỳ Bà ….


Em bước xuống từ trong tranh

Cây Tỳ Bà nức nở

Ngón đàn em trăn trở

Vần thơ em buông lửng lơ

Bỏ lại vầng trăng quạnh hiu

Bỏ lại sau lưng khoảng không nham nhở

Em bước xuống vẫn ôm cây Tỳ Bà nức nở

Lang thang cuối đất cùng trời

Tiếng Tỳ Bà gõ cửa

Tiếng Tỳ Bà đòi nợ cho nàng Kiều

Kiếp đoạn trường muôn thuở

Đàn trăn trở thơ buông lửng lơ
Hồn Tỳ Bà ( nhạc sĩ: Ngọc Khuê)


Câu chuyện trong bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị đã thầm nói lên một triết lý nhân sinh, cái chua xót ngậm ngùi của cảnh đời dâu bể, ba chìm bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế của tạo hóa, mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc đời hư ảo như bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời . Chung cái tâm sự hận sầu ray rức được diễn đạt qua cung điệu đàn, lời ca, tiếng hát đó là bài Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du . Nguyễn Du trong một bài ca về người gãy đàn đất Long Thành (Long Thành Cầm Giả Ca), có kể rằng vào tuổi thiếu niên, ông đến kinh đô để thăm người anh, và có dịp được dự một hội nữ nhạc, trong đó có một thiếu nữ đất Long Thành, gảy đàn Nguyễn ( tức là đàn Nguyệt, do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế ), rất điêu luyện, đã gảy những khúc đàn hay nhất trời đất (tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh) tài danh lừng lẫy, lại hát hay và ăn nói duyên dáng quyến rũ vô cùng . Sau đó Nguyễn Du trở vào Nam , mãi một thời gian sau ông phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tạt ngang Long Thành, bạn bè mở tiệc, khoản đãi ông và có gọi đoàn nữ nhạc đến giúp vui, mà ông không quen mặt biết tên , và bất chợt gặp lại người kỹ nữ đó . Sau đây trích một đoạn trong lời tiểu dẫn của Nguyễn Du (Quách Tấn dịch) : “ …Tiệc khởi múa hát . Kế tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc . Lòng tôi kinh dị . Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thần khô, mặt đen, sắc trong như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi . Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp . Than ôi ! Người ấy sao đến nỗi thế nầy ! Cuối ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn . Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật không sao lường được ! Sau khi từ biệt , trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gởi hứng : Người Đẹp Đất Long Thành – Long Thành Giai Nhân “ (Nguyễn Du)
Xin trích dịch một đoạn cuối của bài ca lúc Nguyễn Du gặp lại người ca kỹ này trong bữa tiệc do bạn bè đãi ông ở dinh Tuyên Phủ):

…Trong yến tiệc các nàng đều son trẻ
Duy một người ca kỹ tóc hoa râm
Sắc thần khô gầy guộc đứng âm thầm

Chẳng điểm phấn tô son nhìn hốc hác

Ai biết nàng một thời danh tiếng nhất

Khúc đàn ngân, ta mắt lệ tuôn tràn

Lắng tai nghe mà đau đớn vô vàn

Hai mươi năm vẫn hoài thương nhớ tiếc

Hồ Gươm xưa tưng bừng đêm yến tiệc

Đời phế hưng thành quách đã thay dời

Bãi nương dâu hóa biển sóng trùng khơi

Cả cơ nghiệp Tây Sơn đều suy thoái

Làng ca múa một người còn sót lại

Đời trăm năm một nháy mắt trôi qua

Nhớ chuyện xưa mà áo thấm lệ nhòa

Từ Nam về đầu ta đầy tóc bạc

Trách chi nàng đã tàn phai nhan sắc

Kể chuyện xưa hai mắt xót thương sầu

Giáp mặt nhau mà chẳng nhận ra nhau ….


(trích Long Thành Giai Nhân của Nguyễn Du -

Hải Đà phỏng dịch)

Đời Đường âm nhạc đã được phát triễn rõ rệt, nhờ hấp thu nhiều giai điệu của ngoại quốc nhập vào . Ngoài những dụng cụ nhạc cũ tạo âm thanh bằng cách thổi như tiêu, sáo, kèn, còi v.v.. hoặc gãy như huyền cầm ,thập lục, thất huyền .. hoặc bằng cách gõ như chiêng, trống, phách, ngọc thạch, mã não. Để làm phong phú cho dàn nhạc cũ này thì có những nhạc cụ khác Tì bà, Hồ già, Giốc lật, Khương địch. Bát âm của âm nhạc thời Đường là dựa trên chất liệu của nhạc khí làm tiêu biểu như : Ti (đàn), Thạch (khánh), Kim (chuông), Trúc (sáo), Mộc ( mõ gỗ), Thô (trống đất), Bào (vỏ bầu), Cách (trống da) .. Ngũ âm của họ là Cung (như vua), Thương, Giốc, Chủy (như việc), Vũ (như vật) … Trong những loại đàn cổ xưa của Trung Quốc phải kể đến đàn sắt và đàn cầm gồm 50 dây (ngũ thập huyền) .

Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn sắt (gồm 50 dây) tế trời . Nhưng Phục Hy không bằng lòng và ngăn cấm xử dụng vì nghe tiếng đàn quá tê tái , não nuột bi ai thảm thiết. Vì thấy dân chúng vẫn lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi đàn sắt chỉ còn lại 25 dây . Đàn tranh của âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhiều người cho rằng xuất xứ từ cây đàn sắt của Trung Quốc nhưng chỉ gồm có 16 dây thôi (còn gọi là đàn Thập Lục), giống như 16 tiếng chim nhạn, âm nhạc Việt Nam là ngũ cung (mỗi âm giai có tên Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ , so sánh với Hò, Xự, Xàng, Xê, Cống. 15 nốt chính tạo từ 3 âm giai (mỗi 5 giai là 5 tiếng đàn Hò Xự xàng Xê Cống), cọng thêm một nốt chúa đàn, nên có tất cả là 16 dây .

Đàn Tỳ Bà (pipa) là loại đàn “luýt” (lute) , nhạc cụ dây, thân có hình trái lê, chơi bằng cách gảy ngón tay , và gồm có 4 dây (four-stringed lute), được gảy bằng 2 ngón tay . Đời nhà Hán (206-220), đàn Tỳ Bà có 4 dây và 12 phím đàn . Tuyên Phủ (đời Tấn ) đã viết “ Đàn Tỳ Bà xuất hiện, được dùng nhiều vào cuối đời Tần (222-207), khi dân chúng bị triều đại phong kiến bắt đi lao động khổ sai để xây dựng Vạn Lý Trường Thành và họ đã gảy đàn Tỳ Bà để dùng tiếng đàn thê lương ảo não nói lên sự than oán uất nghẹn trong lòng mà họ không được quyền nói ra bằng lời “.

Cái kỹ thuật của đàn Tỳ Bà được diễn tả đòi hỏi khéo léo bằng những ngón tay và trình độ điêu luyện của người nghệ sĩ. Những âm thanh rung lên kéo dài tạo tiếng vang rền , hòa lẫn với các đọan nhạc bật (pizzicato), tiếng vỗ nhịp bằng tay, thêm vào phần hòa âm rung động, với những tiếng động hoặc âm thanh chát chúa của vũ khí thêm vào âm điệu của bài thơ diễn tả những cảnh chiến trường như những trận đánh nổi tiếng trong thế kỷ thứ hai BC giữa Sở (Hạng Võ) và Hán (Lưu Bang) như bài “Thập Diện Mai Phục” .

Tiếng đàn tỳ bà đó cũng thấy trong những bài thơ tả cảnh biên tái, chiến trường thê lương, diễn tả những cảm xúc hùng tráng hiên ngang của người chiến binh lên đường, cũng như những tư duy ngậm ngùi thầm kín chấp nhận cho số phận an bài trước cảnh chia ly não nùng :

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Lương Châu Từ (Vương Hàn)

Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Ly chưa cạn, tiếng tỳ bà giục đi
Sa trường say, mỉa làm chi
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về
(Hải Đà phỏng dịch)

Hãn hải lan can bách trượng băng
Sầu vân thảm đạm vạn lý ngưng
Trung quân trí tửu ấm quy khách
Hồ cầm tì bà dữ Khương địch
(trích Bạch Tuyết – Sầm Tham)

Biển cát làn băng trắng vạn phương
Mây sầu muôn hướng phủ thê lương
Trại quân bày rượu nâng ly tiễn
Tiếng nhạc Hồ, Tì quyện sáo Khương
(Hải Đà phỏng dịch)

Tỳ Bà cũng là một nhạc cụ được dùng trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, thuộc loại “ họ dây” (chordophone) . Những loại đàn cùng họ này như : đàn nguyệt, đàn tranh, đàn nhị, đàn bầu, đàn đáy, đàn hồ v.v..

” Tỳ Bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa.Người ta chế tác Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.

Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol -Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa .Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc, Thi nhạc của cung đình, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.

Tiếng đàn Tỳ Bà đã tạo nên những âm thanh huyền diệu, ăm ắp nhạc tính, tràn trề nhịp điệu trong một một số thi ca Việt Nam . Bài Tỳ Bà của Bích Khê, lời thơ dạt dào chất nhạc, thơ là nhạc, nhạc là thơ. Bài thơ đầy thanh bằng đã tạo nên những nhịp rung êm ái nhẹ nhàng du dương làm chùng lòng người nghe . Hàn Mạc Tử đã nhận định về thơ Bích Khê : “ Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu …” . Cái huyền diệu đó đã làm tuôn trào những cảm xúc lãng mạn xao xuyến, đã mỹ hóa những ngôn từ tha thiết , chất ngất thanh âm quyến rũ, chất thơ ướt đẫm nhạc qua những tiếng tỳ bà rung nhẹ đã “gây đê mê” , làm người “chơi vơi” , cho tình “du dương” , cho hồn “phiêu diêu”, giữa một khung trời “thu mênh mông” chất ngất, mơ hồ và huyền ảo và lúc đó không còn phân biệt hư thực, mà chỉ còn biết : “ Cây đàn yêu đương làm bằng thơ , Cây đàn yêu đương run trong mơ …” và tiếng đàn du dương theo bàn tay êm ái của màn đêm đang giăng mềm trên muôn phím tơ vàng …

Tỳ Bà (Bích Khê )


Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm

Trăng đan qua cành muôn tay êm

Mây nhung pha màu thu trên trời

Sương lam phơi màu thu muôn nơi



Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Tương tư người xưa thôi qua đây

Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề

Hoa vừa đưa hương gây đê mê



Cây đàn yêu đương làm bằng thơ

Cây đàn yêu đương run trong mơ

Hồn về trên môi kêu: em ơi

Thuyền hồn không đi lên chơi vơi



Tôi qua tìm nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung Thương

Tôi không bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang tôi nghe như tình lang



Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi

Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi

Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi

Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi



Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu

Sao tôi không màng kêu: em yêu

Trăng nay không nàng như trăng thiu

Đêm nay không nàng như đêm hiu



Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông
Bích Khê


Trong bài thơ thi vị chan chứa nhạc điệu một cách đặc biệt mà người đọc khi đọc lên có cảm giác lành lạnh xen lấn vào tận xương tủy, phải nói đến bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu . Bài thơ đã tạo nên những làn sóng âm thanh rung động muôn chiều, những tiết tấu nghệ thuật mỹ cảm đa dạng, đã truyền đạt quyến rũ dẫn dắt người nghe lâng lâng đi vào quỹ đạo vô hình , xa vời hiện thực, ở đó lấp lánh lung linh sáng chói những vì sao siêu linh biểu tượng hồn nhạc trầm buồn man mác trong những vần thơ hoài cảm xao xuyến , thấm thía khi lặng yên “Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê “



Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân …



Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh

Lung linh bóng sáng bỗng rung mình,

Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh



Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi !

Long lanh tiếng hận vang vang hận:

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người .



Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Xuân Diệu 1944 – Nguyệt Cầm )


Mường tượng đến tiếng đàn xưa, nghĩ đến cái tâm tình hoàn cảnh éo le của người kỳ nữ trên bến nước Tầm Dương đã tạo nên mối cảm hoài bâng khuâng, cho người thơ liên tưởng đến cái buồn ray rức tiếc nuối , một cái buồn rười rượi, một cảm giác khắc khoải nao lòng, để người thơ phải trở gối thao thức suốt đêm trường lúc nào không hay :


Nghe Hát (Vũ Hoàng Chương)



Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm

Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm

”Canh khuya đưa khách …” . Lời reo ngọc .

Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm

Ai lạ nghìn thu, xa tám cõi ,

Sen vàng như động phía châu liêm

Nao nao khói biếc hài thương nữ ;

Trở gối, hoa lê rụng trắng thềm .
Vũ Hoàng Chương (Thơ Say)

Âm nhạc và nhịp điệu man mác tình tứ, chan chứa những giọng điệu buồn bã thương cảm và lưu luyến của người kỹ nữ trên bến sông Tầm Giang . Giọng điệu thơ chan hòa màu sắc tha thiết, mong mỏi tìm sự chia sẻ, cảm thông một nỗi buồn sâu thẳm từ một khung trời dĩ vãng xa xăm nào đó, khi nỗi nhớ gọi về …

Nguyệt chẳng phải tỳ không càng không cầm với sắt

Tai dẫu nghe mà lạ tiếng tre

Cung Sế lẫn cung Hồ dìu dặt

Mình tơ réo rắt

Hồn trúc đê mê

Những thanh âm nhạc điệu chửa từng nghe

Như đưa vẳng tự vô cùng xanh ngắt

Đầy nhớ thương tha thiết gọi ta về
(Tối Tân Hôn – Vũ Hoàng Chương)


Tiếng đàn trên sông trong đêm khuya khoắt, ôi não nùng làm sao … nỉ non, đê mê, nức nở.. Đó là “tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian”, âm vang còn rơi rớt đọng lại như nhắc nhở “Thiên tình sử não nùng xưa” . Người thơ đã có những cảm giác vướng víu, phân vân, trống trải, cô đơn, lạnh lẽo trong hoài niệm bâng khuâng về một thoáng tình đã trôi qua, sự đợi chờ mòn mỏi vô định … Phải chăng nhà thơ có con tim cùng chung nhịp điệu với người kỹ nữ trên bến Tầm Dương ….


Đàn Nguyệt (Thế Lữ )

(Trên sông Hương một đêm trăng)

Lòng ta hỡi! Thôi đừng lên tiếng nữa!

Lặng mà nghe đờn nẩy khúc sầu thương.

Ngón tay rung, rung động cả đêm sương.

Khiến trăng nước đắm mơ hồ ly-biệt,

Khiến trong gió ngưng đọng niềm thống-thiết

Của bao nhiêu người đẹp khát tình duyên

Ôm nhớ nhung còn nức nở bên đèn.



Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng,

Tiếng bi-ai như vẽ hình cay đắng

Của chia-phôi, cùng thương tiếc đợi chờ

Trong bao thiên tình sử não nùng xưa.



Thấy chăng ai? trên sông khuya im sóng

Bâng-khuâng trôi một con thuyền mơ mộng,

Thuyền lênh đênh gieo giữa cõi sương tan

Tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian.

Biết chăng ai? bao nhiêu điều cực-khổ

Với bao nỗi hờn oan trong vũ-trụ

Cùng hẹn-hò thu lại một đêm nay,

Đương nỉ non thánh thót ở trên giây,

Theo ngón đê-mê của bàn tay nghệ-sĩ.



Thuốc độc êm đềm, ôi! giọng đàn kiều-mị,

Bởi vì đâu gieo xuống mãi lòng ta

Những giọt nồng tê-tái vị say xưa?


Hàn Mạc Tử cũng đã có lần đi thuyền trên sông trăng , và cũng đã được nghe một tiếng đàn ai oán của một người ca nữ nào đó và cũng có lẽ cũng đã thăm hỏi … Câu hỏi sững sờ của Hàn Mạc Tử cũng là câu trả lời đơn giản nói lên cái tâm trạng chua xót của người mang kiếp cầm ca trên bến sông .. trong cơn mê hay tỉnh, nào ai hay biết, chỉ biết trầm mình vào những phím đàn nỉ non tê tái cho thân phận mình , để tìm quên , mê mệt trong “Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh ..”


Đàn Nguyệt (Hàn Mặc Tử )


Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm

Non nước từng phen nổi tiếng tăm

Bạc mạng đàn chơi đau nửa kiếp

Đồng tâm tơ buộc chặt quanh năm

Chường mình trước án trông đầy đặn

Nép mặt trông hoa nói thỉ thầm

Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh

Thuyền ai thấp thỏm muốn ôm cầm.


Chàng Tư Mã Giang Châu đã gặp người kỹ nữ như là tri âm tri kỷ, như Tử Kỳ-Bá Nha “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vẫn mãi là giai thoại đẹp muôn đời . ”Một đêm đàn lạnh trên sông Huế . Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh” .. một vạt áo xanh đã đẫm ướt không phải vì sương lạnh hay những giọt mưa đêm lất phất, mà chính là những giọt lệ sầu tê tái muôn thuở .. Hình ảnh của người kỹ nữ trên sông có thể chỉ là một ẩn dụ, mà cây đàn là biểu tượng để nói lên tiếng lòng của người thơ .. “Này em hát khúc tương tư nhé “ …”Sao đàn u hoài gì mùa thu ? “ Người thơ đã sống thực của đời thường hay đã đắm chìm trong cõi mộng ảo lúc nào chẳng hay, để mà âm thầm luyến tiếc những giây phút thơ mộng một thời yêu dấu đã đi vào dĩ vãng ..

Văn Cao là một nhạc sĩ thì khỏi phải nói những ý nghĩ và tứ thơ của ông phong phú, tràn trề nhạc tính, và man mác không gian Đường Thi …“Tà tà trăng lặn hiu hiu gió …Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi …Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương “ … làm người đọc liên tưởng đến một bến sông thu ở Phong Kiều Dạ Bạc “ Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ, Cầu phong đốm lửa giấc sầu mơ …” mà thay vì tiếng chuông làm sững sờ khách thơ, mà lại là tiếng đàn lạnh trên sông Huế làm ngơ ngẩn thuyền khách … quyến luyến một chút gì hoa lệ vàng son đã khuất xa … chỉ còn là bóng sao mờ dần.. “Em cạn lời thôi anh dứt nhạc …Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh …” . Con thuyền ấy đã đưa khách về đâu ? đã chở tiếng đàn ấy về đâu ? phải chăng về một khung trời vạn cổ xa xăm nào đó …


Một Đêm Đàn Lạnh Trên Sông Huế (Văn Cao )


Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi

Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi

Này em hát khúc tương tư nhé

Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời



Sao đàn u hoài gì mùa thu?

Sao đàn u hoài gì mùa thu?

Tri âm nghe thử dây đồng vọng

Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru



Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha

Em nghe anh dạo khúc thu xa

Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ

Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà



Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi

Từng canh trời điểm một sao rơi

Tà tà trăng lặn hiu hiu gió

Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi



Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương

Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương

Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác

Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương



Em cạn lời thôi anh dứt nhạc

Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh

Một đêm đàn lạnh trên sông Huế

Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Văn Cao

Cái tâm trạng của người kỹ nữ với chiếc đàn tỳ bà trên bến nước Tầm Dương có lẽ cũng ngậm ngùi đau đớn, chua xót không kém gì cô gái mang kiếp cầm ca trong bài thơ “Lời Kỹ Nữ “ của Xuân Diệu . Cái nội tâm dày vò, dằn vặt, thương xót và tủi nghẹn cho cái thân phận không may mắn trong cuộc đời thật là lớn lao .. ”Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn (XD) . Cái tuyệt vọng của cô đơn, cái nỗi chán chường xót xa, càng thấm thía buốt nhói như “Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da” (XD) … Và khi lời ca, âm nhạc, tiếng đàn chấm dứt , khi những hình ảnh chập chờn xa dần của “ Trăng từ viễn xứ .. đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn “ .. cũng là lúc mắt lệ rưng rưng , lòng buồn vời vợi, nỗi cô đơn trống vắng, tê điếng rụng rời, chan hòa với cái lạnh giá lan tỏa của vầng trăng mộng mị, trên sóng nước chập chùng trôi xa về một bến bờ triền miên vô định :


”Xao xác tiếng gà . Trăng ngà lạnh buốt

Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi

Du khách đi – Du khách đã đi rồi … “
Lời Kỹ Nữ (Xuân Diệu)


Thử xem Bạch Cư Dị đã diễn tả tiếng đàn như thế nào? một cách say sưa, có ma lực ám ảnh trí tưởng tượng và chiếm lĩnh trái tim của người đọc dù chưa nghe qua tiếng đàn . Tiếng đàn đã thay đổi theo từng biến chuyển từng giây từng phút, lúc thì như tiếng mưa tỉ tê thánh thót làm lòng người muốn tê tái ủ rũ, lúc thì ào ào như suối đổ, chung hưởng cái ngây ngất mừng reo vui sướng, lúc não nùng réo rắt như vỡ tuôn dòng nước, lúc thì ân hận buồn bực vỡ oà lên khi tiếng tơ lạnh ngắt, và đủ âm thanh cung bực đẫn dắt người nghe giao động bồi hồi hoang mang lạc lẫm từ cảm giác nầy qua cảm giác khác khó lòng mà gỡ rối tìm đường ra …

“Dây to nhường đổ mưa rào

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau

Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ

Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước

Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao

Cung đàn trọn khúc thanh tao

Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây”

Phan Huy Vịnh dịch

Tiếng đàn đã chấm dứt, nhưng Bạch Cư Dị đã dùng đôi mắt nghệ sĩ tinh tế của mình từ khung cảnh thiên nhiên mênh mông vô tận để chắt lọc những nét chấm phá thủy mạc tiêu biểu nhất hầu ghi nhận lại những âm thanh huyền diệu lắng đọng hình như còn lãng đãng rơi rớt đâu đây :

Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
(Thuyền bè đông tây lặng im không một tiếng nói
Thấy giữa lòng sông một vầng trăng thu vằng vặc)


Bàn về tiếng đàn trong truyện Kiều , Nguyễn Du đã dùng những ý tưởng sinh động và gợi cảm của bài Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn để miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều khi hội ngộ cùng Kim Trọng , nhưng tiếng đàn ở đây không ảo não ai oán thê thiết như người kỹ nữ trên bến Tầm Dương, nhưng ta thấy những tiếng đàn mà Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe không thấm đượm vẽ lâm ly, ai oán não nùng vì đây là nỗi mừng vui của hội ngộ đoàn viên với người tình xưa Kim Trọng . Tưởng cũng nên nhắc lại “cẩm sắt” thường được dịch là đàn gấm hay đàn sắt, là loại đàn lớn, làm bằng gỗ cây ngô đồng có chạm trổ. Tiếng đàn của Thúy Kiều biểu lộ sự sung sướng, thỏa mãn như “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”, “ấm sao hạt ngọc” … nhưng tại sao lại có sự đối chọi “tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao “… Phải chăng Nguyễn Du muốn ám chỉ : “ vui là vui gượng kẻo là”



” Phím đàn dìu dặt tay tiên

Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa

Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh ?

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ?

Trong sao châu nhỏ duềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông !
Lọt tai nghe suốt năm cung

Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao .”

Nguyễn Du (Truyện Kiều)

Tưởng cũng ghi lại lại đây bài thơ nguyên tác Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn để tìm sự liên hệ đồng cảm về ý tưởng mà Nguyễn Du mà muốn vay mượn để diễn tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm ly cách :


Cẩm Sắt


Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,

Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,

Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.

Thưng hải nguyệt minh châu hữu lệ,

Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.

Thử tình khả đãi thành truy ức,

Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên.

Lý Thương Ẩn


Đàn Gấm


Đàn gấm vì sao năm chục dây

Mỗi dây thầm nhớ tuổi hoa bay

Sớm mơ hóa bướm Trang sinh đó

Xuân mộng lời quyên Vọng đế nầy

Trăng biển long lanh hàng lệ biếc

Ngọc Lam nồng ấm khói vờn mây

Tình xưa gợi nhớ trang hoài niệm

Duyên cũ chơi vơi luống đọa đày

Hải Đà phỏng dịch



Còn thêm một tiếng đàn khác với muôn vàn cung điệu được diễn tả một cách rất tài tình bởi một thi sĩ đời Đường mà thiên hạ thường gọi là Thi Quỷ Lý Hạ, là một thiên tài đã bị lãng quên. Lý Hạ là một hiện tượng kỳ dị trong nền thi ca Trung Quốc, thơ của ông được truyền tụng là “Thi trung hữu quỷ “ (trong thơ có quỷ ), nghe thật là quái đãng làm sao! Thơ của ông ảo não, ai oán, bi hận, vương vấn cõi âm mờ mịt, gây ấn tượng kỳ lạ trong lòng người đọc … Ông đã lận đận trên đường công danh sự nghiệp, bị người đương thời ti tiện dèm pha ganh ghét … như Lý Hạ đã từng uất hận thổ lộ tâm tình “ hai mươi tuổi mà chưa hề đắc ý , tấm lòng sầu tựa cánh lan khô “ (Ngã đương nhị thập bất đắc ý , Nhất tâm sầu tạ như khô lan ) . Bài thơ cảm hứng từ lời ca tiếng nhạc của Lý Hạ được nhiều người biết đến là bài “ Lý Bằng Không Hầu Dẫn “ – bài ca về tiếng đàn “không hầu” của Lý Bằng , là loại đàn xưa gồm 25 dây dùng ngón tay búng mà phát ra âm thanh . Theo tác giả Huỳnh Ngọc Chiến tuyển dịch và bình chú :“ Chơi đàn là một nghệ thuật, nghe đàn lại là một nghệ thuật khác không kém . Thơ ca Trung Quốc và Việt Nam thường có nhiều bài thơ nói về tiếng đàn. Nghe nhạc đến mức như Lý Hạ đã là bậc thượng thừa . Nhà thơ phải nhờ vào những cái tượng hình để diễn tả thanh âm, phải thác vào những cái không phải nhạc để nói lên nhạc, nên bài thơ dễ trở thành sáo rỗng . Nhưng những thi sĩ chân tài khi đem cái tài hoa của mình để trộn lẫn vào cái sáo rỗng thì cái sáo rỗng cũng trở nên bay bướm thanh tao . Thử hỏi tiếng ngọc vỡ hay tiếng phượng hoàng hót thì nói được gì về âm nhạc ? Giả sử có kẻ tài tử nào đó trong đời đem tiền muôn bạc vạn mua ngọc về đập vỡ để nghe được tiếng ngọc tan, vì thói cuồng ngông một thuở , thì cái đó cũng chỉ được trong muôn một . Nào phù dung khóc sương mai, nào hương lan hé nụ, nào những dư ba vang động đến chín tầng trời … cũng đều là sự biểu hiệu của tâm hồn trong một tiếng tơ “(HNC – Lý Hạ Quỷ Tài Quỷ Thi)



Lý Bằng Không Hầu Dẫn



Ngô ti Thục đồng trường cao thu

Không sơn ngưng vân đồi bất lưu

Nữ Oa đề trúc, Tố Nữ khấp

Lý Bằng Trung Quốc đàn không hầu

Côn Sơn ngọc toái phượng hoàng khiếu

Phù dung khấp lộ hương lan tiếu

Nhị thập môn tiền dung lãnh quang

Nhị thập tam ti động Tử hoàng

Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ

Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ

Mộng nhập thần sơn giáo Thần ẩu

Lão ngư khiêu ba sấu giao vũ

Ngô Chất bất miên ỷ quải thọ

Lộ cước tà phi thấp hàn thố

Lý Hạ (789-816)



Tiếng Đàn Không Hầu của Lý Bằng



Tơ Ngô gỗ Thục cung đàn

Mây thu đứng lặng, núi ngàn quạnh hiu

Tiếng ai khóc trúc tiêu điều

Lý Bằng dạo khúc cô liêu ngỡ ngàng

Tiếng như phượng hót ca vang

Xót xa ngọc vỡ núi ngàn mênh mang

Phù dung nức nở sương tàn

Tiếng đưa hương ngát hoa lan mỉm cười..

Cổng đình rực sáng reo vui

Hăm ba dây động tơ trời chơi vơi

Tiếng như luyện đá vá trời

Mưa thu ngưng đọng rã rời thanh âm

Tiếng đàn ru giấc mộng thần

Giao long nhảy múa rập rờn cá bay

Người xưa thức trắng đêm dài

Trăng khuya thấm ướt gót hài đẫm sương

Hải Đà phỏng dịch

(bài thơ có nhiều điển cố nên tác giả chỉ xin phỏng dịch)

Tiếng đàn đã biểu lộ những tình cảm biến thiên của con người, nhưng tiếng đàn cũng cảm hóa lòng người, mang sự thanh thoát nhẹ nhàng để khai ngộ, như một bài thơ của Lý Bạch hàm chứa một triết lý sâu xa về cuộc đời khi diễn tả tiếng đàn của Thục Tăng Tuấn, một ẩn sĩ thiền tu ở núi Nga My .. Tiếng đàn ngân vang khi ráng chiều buông phủ, sương trắng mờ ẩn hiện ...nghe như tùng reo vang trong khe suối, như tiếng nước chảy róc rách rửa sạch mọi ưu phiền tục lụy trong cuộc sống đời thường, với tiếng chuông văng vẳng đâu đây để người thơ thấu suốt sự lý, liễu ngộ trần tục .. Tiếng đàn của Thục Tăng đã đem đem lại sự vi diệu của trí huệ, triển khai cuộc sống con người đến thế giới lâng lâng siêu thoát của thiền thi và đạo pháp.

Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm

Thục tăng bão lục ỷ
Tây hạ Nga My phong
Vị ngã nhất huy thủ
Như thính vạn hác tùng
Khách tâm tẩy lưu thủy
Dư hưởng nhập sương chung
Bất giác bích sơn mộ
Thu vân ám kỷ trùng
Lý Bạch

Nghe Sư Thục Gảy Đàn Cầm

Thục Tăng ôm chiếc đàn cầm
Từ phương Tây xuống đến gần Nga My
Vì ta gảy khúc trúc ty
Nghe như tùng bách thầm thì dưới khe
Nước trôi rũ sạch lòng mê
Sương rơi huyền ảo vọng về tiếng chuông
Núi xanh phủ bóng chiều buông
Mây thu lớp lớp chập chùng mênh mang
Hải Đà phỏng dịch

Bài thơ Đàn Cầm và U Cầm của Lưu Trường Khanh đã diễn tả tiếng đàn thanh trong, dìu dặt , êm ái , dịu dàng như hơi gió lành lạnh thoảng qua làm rung nhẹ những ngọn thông vi vút … giống như khúc “Phong nhập tùng” (Gió thổi cành thông) mà người xưa đã gửi gắm tâm tình qua tiếng đàn trầm bổng ngân rung .. Bài thơ của Lưu Trường Khanh đã muốn nói lên cái tâm sự tiếc thương nhung nhớ khúc đàn xưa êm ái, tức là đàn cầm thường hay xử dụng vào thời Hán ngụy, Lục triều … đến khi qua đời Đường thì người ta lại thích gảy đàn Tì bà hơn .

Đàn Cầm

Lãnh lãnh thất huyền thượng
Tịnh thính tùng phong hàn
Cổ điệu tuy tự ái
Kim nhân đa bất đàn
Lưu Trường Khanh

Gảy Đàn Cầm

Bảy dây thánh thót đàn rung
Lắng nghe hơi lạnh gió tùng đong đưa
Tuy rằng ta thích điệu xưa
Ngày nay chẳng mấy ai ưa gảy đàn …
Hải Đà phỏng dịch


U Cầm

Nguyệt sắc mãn hiên bạch
Cầm thanh nghi dạ lan
Lưu lưu thanh ti thượng
Tịnh thính tùng phong hàn
Cổ điệu tuy tự ái
Kim nhân đa bất đàn
Hướng quân đầu thử khúc
Sở quý tri âm nan
Lưu Trường Khanh

Đàn Buồn

Ngoài hiên trăng tỏ trắng ngần
Đêm nghe trầm bổng tiếng đàn nhẹ bay
Dây tơ dìu dặt ngất ngây
Lắng nghe gió lạnh lắt lay thông ngàn
Đàn xưa ta thích vô vàn
Ngày nay mấy kẻ thích đàn .. than ơi !
Đàn đây.. gảy khúc tặng người
Tri âm muốn gặp trên đời khó thay !
Hải Đà phỏng dịch

Thi sĩ Lạc Thủy Đỗ Quý Bái là người rất có lòng mến mộ Đường Thi từ khi còn trẻ. Ông cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều về bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Sau Tết Mậu Thân, vào thời điểm thương phế binh đã hy sinh một phần thân thể của mình, nhưng không được chính quyền quan tâm giúp đỡ, đã phải "kiếm đất cắm dùi" dành quyền sống, nhà thơ Lạc Thủy đã xúc động trước hoàn cảnh thương tâm bi đát của xã hội, và thêm vào đó Ông cũng cảm thấy đau lòng trước sự mất mát, ra đi vĩnh viễn của người bạn hiền thân thiết, một bạn đồng song có lương tâm của Ông là BS Phạm Đình Bách đã bị pháo kích và tử thương trong cuộc chiến, nên thi sĩ Lạc Thủy đã xúc động sáng tác bài trường thi "Đoạn Trường Ngâm Khúc", cũng theo thể song thất lục bát. Bài thơ này cũng được tác giả đặt tên là "Bài Ca Trên Bến Sông" cùng mang một hoài cảm, cấu trúc, và thể điệu như bài Tỳ Bà Hành, mà âm thanh huyền diệu đem lại sự rung động xao xuyến trong bài thơ là tiếng sáo đồng thay vì tiếng đàn tỳ bà. Bài thơ đã thể hiện được sự tương giao mật thiết giữa đời sống nội tâm, xã hội chung quanh, và nỗi niềm nhân thế. Qua sự diễn tả tiếng sáo vi vút trầm bổng, thê lương não nuột, tê tái bi phẫn, len thấm vào tâm hồn người đọc, vang vọng khôn nguôi, tác giả chỉ ước vọng dùng : "Bút cùn ghi đoạn tràng một khúc . Mong thế nhân trong đục tỉnh say. Soi gương tự ngắm mặt mày. Sao cho dân Việt đỡ cay đắng lòng … LT- ĐQB"

Nếu khách chẳng chê rằng rầu rĩ
Cũng xin chiều nhã ý vài hơi
Tay thần rung vuốt nhặt lơi
Không gian phút chốc ngập lời oán than
Nghe chua xót bào gan xé ruột
Nghe thảm sầu tê buốt óc tim
Nước cau mày lệ im lìm
Trăng tà ảm đạm khuất chìm trời tây
Gió gây gay cho đầy nuối tiếc
Mây bàng hoàng đặc sệt hờn căm
Trầm như ma khóc cõi âm
Cao như trời thẳm bặt tăm phi thuyền
Giốc, chủy rũ ré lên nức nở
Đồ rê mi rung vỡ sao khuya
Trắng sông sương muối ủ ê
Ngàn dừa hiu quạnh lê thê dâng sầu
Ai ngăn nổi rầu rầu nét mặt
Khi điệu buồn lan khắp sơn khê
Tiêu điều như đọan như chia
Chủ nhân gác sáo tái tê thở dài
Đoạn Trường Ngâm Khúc / Bài ca Trên Bến Sông
(Lạc Thủy- Đỗ Quý Bái)

Bài thơ "Đoạn Trường Ngâm Khúc" là một bản giao hưởng đầy màu sắc và âm điệu Đường Thi, đã biểu lộ được sự phong phú mẫn cảm của tâm hồn, phản chiếu những tình cảm tinh tế của con người, đầy trắc ẩn nhân tình, giọng điệu thơ trang nhã và thẩm mỹ, mang cốt cách thi nhân cổ điển. Tiếng sáo ngân vang réo rắt muôn cung điệu trong bài thơ , đã phản ảnh thực tại của đời sống, cũng chính là tiếng lòng riêng tư thầm kín mà tác giả muốn bộc bạch một cách thuần hậu chân tình . Phải chăng Thơ để hóa giải nỗi lòng khắc khoải, niềm đau thương tê tái và uẩn khúc ưu thời của thi nhân ?

Thật phức tạp khó lòng mô tả
Giá được như Tư Mã Giang Châu
Lắng tai nghe trọn niềm sầu
Ắt là hợp ý tâm đầu cũng nên
(Lạc Thủy – Đỗ Quý Bái)

Chu Mạnh Trinh trong tập thơ Vịnh Kiều với ý tứ cảm động và lời lẽ nhẹ nhàng, đã bày tỏ nỗi niềm tâm can với tất cả chân tình dạt dào cảm xúc, đã bênh vực cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, phải chăng ông đã muốn mượn hình ảnh của người ca kỹ trên bến Tầm Dương dể ngụ ý nói lên cái thuyết tài mệnh tương đố của người phụ nữ có tài sắc bị ba chìm bảy nổi trong biển khổ trầm luân : “ Than ôi! Một bước phong trần mấy phen chìm nổi, trời tình mờ mịt, bể giận mênh mông . Sợi tơ mành theo gió đưa đi ; cánh hoa rụng chọn gì đất sạch . Ai dư nước mắt khóc người đời xưa, thế mà giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa …“ (Bài Tựa Truyện Kiều- CMT – Đoàn Qui dịch) ..

Cái buồn rười rượi trong những dòng thơ cảm xúc nhân thế, ngậm ngùi cho cõi nhân sinh, mang nỗi thống thiết, buồn đau kim cổ, qua hình ảnh của người xưa, vọng lên từ đáy hồn sâu thẳm của người thơ. Cái thân phận bèo dạt hoa trôi của người ca kỹ bến nước Tầm Dương hình như mơ hồ ám ảnh trong nhiều bài thơ của Vũ Hoàng Chương :


Thuyền buộc sông mưa

Ngựa dừng trăng khuyết

Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt

Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu

(Dâng Tình - Vũ Hoàng Chương)


Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ

Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ

Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi

Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ

Có lẽ ngàn xưa là đáy sông

Đêm đêm giọt lệ gái xa chồng

Đè theo đôi tiếng Tỳ hư ảo

Dâng tới thuyền ai ngủ bến không …

(Đà Giang – Vũ Hoàng Chương)


Đàn rưng rưng lệ phách dồn mưa

Tiếng hát tàn rơi hận thuở xưa
Bụi nhuốm Thiên Thai nhòa hứng rượu

Đời sau say giúp mấy cho vừa

Cô đơn men đắng sầu trăng bến

Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa

Nhịp đổ càng mau nghe ríu ríu

Tê rời tay ngọc lúc buông thưa

(Dựng – Vũ Hoàng Chương)


Bây giờ chúng ta hãy nghe Vũ Hoàng Chương diễn tả ý đàn , tức là cái hồn của tiếng đàn … Tiếng đàn ngân vang đã ca tụng cái niềm thi vị hoan lạc của thế gian .. “sóng đàn ngây nhịp chèo thơ “, chuỗi âm thanh êm ả, trong trẻo như “lòng hoa nghiêng dáng cầm trăng”, những tiếng đàn làm dày vò trí nhớ, như một bản năng khao khát và mãnh liệt, ám ảnh đưa người thơ gợi nhớ một chiều xưa nào đó trên bến sông “ hững hờ nước trôi “ . Một tiếng đàn, một âm thanh, một hình ảnh rất tình cờ, cảm nhận và khởi phát từ một vô thức đột ngột nào đó, như một mạch ngầm tuôn chảy hồn nhiên, bỗng trở nên xao xuyến tình tứ lung linh, đã gây một sự chấn động hồn thơ, vọt trào cảm hứng, gây sự thôi thúc nội tâm người thơ, quằn quại trong một thế giới mông lung khó hiểu của thơ và nhạc quyện vào nhau : “Tiếng cầm chưa tắt dư ba . Nao nao nguồn máu lời ca vọng về …”



Ý Đàn (Vũ Hoàng Chương)



Mơ xanh đắng vị thu già

Sắt vàng chen, ngón tay ngà gió mưa

Chiều nay gợi nhớ chiều xưa

Bao giờ quên phút bây giờ cho chăng

Lòng hoa nghiêng dáng cầm trăng

Phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm

Lắng tai càng vẩn nỗi niềm

Thoắt dồn mau thoắt buông chìm tiếng tơ

Sóng đàn ngây nhịp chèo thơ

Mà bên thuyền chỉ hững hờ nước trôi

Một cung Lưu thủy ngậm ngùi

Men thiêng hồ dễ say người được sao

Lỡ nhau mùa chớm bông đào

Gặp nhau thà giấc chiêm bao trước đèn

Tỉnh thôi gối lệ đầm hoen

Tiệc tan bèo nước sầu lên hôn hoàng

Chơ vơ một đảo lòng hoang

Chiếu câm màu biển tường loang sắc trời

Quanh mình phấn rụng hương rơi

Cánh phiêu lưu chợt rã rời bướm hoa

Tiếng cầm chưa tắt dư ba

Nao nao nguồn máu lời ca vọng về

Rối tung hai mái tóc thề

Mây trời cỏ đất lê thê bóng chiều



Hội nhập trong tiếng đàn của Vũ Hoàng Chương là những “màu sắc” hài hòa trong thơ (Chiếu câm màu biển tường loang sắc trời ), phảng phất những “mùi hương” lãng đãng (Quanh mình phấn rụng hương rơi), những âm điệu nồng nàn quyến rũ mê li (phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm) , làm ta liên tưởng đến những ý tưởng lạ lùng trong bài thơ Huyền Diệu của Xuân Diệu :

Huyền Diệu (Xuân Diệu)



Này lắng nghe em hát khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn

Như hương thấm tận qua xương tủy

Âm điệu thần tiên thấm tận hồn



Hãy tự buông cho khúc nhạc hường

Dần vào thế giới của du dương

Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy

Hiển hiện hoa và phảng phất hương …



Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai

Giọng suối, lời chim, tiếng khóc ngươì;

Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc

Ngọt ngào than gọi thuở xa khơi …



Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im,

Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim

Còn cứ run hoài như chiếc lá

Sau khi trận gió đã im lìm

Xuân Diệu (Huyền Diệu)


Ở trong cái cái thế giới âm nhạc đó, người đọc sẽ cảm nhận được “hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng với nhau” ( Les parfums, les couleurs et les sons se répondent ) như lời của thi-sĩ Charles Baudelaire , người thơ của chán chường và tuyệt vọng đã diễn tả :

Comme de longs échos qui de loin se confondent

Dans une ténébreuse et profonde unité,

Vaste comme la nuit et comme la clarté,

Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.

Correspondances – Charles Baudelaire


Như tiếng vọng từ xa xăm lẫn lộn
Trong không gian sâu thẳm bóng đen dày

Mênh mông quá đêm dài và ánh sáng

Giữa thanh âm tương ứng sắc hương đầy
(Hải Đà)



Ý đàn buông lơi của Vũ Hoàng Chương như những sợi tóc tơ mềm mại đã tạo ra những hình ảnh hoài niệm diễm tuyệt và những xúc động lạ lùng cám dỗ ngấm sâu vào nội tâm …để cùng “rợn ý say” như một tâm trạng của Bích Khê :


Tóc xõa đàn tơ rơi lướt thướt

Hồn thu đã hiện khóc thu gầy

Tôi nhìn đôi mắt rưng rưng lệ

Cả mảnh hồn thơ rợn ý say

Tóc Xõa Đàn Tơ (Bích Khê)


Người kỹ nữ đó đã đánh mất tuổi thanh xuân , có còn chăng chỉ là tiếng đàn tỳ bà chan chứa lệ, đẫm ướt vạt áo xanh của chàng Tư Mã Giang Châu … Có lẽ trong chiều sâu ý tưởng của người thơ luống tuổi về chiều xúc động với những âm đàn tha thiết của người kỹ nữ trên bến nước Tầm Dương có những ý nghĩ thầm kín, cất dấu thăm thẳm trong lòng, chẳng bao giờ muốn bộc bộ cùng ai:


Nếu anh còn trẻ như năm cũ

Quyết đón em về sống với anh

Những khi chiều vàng phơ phất đến

Anh đàn em hát níu xuân xanh.

Có mây bàng bạc gây thương nhớ

Có ánh trăng vàng soi giấc mơ

Có anh ngồi lại so phím cũ

Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.



Nhưng thuyền em buộc trên sông Hận

Anh chẳng quay về với trúc tơ

Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt

Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.



Nếu có ngày nào em quay gót

Lui về thăm lại bến Thu xa

Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa

Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha...

Tình Cầm (nhạc Phạm Duy, thơ Hoàng Cầm)


Kết Luận: Trong thế giới huyền ảo của nghệ thuật âm nhạc, tiếng đàn tuyệt diệu chính là tiếng hát của con tim mẫn cảm, tác động tâm hồn và khêu gợi hình ảnh, tạo những nhịp đập cảm xúc mãnh liệt, những chuỗi liên tưởng gợi hình , đó là những âm thanh hữu tình nhờ năng lực huyền nhiệm của thi ca mà chấp cánh bay lượn trong khung trời cảm xúc vô biên . Tỳ Bà Hành là một nghệ thuật thơ siêu việt, đã gây mãi những ấn tượng cực kỳ sâu sắc, lắng đọng vào chiều sâu của tâm tưởng và trí tuệ . Bài thơ là sự kết hợp tài tình nhuần nhuyễn giữa ý từ , ngôn ngữ và âm thanh, giống như một bản hòa âm huyền diệu biến chuyển nhịp nhàng, mỗi điệp khúc là một hình tượng diễn cảm đặc biệt dẫn dắt người đọc đi hụt hẫng giữa mộng và mơ, giữa thực và ảo, không bến bờ, triền miên vô tận . Ý từ diệu vợi, phong vận tuyệt vời, ngôn ngữ gợi cảm và âm hưởng kỳ lạ của Bài Tỳ Bà Hành thắm đượm tình người, man mác ngậm ngùi cho cảnh đời dâu bể, đã kích động nguồn cảm ứng tự nhiên của tác giả. Người viết xin mạo muội gửi đến bạn dọc những cảm nghĩ riêng tư qua bài thơ Vô Đề 5:


Vô Đề 5


Gió thổi hắt tơ tình tung vạn hướng

Mắt sầu thu huyễn mộng tận phương nào

Thuyền long đong ngậm ngùi đêm tĩnh lự

Hồn ly hương quanh quất giữa ngàn sao



Từ thuở đó có bao giờ nghe lại

Tỳ bà xưa khe khẽ khúc cô liêu

Sương khói tỏa sa mù trên sông lạnh

Trái tim người hiu hắt phủ xanh rêu



Mưa sướt mướt xói mòn đêm ủ rũ

Lời hư không đồng vọng khúc bi trầm

Trăng cảm ứng từ trời cao bất tận

Cung bậc sầu tri ngộ với tao nhân



Khơi tro lạnh giữa dòng đời lưu lạc

Tìm men nồng trong rượu đắng nhân sinh

Khúc nhạc trỗi ân tình đêm quyến luyến

Mà sông trăng nước chảy vẫn vô tình



Đàn, sông lạnh cùng người không ước hẹn

Ngẫu nhiên sao che dấu một lời thề

Âm vang mãi muôn đời tình vĩnh cửu

Có đi xa ngàn dặm vẫn quay về …

Hải Đà - Vương Ngọc Long

(Bài sưu khảo nếu có gì thiếu sót và bất cẩn, kính mong sự lượng thứ
và thông cảm của quí bậc túc nho trưởng thượng và quí bạn đọc yêu thơ. )





Cung Đàn và Tình Thơ



Tay gầy từng nhánh xanh xao

Khẽ rung phiếm mỏng ngọt ngào điệu ru

Cung nào trầm bổng phiêu du

Đong đưa cánh nhạn tít mù xa khơi

Âm đàn luyến láy chơi vơi

Tiếng xao xuyến nhẹ ru đời chiêm bao

Cung nào dồn dập xôn xao

Đầu non suối đổ lệ trào biển dâu

Dây dưa một khúc tơ sầu

Dạ tê tái dạ, lòng đau đớn lòng

Triều dâng sóng bạc phiêu bồng

Trăm năm gió hút cuốn dòng sông xa

Cung nào man dại kiêu sa

Đôi bờ viễn mộng nở hoa ân tình

Gió đưa thuyền nhẹ lênh đênh

Chơi vơi cung thủy dập dềnh nổi trôi

Cung nào bạt gió lẻ loi

Sụt sùi mắt lệ khóc đời cô liêu

Nguyệt tà réo rắt thanh tiêu

Lắt lay cành trúc quạnh hiu canh trường

Ẩn tình vọng khúc quê hương

Mênh mang sóng nước vô thường dạt trôi

Cung nào nức nở hồn soi

Sông hồ lưu lạc lạnh đời ly hương

Ai về phơi bóng tà dương

Ngàn thu tịch mịch sầu vương mấy bờ

Lời ru từ thuở nguyên sơ

Vườn trăng rơi rụng tiếng thơ bàng hoàng

Cung nào thỏ thẻ oanh vàng

Giữa đêm đàn nguyệt gió ngàn đẫm hương

Cung nào ánh mắt em thương

Tiếng thơ dìu dặt du dương phím đàn …



Vương Ngọc Long

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.