Nov 08, 2024

Biên khảo

Lư Sơn Mạch Phú
Nguyên Thường * đăng lúc 05:30:18 PM, Mar 22, 2024 * Số lần xem: 246
Hình ảnh
#1





Lư Sơn Mạch Phú


Thường văn bệnh cơ uẩn ảo diệu huyền
Tuy vạn tượng phân vân, tu bát yếu dĩ dung hội.
Phù trầm dĩ biện kỳ biểu lý. Hữu lực vi thực, vô lực vi hư.
Tri sác dĩ định kỳ nhiệt hàn. Dương tắc đại bế, âm tắc tiểu.
Sắc lại kê trệ, tinh thương huyết thiểu chi nguyên.
Hoạt chí lưu thông, khí động đàm diên chi bổn.
Phù, đại, hoạt, sác: Dương mạch, tu ức dương dĩ phù âm.
Trầm, tiểu, trì, sắc: Âm kinh, khả chế hàn như ích hỏa.
Tam bộ kiến phù, đại nhi sác: Trùng dương bệnh tắc vọng cuồng.
Lục mạch lai trầm, tiểu nhi tri: Trùng âm chứng dương quyết nghịch.
Dương bộ kiến âm mạch chí âm thừa dương vị tu tri.
Âm bộ kiến âm mạch lai, dương đoạt âm cung khá thức.
Trầm tiểu thương thấp, sác thì nhiệt nhi tri thị hàn.
Phù đại cảm phong, hoạt nãi đàm nhi sắc nãi huyết.
Hữu thủ khí khẩu mạch đại, nội thương chân trị căn nguyên.
Tả thủ nhân nghinh mạch cuồng, ngoại cảm bổn kỳ thân thích.
Hư tắc bổ nhi thực tắc tả, hàn khả ôn, nhiệt khả lương.
Dục chi bệnh thế tử sang, dương khán mạch hình hư thực.
Nhiệt bệnh kiến trầm tiểu tắc tử, phát cuồng sang độc diệc phi nghi.
Hàn chứng lai trì, sác tắc sinh; tả lỵ, lậu băng vô bất dủ.
Cửu bệnh phù đại tối kỵ, Tân bệnh trầu tiểu nan lương.
Vị sản chi tiền nghi hoạt đại, bất nghi sắc tiểu.
Dĩ sản chi hậu hiệp trầm tiểu tối kỵ đại phù.
Tráng niên hoạt đại vi lương, nhược sắc tiểu mệnh chung bất cửu.
Lão nhược trầm tiểu vi kiết, nhược phù đại số lý nan trường.
Xuân hạ dương cường phù hồng kiết, trầm tiểu phi kiết.
Thu đông âm thịnh trầm tiểu xương, hoạt đại bất xương.
Mạch dữ thời thuận dã sinh, mạch dữ thời nghịch dã tử.
Tam quan tuy tuyệt bất kiến mạch, uất đàm bạo bệnh dị cứu sinh.
Lục mạch câu điểu hình nhục thoát, tử vô cầu tuyệt tắc bất sinh.
Mạch đại tắc tà thịnh bệnh tiến, tích tụ nghi hư tổn bất nghi.
Mạch tiểu tắc khí nghịch dương suy. Hư tổn lợi tích tụ bất lợi.
Mạch bệnh tương thuận tương sinh tắc kiết.
Mạch bệnh tương khắc tương phản tắc hung.
Phù sắc thậm ngoại hữu nội vô dương độc âm vong ác hậu.
Trầm trì cực, xích tổn thốn tuyệt âm cô dương thoát tử hình.
Xuân mộc can trường nghi trường hoạt bất nghi đoản sắc.
Thu kim phế thịnh hợp tiểu mao bất hợp đại hồng.
Hạ hỏa ứng tâm, phù hồng kiết trầm tiểu phi kiết.
Đông thủy thuộc thận, trầm tiểu xương hoạt đại bất xương.
Tứ quý nghi hoãn đại nhi phách hoạt trường.
Ngủ hành hỷ sinh vượng nhi ưu khắc hại.
Sạ trường sạ đoản chân vi tả tý mạch hình.
Hốt sác hốt trì tổng thị quỷ mị chi mạch.
Thượng bất chí thốn vi dương tuyệt, hạ bất chi xích chi âm vong.
Ốc lậu, hà du, tử mạch nhược quá trì quá sác chi tông.
Trước tác dũng tuyền, ác hậu bổn thậm hoạt, thậm phù chi loại.
Vô thái quá, vô bất cập, bất trì bất sác thị tồn vị khí chi danh.
Một đồng đẳng, một hoãn hòa, mạc phù mạc trầm, chân đắc bình nhân chi mạch.
Tu biện hữu lực, vô lực đàn khán tồn thần thất thần.
Mạch bệnh tương đồng, chứng tuy nghi nhi dị trị.
Mạch bệnh tương phản chứng tuy dị nhi nan y.
Nam bắc bất ứng chi niên tồn hồ khả sát.
Phì sấu trầm trì chi mạch tham dĩ đồng khán.
Bát yếu minh yên vạn bệnh chướng hỉ.
Dương tuyệt tứ ư xuân hạ, âm tuyệt một tại thu đông.
Dương tuyệt trú tử, âm tuyệt dạ vong.
Mạch chi tức chí điều hòa bất lập căn nguyên chân nãi chiết.
Chẩn khiến khứ lai xúc cấp kiên cường bổn trụ diệc vô ưu.
Lục mạch phân minh song trạng lưỡng nhật hoàn vong.
Xích bộ thăng giáng bất đồng âm dương tương thoát.
Phù đại quá sác độc dương chi ban.
Trầm tiểu quá trì cô âm chi biến.
Ứng nhi bất ứng thị ủy chân nguyên.
Chi hạ triền miên bức hàn khí trệ.
Yếu pháp du lai tùng bổn chủ khách thông tri.
Diệu nhiên đắc thủ cơ quan chính tà phán hỉ.
Lục bộ án chí sác chi ngưng nãi thị chân hàn.
Tâm quan nhược chẩn tuy trì nhất tác động trung chân bất nhiệt.
Thánh hiền bát yếu tổng tại nhất đoan
Hư thực thông chi tử sinh quán hỉ./.

Dịch:
Từng nghe mạch lý nhiệm màu, bệnh cơ kỳ thú dù muôn hình biểu hiện rối ren.
Đem bát yếu tóm thâu đầy đủ.
Xem mạch phù trầm để biết bệnh ở trong hay ngoài; có lực là thật, vô lực là hư.
Đếm nhịp đi chậm nhanh để biết lạnh nóng, dương chứng thì mạch to, âm chứng thì mạch nhỏ.
Mạch sắc dáng đi nhưng trệ hẳn gốc bị tinh thương huyết kém.
Mạch hoạt nhịp chạy trơn tru chủ yếu khí động sinh đàm.
Nếu mà phù, đại, hoạt, sác: dương mạch phải nén dương để bảo vệ âm.
Mạch tiểu, trầm trì, sắc: Âm mạch thì nên chế hàn để bổ ích cho hỏa.
Tam bộ thấy phù đại kiêm sác là mạch trùng dương sinh ra chứng loạn cuồng.
Sáu bộ mạch điều trầm, tiểu lại kiêm trì: chứng trùng âm chân tay giá lạnh.
Ngôi dương thấy âm mạch biểu lộ, đó là âm lấn dương phải biết.
Ngôi âm mà dương mạch hiện hình đó là dương tràn vào âm phải rõ.
Mạch trầm tiểu: tổn thương bởi thấp, Sác chủ nhiệt, trì chủ hàn.
Mạch phù, đại chủ cảm mạo vì phong; hoạt chủ đàm, sắc chủ huyết.
Bên tay phải mạch đi to là căn nguyên của chứng nội thương.
Bên tay trái tại nhân nghinh mạch đi mạnh mẽ là do chứng ngoại cảm.
Hư thì bổ mà thực thì phải tả, hàn thì ôn mà nhiệt phải dùng lương.
Muốn biết sống chết ra sao thì phải biết mạch thực hư thật rõ.
Nếu bệnh nhiệt mà mạch trì kiêm tiểu thì khó bảo toàn tính mạng kể cả chứng phát cuồng ung độc cũng đáng lo.
Các chứng hàn mà mạch trì kiêm sắc thì chẳng hề lo và các chứng lậu băng, tả lỵ đều chẳng ngại.
Bệnh mắc đã lâu mà thấy mạch phù đại thì đáng ngại, bệnh mới mắc mà thấy mạch tiểu trầm nên sợ.
Trước khi sinh mà thấy mạch hoạt đại thì tốt, nếu mạch sắc tiểu thì chả thuận.
Sau khi sinh thì mạch phải tiểu trầm, nếu mạch đi phù đại là tối kỵ.
Trai tráng mạch hoạt đại là tốt mà nếu mạch sắc tiểu thì mạng sống chẳng được lâu.
Tuổi già mà mạch tiểu trầm là thuận nếu phù đại thì thọ khó dài.
Xuân hạ khí dương thịnh thì mạch nên hồng đại, mạch tiểu trầm kg tốt.
Thu đông khí âm sinh, mạch tiểu trầm mới phải nếu hoạt đại là kg thuận.
Mạch thuận với thời thì sống, mạch nghịch với thời thì chết.
Mạch ba bộ tuy không còn như là chứng ngất bởi do đàm uất những còn có thể chữa được.
Mạch sáu bộ dù có điều hòa, người gầy da thịt tóc khô cũng khó lòng cứu chữa.
Mạch to là tà khí đang thịnh bệnh đang tiến triển nhưng chứng tích tụ không đáng ngại mà hư hao thì đáng lo.
Mạch đập nhỏ là dương khí suy kém, chứng hư tổn mạch đó thì lành mà tích tụ thì lại dữ.
Bệnh với mạch thuận chiều là tốt.
Bệnh với mạch trái nhau là điềm gỡ.
Ngoài mà mạch phù sác, trong rỗng là chứng âm lìa dương thoát nên cẩn thận.
Mạch trầm trì bộ xích còn mà thốn tuyệt là chứng âm còn dương thoát nên để phòng.
Tiết xuân mộc khí can dương thịnh, mạch hồng hoạt tốt mà đoản sắc không hay.
Thu thuộc kim, khí phế hợp thời mà mạch nhỏ thì hay, mạch đại hồng chẳng khá.
Hạ thuộc hỏa ứng với tâm, mạch phù thời hồng là tốt, tiểu trầm không tốt.
Đông thủy thuộc thận, mạch trầm tiểu là thuận, mạch hoãn đại không thuận.
Mạch hoãn đại hợp vào mùa tứ quý, chỉ lo mạch hoạt trường là mạch trái mùa.
Mạch tương sinh ứng với ngũ hành là tốt, chỉ lo thừa khắc là không tốt.
Mạch lúc ngắn lúc dài là mạch tà quái.
Mạch lúc nhanh, lúc chậm là mạch quỷ mị.
Mạch đi trên không tới bộ thốn là khí dương đã thoát, dưới không đến bộ xích là phần âm đã mất.
Mạch hà du, ốc lậu hay mạch đi quá trì, sác thuộc chứng nguy.
Mạch trước tác, dũng tuyền hoặc mạch đi quá hoạt, quá phù cũng là loài bệnh khó.
Mạch đi kg thái qua không bất cập, không nhanh, không chậm thì vị khí còn tốt.
Mạch đi đều chậm rãi, không nổi không chìm là mạch không bệnh.
Phải xem có mạch hay không, còn thần hay mất.
Mạch và bệnh hợp tình, dù nguy cũng dễ chữa.
Bệnh với mạch không thuận nhau, chứng không có gì nhưng khó chữa.
Xem theo vận khí nam chính, bắc chính năm nào không ứng phải xét cho tường.
Người béo, gầy hợp phù hay trầm phải xét cho thật rõ.
Chứng dương tuyệt chết vào mùa xuân, hạ; chứng âm tuyệt chết buổi thu đông.
Dương tuyệt chết ở ban ngày; âm tuyệt thì đêm sẽ chết.
Mạch đi tuy theo nhịp thở điều hòa nhưng không có gốc cũng phải gãy.
Mạch đi qua lại gấp rút mà có gốc vững khỏi lo âu.
Sáu mạch mà hai trạng thái âm dương, phân cách rõ ràng thì hai ngày là vong mạng.
Bộ xích mạch lên xuống không đều, âm dương lìa thoát là chứng chết.
Mạch phù đại mà quá sác là chứng độc dương phải liệu.
Mạch trầm tiểu lại quá trì là chứng cô âm cần lo giữ.
Tương ứng hoặc bất tương ứng đều là chứng nguyên khí hư tổn.
Dưới ngón tay mạch chạy lăng nhăng là huyết bị hàn nên dương khí ngưng tụ.
Phép xem mạch là do lòng mình lĩnh hội mà phân định chủ và khách khí.
Phải biết xét và phân tích để tìm mấu chốt và phân định chính hay tà khí.
Sáu bộ mạch đi rất sác mà có ngừng là chứng hàn trệ.
Ba bộ mạch thấy trì nhưng có một nhịp động thì là chứng bên trong quá nhiệt.
Tháng hiền đã gom tất cả mạch vào bát yếu về một mối.
Chuyện hư thật, sinh tử luận giải quyết đoán không nghi ngờ chi nữa./.

                            ĐYS Nguyễn Viết Thưởng
                                           (Nguyên Thường)


(Tôi viết và đưa lên bài “Lư Sơn Mạch Phú”, mục đích là để các bạn yêu thích Y Học Phương Đông tìm hiểu mạch lý này vì có nhiều giả thuyết cho rằng: “Lư Sơn Mạch Phú” là do các bậc tiền nhân của nước Việt biên soạn, hơn nữa nó rất chí lý và rất hay. Sau 40 năm hành nghề, tôi vẫn thực hành theo khuôn phép mà tiền nhân đã lưu lại, là khuôn vàng thước ngọc cho tôi 40 năm qua.

Kính chào tất cả quý vị).

 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.