| 
 Tùy bút - Bút kýValentine Cho Người Chưa Gặp Mặt Kim Loan *   đăng lúc 07:56:54 PM, Feb 18, 2024 *  Số lần xem: 527 
 
 #1   | 
 
 #2   | 
 
   
    
        
            | 
               
            Valentine  
            Cho Người Chưa Gặp Mặt 
              
            
                         Trong  nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những  chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là  Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố,  mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi  terminal, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng  bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver  mến thương…từ thuở nào! 
             
             
            
            
            
             
            Khi  tôi vượt biên cuối năm 1989 đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand, liền  viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tỵ nạn đã bị Cao Uỷ đóng  cửa từ ngày 14/3/1989, những ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh  lọc rất khắt khẹ Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu  tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam. 
             
            Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc. 
             
            Ôm  một đống thư về chỗ ở trại tỵ nạn, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải  thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương”  của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết  đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng  nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có  vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm  English, làm bạn bè cũng tốt. 
             
            Giờ thì  xin mở ngoặc nói về ông anh Th. yêu quý của tôị Trước đây ở Việt Nam anh  làm thầy giáo, rồi sau năm lần bảy bận đi vượt biên vào tù tội mới trót  lọt, với câu nói cương quyết: “Nếu bỏ xác ngoài biển thì đành chịu, chớ  còn đôi chân là còn đi vượt biên, đi hoài cũng tới, trời không phụ lòng  người”.  Không biết anh có uy tín cỡ nào, mà kể từ khi anh bắt đầu toan  tính ra đi, vài bạn thân trong xóm với gia đình tôi cứ hay đến nhà tôi  thầm thì có chỗ nào vượt biên thì kêu tui nhe, đi chung với anh Th. cợ  Người có quyết tâm và niềm tin như anh thì chắc sẽ gặp maỵ  
             
            Trước  năm 1975, anh đã từng học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ nên rất khát khao đến  được xứ tự do dân chủ nàỵ Khi qua đến Mỹ như mong ước thì anh càng yêu  Mỹ nhiều hơn. Anh còn khuyến khích tôi, đừng e ngại nếu kết hôn với  người Mỹ vì có rất nhiều điểm lợi, nào là học được English hàng ngày  hàng giờ, nào là sinh ra con sẽ cao lớn, xinh đẹp, nào là sẽ mang last  name của chồng là last name Mỹ, khi đi học đi làm rất khó bị phân biệt  chủng tộc…vân vân...và vân vân. 
             
            Nghe  anh nói vậy tôi cũng yên tâm và hứng thú phần nào, dù lúc đó tôi vẫn có  suy nghĩ phải quen và lấy chồng người Việt, chứ không hình dung được cái  cảm giác sống chung với một người Mỹ mắt xanh, tóc vàng, tay chân đầy…  lông lá. 
             
            Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy  quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông  anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Ðầu tiên, tôi loại bỏ những thư không  có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả,  (thói quen nghề nghiệp cô giáo khi còn ở Việt Nam), rồi loại tiếp những  lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai và loại luôn những người viết  thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!). 
             
            Cuối  cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn  chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một  trường Trung Học ở Denver, Colorado, vậy là đồng nghiệp với tôi), và  tấm hình một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ  là Don Garner.  
             
            Với tất cả vốn liếng  English có được, tôi viết thư cho Don, giới thiệu bản thân, cám ơn Don  đã vui lòng kết bạn, giúp tôi trau dồi thêm Anh Ngữ trong thời gian chờ  đợi ở trại tỵ nạn và tôi cũng gởi một tấm hình tôi mặc chiếc áo màu đỏ  thắm, chụp trước căn “nhà” của tôi trong trại tỵ nạn. Don hồi âm và nói  thích tấm hình, thích... màu áo của tôi, khen tôi nụ cười tươi như hoạ  Don phóng to tấm hình này với size bằng cuốn vở rồi gửi lại trại cho tôi  làm kỷ niệm. 
             
            Cứ hai tuần một lần, Don  gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước  tôi đã viết sai và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì  nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạỵ 
             
            Chắc  tôi cũng có máu di truyền từ ông anh. Nếu ông anh đã từng yêu nước Mỹ  từ khi còn học ở Hội Việt Mỹ, thì tôi trước đây đã yêu Wichita, Kansas,  hay San Antonio, Texas qua những hình ảnh anh tôi gửi qua, thì giờ đây,  qua ống kính của Don, tôi đã yêu thêm Denver của Colorado và những địa  danh xung quanh: Rocky Mountain, thượng nguồn nước chảy xuôi theo dòng  Mississippi vào Vịnh Mexico, những trang trại trồng lúa mì. Từ miền tây  qua bên đông, đất của tiểu bang này là lưu vực giống sa mạc, trở thành  cao nguyên, rồi núi Alpine, rồi đồng cỏ của đồng bằng Lớn. Núi Elbert là  đỉnh cao nhất của dãy núi Rockỵ Ðỉnh Pike nổi tiếng một tí về phía tây  của Colorado Springs. Có thể nhìn thấy đỉnh hiu quạnh của nó từ gần biên  giới Kansas vào những ngày nắng và mùa đông tuyết phủ trắng một vùng  núi bao la, kỳ vỹ… 
             
            Ðã có lúc, tôi viết  thư cho ông anh, đồng ý rằng, người Mỹ hay người ngoại quốc da trắng, có  những người rất dễ thương, đáng tin cậỵ Vì ngoài Don mà tôi dần thân  thiện qua những lá thư, trong bưu điện trại tỵ nạn lúc ấy có thêm mấy  chàng thiện nguyện người Tân Tây Lan, trong đó có chàng Peter thật hiền  lành, nhút nhát và cực kỳ tốt bụng. Peter có râu quai nón, cánh tay  rậm  rạp lông, vậy mà nở nụ cười là thấy… hiền khộ Ngoài giờ làm cho bưu  điện, cuối tuần nhóm thiện nguyện vào trại có Hội Thánh Tin Lành để rao  giảng Thánh Kinh.  Lần đó bưu điện làm tiệc sinh nhật cho tôi (bất cứ ai  đến ngày sinh nhật đều được có một tiệc rất ấm cúng), Peter bị ép lên  tặng hoa và ôm tôi, mà mặt anh chàng đỏ rực như ánh mặt trời, thấy  thương làm saọ 
             
            Trở lại câu chuyện với  Don, mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một  máy cassette nhỏ xài bằng batteries để tôi học English, có cả đồ charge,  vài country music tapes, đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp  chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes (Don tinh tế biết tôi ở chung  với ba cô bạn gái), loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông  Giáng Sinh. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy candy canes,  nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí  theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày  sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt,  lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, bốn đứa xúm lại ăn liền một  mạch hết sạch và khen ngon rối rít. 
             
            Tôi  dần dần cảm mến Don, dù chỉ qua những lá thư, những hình ảnh và những  món quà bé nhỏ xinh xinh. Tôi cảm nhận được một chàng trai đứng đắn, mô  phạm, có trái tim ấm áp với tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn. 
             
            Don  luôn muốn cho tôi hiểu biết nhiều hơn về nước Mỹ, giải thích chi tiết  từng sự việc, những tấm hình phong cảnh anh chụp đều ghi chú rõ ràng,  địa điểm, thời gian và cả những điều thú vị liên quan đến nơi ấỵ 
             
            Ðể  giải thích sự chậm trễ thư từ mùa cuối năm, Don chụp những tấm hình khi  đến post office gửi quà cho tôi, nào là những chiếc xe của post office  chất đầy ứ những bao tải chứa thư, những nhân viên đang chuyển những gói  parcels ra xe dù ngoài trời đã sập tối lất phất tuyết rơị Don bảo, mùa  này người ta gửi thư gửi quà cho nhau nhiều lắm, dù nhân viên làm việc  tăng thêm giờ cũng sẽ vẫn có những thư từ, bưu phẩm chậm hơn những thời  gian khác trong năm và nhắn nhủ tôi nếu thư Don đến chậm thì hãy thông  cảm cho Don và đừng giận Don, đừng giận ... nước Mỹ nhé (thấy thương ghê  chưa!) 
             
            Như một cái gì đó rất quen  thuộc, mỗi lần đợi chờ thư của Don thật háo hức, một niềm vui dịu dàng  êm ái vì thư của Don lúc nào cũng có vài tấm hình và ít nhất là 4 đến 6  trang thư, đem đến cho tôi một nước Mỹ tuy xa xôi nhưng quá đỗi gần gũi,  đầy quyến rũ mộng mợ 
             
            Qua mùa Giáng  Sinh năm ấy, thư của Don bắt đầu thưa thớt và sau đó là lá thư thật dài,  Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng  Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn,  có nhiều hy vọng nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc,  điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô  Denver. 
             
            Ðó cũng là lá thư cuối cùng của  Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình về địa chỉ của  Don và nơi trang trại của cha mẹ Don đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng  mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự  không tìm được câu giải đáp của sự im lặng nàỵ 
             
            Cuối  cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã  chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôị  Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại  tỵ nạn với hoàn cảnh quá bấp bênh nên nhân dịp này Don ngưng liên lạc  để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm  taỷ 
             
            Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là  đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời và xin chân  thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, Don ơi! 
             
            Khi  tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm  lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm  chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt  đại dương giữa tôi và Don. 
             
            Người thì  diễn tả như trong phim ngôn tình, chàng khi chữa bệnh thì mặc cảm, tuyệt  vọng nên không thư từ cho nàng, cho đến khi bệnh tình khá hơn, chàng  vội viết thư cho “người em gái tỵ nạn” thì hỡi ôi, nàng đã lên đường  định cư! 
             
            Người khác, cho đoạn kết mang  dấu ấn phim Hàn Quốc, chàng sau một thời gian hóa trị và xạ trị, đã mắc  bệnh ... mất trí nhớ, nên những lá thư nàng gửi tới chỉ làm chàng hờ  hững như đám giấy lộn vô tri vô giác. 
             
            Vui  hơn là một chị cho câu chuyện theo kiểu Quỳnh Giao, là cha mẹ chàng đã  phát hiện ra chàng đang có “tình xa” với một cô gái Châu Á, trong khi họ  muốn chàng lấy vợ da trắng, môn đăng hộ đối, nên đã cấm đoán và nhân  dịp chàng về nhà chữa bệnh, họ đã dấu hết các lá thư của nàng, gây cho  chàng hiểu lầm là nàng đã đổi thay khi chàng ngã bệnh nên từ đó... ly  tan. 
             
            Dĩ nhiên đó chỉ là những “đoạn  kết” tưởng tượng vui vẻ, nhưng cuối cùng các chị ấy cũng nghiêm túc, đề  nghị giúp tôi tìm Don trên Googles, vì với đầy đủ tên họ và số tuổi thì  việc tìm tung tích không đến nỗi khó khăn nếu Don vẫn còn ở Denver. 
             
            Tôi  bèn nghe lời khuyên, search trên Googles, sau khi narrow down, tôi cũng  tìm được vài người mang tên Don Garner, ở lứa tuổi đó, nhưng tiếc là  không có hình ảnh (cũng có thể tôi đã không tìm đúng cách). Tôi cũng  chẳng muốn làm phiền người khác tìm giúp Don, vì để làm gì chứ? 
             
            Tôi  và Don, định mệnh cho gặp nhau qua những lá thư, trong một hoàn cảnh  đặc biệt ở trại tỵ nạn. Dù tình cảm vừa nhẹ nhàng chớm nở, mến nhau  nhiều hơn qua những tâm sự, những câu chuyện của nhau và qua những tấm  hình, Don nói yêu mến đất nước và con người Việt Nam, cũng như tôi đã  yêu thương Denver, Colorado và nước Mỹ của Don. 
             
            Nhưng  chúng tôi chưa hề nói lời yêu nhau, chưa một lần nói nhớ thương, chưa  dự định những hứa hẹn dài lâu vì đâu biết chuyện thanh lọc ở trại tỵ nạn  của tôi sẽ ra saọ Anh vẫn đang là một người bạn, một người thân, một  người đều đặn mang cho tôi niềm chia sẻ, ủi an trong mỗi lá thư, giúp  những ngày trại tỵ nạn của tôi thêm niềm vui dù tương lai còn mong manh   xa vờị 
             
            Ðể rồi Don bỗng mang bệnh hiểm  nghèo, định mệnh mang Don đến với tôi rồi lại mang Don ra khỏi đời tôi  không một lời giải thích để lòng tôi vẫn xốn xang khắc khoải đi tìm một  lý dọ 
             
             
            Dù sao đi nữa,  tôi vẫn nhớ ơn Don về những tháng ngày ấy, nhớ nhiều những điều mới lạ  Don giới thiệu với tôi về nước Mỹ, về những cây candy canes mùa Noel, về  mùa Valentine nào đó Don gửi một gói bưu phẩm với hộp chocolate và kể  cho tôi nghe về ngày lễ dễ thương này, không hẳn dành cho những đôi yêu  nhau, mà còn cho cả bạn bè thân, gia đình, ngay cả đám học trò cũng tặng  thiệp Valentine cho Thầy giáo Don. 
             
            Ðể  giờ đây mỗi lần có dịp qua Mỹ, khi máy bay dừng chuyển tiếp ở Denver,  tôi lại thấy lòng bâng khuâng, bồi hồi như sắp gặp lại người bạn cũ. Dù  anh còn đó hay không, dù anh thế nào, đối với tôi, Denver vẫn là một địa  danh đẹp luôn có bóng hình anh. 
             
            Valentine  năm nay tôi viết lại câu chuyện này, cho Don, một người chưa hề gặp  mặt, như một món quà ghi dấu kỷ niệm của chúng tôi, của một thời đã qua  khi cả hai còn rất trẻ. 
             
            Và đây là bài thơ tôi viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nghĩ về Don: 
               
             
             
             
            
            
            
            
             
            - LẠC NHAU Ở DENVER : 
             
            Máy bay vừa hạ cánh 
            Denver lạ mà quen 
            Phi trường tôi vừa đến 
            Chờ mong được gặp Don 
             
            Người người lướt qua nhau 
            Terminal kiếm tìm 
            Hành lý cũng vui theo 
            Tôi và những niềm riêng 
             
            Tôi đứng đây, ngơ ngẩn 
            Giữa đám đông đợi chờ 
            Hỡi anh, Don thân mến 
            Ðừng để tôi bơ vơ 
            Chuyến bay này nối tiếp 
             
            Hẹn gặp tại Denver 
            Quán café Starbucks 
            Mình nhắc lại chuyện xưa 
             
            Anh mặc áo màu gì? 
            Xung quanh tôi xa lạ 
            Những bước chân vội vã 
            Vẫn thiếu vắng một người 
             
            Lẽ nào anh không nhớ! 
            Hay anh trễ chuyến bay? 
            Phi đạo trong nắng gió 
            Người thì như bóng mây 
             
            Tôi phải boarding rồi 
            Qua gate mà ngập ngừng 
            Thế là anh và tôi 
            Chẳng được phút tương phùng 
             
            Máy bay tung đôi cánh 
            Chìm vào trong mây trời 
            Anh vẫn là hình ảnh 
            Trong ký ức mà thôi! 
             
            Kim Loan 
            
             
             
             
                          | 
         
    
 
 
 
  
  Ý kiến bạn đọcVui lòng  login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin  ghi danh.  
 
 | 
 
 
 |