Những Bài Thơ Vịnh Kiều của Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân (tiếp theo)


VỊNH  HỒ  TÔN  HIẾN

Tổng Đốc vua phong chức trọng thần,
Ấy Hồ Tôn Hiến… đủ kinh luân !
Dùng mưu núp yếm lừa nương tử,
Bày kế dựng cờ bịp tướng quân !
Chuốc rượu nài hoa trơ trẻn mặt,
Nghe đàn giỡn liễu nhuốc nhơ thân !
Quan trên trông xuống… người mai mỉa,
Tổng Đốc vua phong chức trọng thần ? !

KIỀU  KHUYÊN  TỪ  HẢI  ĐẦU  HÀNG

1.- Năm năm trời bể sống oai phong,
     Chàng  đạp lũy thành, dựng chiến công.
     Chất ngất… xương phơi đầy chật núi ?      
     Thảm sầu… máu đổ ngập tràn sông !
     Can qua xưa đã nhiều ghê rợn,
     Binh lửa nay còn lắm hãi hùng !                   
     Xin hãy quăng gươm vì nghĩa cả,
     Cứu toàn dân hết cảnh gai chông !
 
2.- Còn hơn làm giặc chốn biên cương,
     Ai biết rằng ta dẹp nhiễu nhương ?!
     Bởi lũ sâu dân đầy bốn cõi,  
     Và phường mọt nước khắp mười phương !
     Thì thôi chí cả đành vang bóng,  
     Mà phải quyền cơ chọn lấy đường.
     Thánh trạch triều nghi xưa vẫn được…
     Lòng dân mãi tựa đám Quân Vương !
 
3.- Ta dẫu đạp bằng bể bất công,
     Mà thiên hạ… có biết cùng không ? !
     Ô danh hai chữ dơ trời đất,
     Rạng tiết một lời đẹp núi sông !
     Chạnh nhớ… tình cha đòi đoạn ruột,
     Ngùi thương… nghĩa mẹ sắt se lòng ! 
     Khuyên chàng nhận chút ơn mưa mốc,
     Hạnh phúc là đây thụ sắc phong !

          TỪ  HẢI  QUY  HÀNG

1.- Nghe lời nàng nói mặn mà thay,
     Từ  -  những băn khoăn chuyện sắp bày.
     Nghĩ phận hàng thần lơ láo mặt,
     Tiếc đời dũng tướng ngỡ ngàng tay !
     Cân đai áo mão thêm luồn cúi ?
     Sắc ấn lộng xe chịu đọa đày !
     Lòng muốn… đạp bằng cơn sóng dữ,
     Làm cho triều đại phải lung lay !
 
2.- Làm cho triều đại phải lung lay !
     Đem thái bình ban khắp đó đây.
     Chí lớn   nhưng lòng dân chẳng hiểu,
     Gan to   mà miệng thế không hay !
     Thôi đành chịu khuất vì sông núi,
     Cũng phải cam hờn với gió mây !
     Xếp giáp quy hàng cho vẹn vẽ,
     Tình nhà ơn nước nghĩa cao dày !

TỪ  HẢI  CHẾT  ĐỨNG

1.- Đại quan lễ phục kéo cờ hàng,         
     Từ có ngờ đâu mắc kế gian !          
     Pháo nổ quân reo lời thét nộ,            
     Gươm khua ngựa hí tiếng ầm vang !   
     Râu hùm xếch ngược liều xương máu,
     Mắt phượng tròn xoe trải mật gan !     
     Hùng khí ngất trời cao thảm đạm,       
     Trơ trơ chết đứng giữa non ngàn !       
 
2.- Trơ trơ chết đứng giữa non ngàn !     
     Hiển hiện hùng uy khiếp lũ gian.       
     Tiếc nhẽ !  năm năm thề bất khuất,
     Thương ôi !  một phút chịu quy hàng !
     Giấc mơ xoay thế cờ… trôi hết,
     Ý tưởng chuyển thời cuộc… cháy tan !
     Chỉ tại rồng thiêng trời đọa lạc,
     Một doi tiện thổ dãi dầu sương !
 
3.- Một doi tiện thổ dãi dầu sương !
     Linh khí Từ đi tủi phận nàng.
     Yêu sắc, anh hùng không lụy sắc,
     Nghe đàn, quân tử chẳng say đàn !
     Lời khuyên giải, trọn tình non nước,
     Tiếng thở than, chung cuộc đá vàng !
     Phải lẽ… ai mà không xếp giáp,
     Những mong thôi chất đống xương tàn !
 
4.- Những mong thôi chất đống xương tàn !
     Tâm huyết Từ công thật đáng thương.
     Dẫu bại không mờ gương dũng tướng,
     Lúc thành thêm tỏ tấm can trường !
     Lễ nghi đâu kém hàng vua chúa,
     Phong cách nào thua bậc đế vương !
     Chỉ tại họ Hồ phô kế quỷ …
     Nghìn năm còn bẩn một trò gian ! !
 
UY LINH TỪ HẢI

Đọc Xuôi :
Năm năm bạt kiếm hiển uy linh,
Tướng dũng tài danh rõ chiến chinh.
Căm hận quá quan tham dạ ác,
Tóc tang đầy dân khổ hồn kinh !
Đăm đăm khí dũng xoay thời thế,
Rỡ rỡ cờ bay đoạt luỹ thành !
Lầm kế khóc Kiều, thương chết đứng…
Năm năm bạt kiếm hiển uy linh !
 
Đọc Ngược :
Linh uy hiển kiếm bạt năm năm,
Đứng chết, thương Kiều khóc kế lầm.
Thành luỹ đoạt bay cờ rỡ rỡ,
Thế thời xoay dũng khí đăm đăm.
Kinh hồn khổ, dân đầy tang tóc,
Ác dạ tham quan, quá hận căm.
Chiến chinh rõ danh tài dũng tướng…
Linh uy hiển kiếm bạt năm năm.
 
Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

KIỀU  KHÓC  THƯƠNG  TỪ  HẢI

 
1.- Khói lửa vừa tan cuộc chiến trường,
     Nàng quỳ ôm xác khóc thê lương !
     Trời như ảm đạm mầu tang tóc,
     Mây cũng u buồn sắc thảm thương !
     Cây cỏ đìu hiu thây gục ngã,
     Núi rừng vắng lặng máu còn vương !
     Và… mùi tử khí tanh theo gió,
     Rờn rợn hoàng hôn phủ chán chường !
 
2.- Hỡi ơi !  chết đứng thân Từ Hải,
     Thảm thiết lòng đau nhạn lẽ bầy !
     Dòng máu hùng anh còn rỉ mắt,
     Thanh gươm dũng tướng vẫn cầm tay !
     Hiên ngang sừng sửng can trường đó,
     Lẫm liệt trơ trơ thể xác này !
     Hàm én cắn răng hờn thế sự…
     Hay buồn… cho chút phận bèo mây ?!
 
3.- Nàng khóc dòng châu chừng rỉ máu,
     Dòng châu chừng rỉ máu tim đau !
     Máu tim nghẹn xuống đầy u uất,
     Nước mắt trào lên ngập thảm sầu !
     Nước mắt héo hon niềm nghiệt ngã,
     Dòng châu tơi tả nỗi cơ cầu !
     Than ôi !  đã hết tình tri kỹ,
     Đã hết tình tri kỹ thấm sau !
 
4.- Chỉ muốn gào lên, muốn thét lên !
     Trời xanh… sao nỡ dứt đường tên.
     Vẫn thừa dũng trí phò lăng miếu,
     Nào thiếu hùng tâm dựng phủ đền !
     Lừng lẫy năm năm vui khó trọn,
     Lỡ làng một phút hận triền miên !
     Bởi nghe lời thiếp… mà nông nổi,
     Uất nghẹn hồn đau dưới cửu tuyền… !
 

KIỀU  TỰ  TỬ  BÊN  XÁC  TỪ  HẢI

 
Nhìn chàng chết đứng thiếp hồn đau,
Mặt mũi nào trông thấy được nhau !
Sống ở dương trần quên nghĩa nặng,
Thác về âm cảnh tạ tình sâu !
Gieo đầu… quyết đáp đền ân trọng,
Ngã xác… chừng thương cảm lệ sầu !
Oan khí tương truyền hay tiếc hận ?
 
Vì nàng chưa dứt kiếp bèo dâu !

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

          (Còn tiếp)