Oct 13, 2024

Giải trí cuối tuần

Tản mạn... Thông Ngôn
Nguyễn Phú Long * đăng lúc 01:38:40 AM, Jun 02, 2017 * Số lần xem: 1717
Hình ảnh
Tác Giả Nguyễn Phú Long
#1

 

Tản mạn... Thông Ngôn

 

Nguyễn Phú Long

 

Ta dùng câu “Thông ngôn” để chỉ việc phiên dịch bằng miệng từ    ngôn-ngữ này sang ngôn ngữ khác, giúp cho hai người không sử dụng cùng tiếng nói có thể hiểu nhau. Tức là, muốn thông-ngôn, điều kiện cần là mình phải biết cả hai ngôn ngữ của họ để chuyển nghĩa lời phát-biểu từ bên ni cho bên kia hiểu và ngược lại.

“Phải biết cả hai ngôn ngữ của họ.” là nói tổng quát, thực tế chỉ cần am tường một ngoại ngữ, vì kẻ còn lại thường nói chung thứ tiếng với người thông ngôn.

 

Đôi khi thay vì thông ngôn ta còn nghe “thông dịch”, hàm . tương-tự như thông ngôn, tuy nhiên thực tế dần dần thấy ít dùng, hơi cũ, ngữ nghĩa không hoàn toàn chính xác, có một số tự đin đã bỏ qua chẳng đề cập tới.

Thông ngôn là một nghề tương đối mới mẻ ở Việt-Nam, lương bổng hậu hỹ, việc làm nhàn-nhã, như chơi, hấp dẫn và được kính trọng. Ai gặp cũng một điu thưa thầy thông-ngôn, hai điu thưa thầy thông-ngôn.

 

Nhớ chuyện xưa…Thoạt tiên, khi các quan Đại Pháp cực nhọc hy sinh bỏ cuộc sống êm đềm bên dòng sông Seine, bỏ các bà đầm dắt chó rong chơi rải mìn khắp đường phố nơi kinh thành ánh sáng, lặn lội sang đây, đem cái văn minhPhá-Lăng-Xa khai mở cho đám dân còn ngơ ngác chưa biết tại sao đèn sáng, ngọn chúc xuống đất và nước trong, phun ngược lên trời, họ ưu ái mở nhà máy nấu rượu cung cấp cho ta nhậu lai rai ba sợi, nhưng luôn luôn nghiêmminh, kỷ luật, chẳng có oong đơ gì cả, họ thẳng tay bỏ tù mọt gông những kẻ nấu rượu lậu.

 

Vì nhiều công việc bề bộn, dân Giao-Chỉ, cần được bảo ban cách làm đường,

cầu cống, lập đn điền, cạo mủ cao-su… hợp tác, góp sức lao động nên nghề

thông ngôn đã xuất hiện theo nhu-cầu.

 

Từ hồi mới có ông Tây,

Có bơ, có sữa, có thầy thông-ngôn.

 

Một điều không thể chối cãi, đó là tính cần cù, sự làm việc chu đáo của dân Việt-Nam hầu hết đều đươc cấp chỉ huy tin tưng, thương mến. Lại nữa, quan trên và kẻ thông ngôn lúc nào cũng như bóng với hình, làm việc kè kè bên nhau, nên sự thương mến còn đm đà hơn nhiều, có thể nói không ngoa, đôi khi đó chính là một cặp bạn bè thân thiện.

 

Sách “Sau Bức Cấm Thành Nhà Nguyễn” có đề cập tới mẩu chuyện, xin dẫn ra đây để mọi người thấy tình nghĩa giữa thông ngôn và quan trên đm đà tha thiết tới dường nào.

 

Trong chuyến công du Huế và Sài Gòn nhiều tháng, phái đoàn quan toàn quyền Paul Doumer mỗi người một ngựa ngất ngưng trên đường thiên lý, giống như bọn thầy chùa Tam-Tạng đi thỉnh kinh, mỗi lần tới nơi nào, ông không báo trưc đđa phương tiếp đón. Trong đoàn tùy tùng có mt người Việt làm thông ngôn gọi là Phán Ngọc (chả rõ họ gì.).Khi tới Huế, Paul Doumer đột ngột vào kinh thành để viếng thăm quốc vương An-Nam, làm vua Thành Thái và các đại thần bật ngửa, lo sợ thất lễ. Nên ngày hôm sau triều đình tổ chức đại yến để tỏ sự cung kính và dành cho toàn quyền danh dự lớn.

 

Hoàng gia chỉ cho mời các ông hoàng bà chúa, các quan nhất phẩm và lục bộ thưng thơ mà thôi. Danh sách được gửi cho phái đoàn duyệt trước, khi thấy

không có tên người bạn đồng hành và cũng là thông ngôn của mình, Paul Doumer hỏi lại, triều đình trả lời, phán Ngọc là dân giả, không phải quan đại thần nhất phẩm, không thể mời được. P. Doumer yêu cầu mãi, triều đình, cực chẳng đã, bắt buộc nhượng bộ vì không thể làm phật lòng toàn quyền. Toàn quyền là rất lớn, coi cả ba xứ Việt Mên Lào cơ mà! Bèn tạm phong cho phán Ngọc “Nhất phẩm đại thần hàm” rồi cho ông ta mượn bộ đồ vía của các quan cùng cấp bậc để mặc hôm dự tiệc.

 

Thuở tớc, không kể Pháp Quốc, mình còn tiếp-xúc với nhiều dân nước ngoài, những quốc gia này đến với ta đều có tốt cả, họ dậy mình lễ nghĩa, múa hát, trồng trọt, thu gom vàng bạc châu báu đem vớc cất giùm. Ai vậy? Thì ông bạn khổng lồ láng giềng phía Bắc chứ ai! Thế mà lúc đó chả thấy phát sinh nghề thông ngôn lan rộng, chính thức, quy chế như thời Tây thuộc. Nhiều phần có thể vì người An Nam bấy giờ tuy không rành tiếng Tầu, song nhờ gần gụi, với bốn ngàn năm văn hiến, biết viết chữ nho, nên dù không hiểu, họ nói xập xám, mình đọc là thập tam, mà viết ra thì như nhau do đó ta đã sáng kiến thêm một phương pháp khác đ“điêu” với nhau, thực hành hơi lỉnh kỉnh nhưng rõ ràng minh bạch, đó là bút đàm.

 

Cuộc bút đàm thoạt tiên phải sửa soạn giấy bút, có tràng kỷ chững chạc để ngồi đối diện càng tốt, (nếu không, nằm bò nơi sàn nhà lượm cục than viết dưới“mặt bằng” cũng chẳng sao) đổ chút ớc mưa vào nghiên, mài mực…xong đâu đấy, tiền khách hậu chủ, mời tiên sinh viết một câu, tôi đọc và tôi viết câu trả lời, cứ thế tiếp tục.Giống như bây giờ mình chatting trên mạng Rất minh bạch, giấy trắng mực đen, bút sa gà chết, không thể gian lận, mập mờ, ấm ớ như mẩu chuyện sau đây:

Giáo sư Hứa-Hoành kể, một người dân giả, nguyên là học trò nghèo quê ở Gò-Vấp, nhờ giỏi giang, thông minh, được học bổng du học bên Tây, đậu tú tài đôi, lúc quy cố hương vừa làm thầy dậy Pháp văn cho các công-chúa và Hoàng tử trong cung, vừa làm thông ngôn, đó là Dip Văn Cương. Ông Cương cưới cô công chúa Thiên Niệm, chị ruột vua Dục Đc thường gọi là Mệ Kim làm vợ.

 

Trong khi làm thông ngôn, đu năm 1888, để chọn người kế vị, lúc vua Đồng

Khánh quy tiên, vào một buổi họp về việc ấy Diệp Văn Cương cố tình dịch sai

lạc, mục đích muốn đưa người cháu vợ mình là hoàng tử Bửu Lân lên ngôi theo

bà Thiên-Niệm.

 

Các quan hỏi Khâm sứ:

- Nay vua Đồng-Khánh mới băng hà, theo . ngài nên chọn ai lên làm vua?

Diệp Văn Cương không dịch đúng nội dung như thế mà lại lắt léo cho quan

khâm sứ hiểu theo đđã tính trước:

 

- Monsieur le Resident Superieur, Nay vua Đng Khánh đã mất, ỡng Tôn Cung và cơ mật đồng tôn Bửu Lân lên làm vua, xin quan khâm sứ cho biết ý kiến.

Khâm-Sứ đáp:

- Nếu mật và ỡng tôn cung (Bà Từ Dũ và bà Học Phi) đồng ý thì tôi cũng tán thành.

 

Đến đây, ta thấy câu chuyện đã được Diệp Văn Cương xỏ mũi dắt quan khâm sứ

quẹo vào đường khác rồi, sai một ly đi một dặm rồi, sắp xụp hố cả lũ rồi, làm

cho thầy thông ngôn thêm phấn khởi, không dịch câu nói của Khâm Sứ đàng

hoàng mà lại giáng một búa, cương ẩu cho các đại thần nghe để dễ bề kết thúc,

như sau:

 

- Bẩm các quan lớn, ngài khâm sứ Rheinard đáp: “Theo ý tôi thì chọn hoàng tử Bửu Lân là hợp lý hơn cả.”

 

Thế là toàn thể các vị ờng cột nắm vận mệnh quốc-gia cả Tây lẫn ta đã bị phù

thủy Diệp Văn Cương đạo diễn hốt một mẻ trọn gói.

Thế là chỉ ba giờ sau, Hoàng Tử Bửu Lân mới 10 tuổi đang chơi đá dế cùng lũ

trẻ, đã trở nên vua Thành Thái dù mẹ ngài, thấy cảnh phế lập, phe đảng, mất kỷ

cương trong triều, khóc lóc xin tha cho con bà mà chẳng được.

 

Nơi bộ Việt Nam Sử ọc của Trần Trọng Kim dĩ nhiên không có kể việc này,

chỉ nói đại khái rằng quan khâm-sứ có ý muốn, nên truyền lập ông Bửu Lân lên

làm vua. (quyển 2 trang 339.)

 

Chuyện làm ăn của một số rất ít lưu manh, nghề nào cũng vậy, lui tới một chặp rồi

cũng rơi vào nghi ngờ, mất tin tưởng có thể bị phanh-phui, đổ bể.

 

Về sau, những vụ quan- trọng, các thông ngôn phải qua cuộc lễ tuyên hứa mới

được hành-nghề đó là các thông-ngôn hữu-thệ, thường làm việc cho các vị nguyên

thủ, cho tòa-án v…v…

 

Qua mẩu chuyện trên đây, việc thông ngôn thật là hết sức lợi hại, vì những thầy thông ngôn vô lương tâm còn có thể ỷ vào vị trí của minh, để xuống tay

thực hiện trả thù cá nhân không mấy khó khăn.

 

Lịch sử Việt-Nam cận đi đã chứng minh điu đó. Một hôm, từ tờ mờ sáng, súng nổ chát chúa quanh lũy tre xanh, mấy cụ già run rẩy, rên khừ khừ như rúng phong, chó kêu ẳng ẳng, cụp đuôi phóng chạy tán loạn ới gầm giường, góc nhà. Tờng khi chú cẩu bị nện vài hèo mới kêu như thế, bây giờ đặc biệt hãi quá nó cũng kêu ẳng ẳng như lúc bị thọc tiết thui vàng, nấu nhựa mận.

 

Dân làng chưa hiểu chuyện gì, con nít khóc ré làm các bà mẹ vội vàng tính vạch yếm ấn vú vào miệng nó cho yên…thì tất cả đã bị lùa ra bãi đất trống trưc sân đình tập họp. Không khí ngột ngạt, tuân lệnh tuyệt đối, lặng lẽ, nhanh nhẹn,

kỷ luật, loạng quạng ở đây, lúc này, bỏ mạng như chơi, nam đứng một bên, nữ

đứng một bên, đông tht là đông, để kiểm soát, thanh lọc.

 

Giữa đám lính Tây đng đằng sát khí, những khẩu súng dài có gắn lưỡi lê nhọn hoắt, viên cạp-pò-ràn-xếp chỉ huy, hàng ria mép rậm rì như hai con sâu róm, mang cây Colt 45 với những viên đạn gài chi chít trên chiếc thắt lưng bằng da bò mầu vàng thổ, đi cạnh thầy thông ngôn đo qua đảo lại, lạnh lùng. Thầy thông ngôn thì

đang làm công việc chỉ điểm, thầy chùm cái bao bố để khỏi ai nhận ra lý lịch, diện mạo, phòng hờ sự oán hận về sau, thầy chỉ tay vào người nào là đời kẻ ấy kể như oong poong phi nổ, một sổ hai chấm!

 

Nghe nói, trong quân đội, có một vài quan lớn khởi nghiệp như thế. Sau khi

ông xếp mắt xanh mũi lõ hết nhiệm kỳ sửa soạn xuống tầu về Tây, buổi chia tay

thầy trò bịn rịn ngồi đối diện, bần thần như tiếc nuối dĩ vãng, nồi thịt thỏ nấu

ợu vang để ở giữa, nghi ngút bốc hơi, tỏa mùi thơm hấp dẫn khắp phòng…Lát

sau, rượu ngà ngà, để bổ đường nhân nghĩa, ông Tây khuyên thuộc cấp phải lo

tương lai, ông đi rồi, cờ-sơ-ra sơ-ra? Nên xin đăng lính cho Pháp. Hắn nghe lời,

ghi tên vào trưng “Anh-ăn-chi?” ( infantry ) nhận một lô quần áo toàn mầu cứt

ngựa, đôi giầy-xăng-đá cứng và nặng như…đá, để bắt đầu bàì học đi đu bước.

Khổ nỗi mỗi khi huấn-luyện-viên hô “En avant marche!” Hắn lúng túng không biết

bắt đầu chân nào trước chân nào sau, khiến cho đám lính bị ùn lại như hình ảnh kẹt xe. Bị đá đít, bợp tai, mẹc-xà-lù mãi cũng như nưc đổ lá môn, cuối cùng phải lấy bẹ chuối khô buộc vào một chân cho dễ nhớ. Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu là vậy?

 

Về sau, bao nhiêu biến cố lịch sử xẩy ra, quân đội thuộc Pháp chuyển qua quân đội quốc gia, cả triệu người xuống tầu há mồm ra khơi, di cư từ Bắc vào Nam, rồi truất phế Bảo-Đi, suy tôn Ngô Đình-Diệm, thanh niên cộng hòa mặc đồng phục xanh đi chào cờ sáng thứ hai, xóm làng thanh bình vang tiếng hát “Ai bao năm tng in gót nơi quê người…”, lập ấp chiến lược, đàn áp tôn giáo, rồi từ Đệ-Nhất Cộng Hòa tới Đệ-Nhi Cộng-Hòa, rồi quân đội Củ-Xâm, quân đi Cang Gu- Ru v…v…nhào vô ăn có, hết đảo-chánh lại chỉnh ly, công bố Hiến Chương Vũng Tầu, sinh viên biểu-tình... Hắn không phải chỉ là chứng nhân giai đoạn lịch sử mà đã ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, tham dự hầu hết những biến cố ấy, những biến cố ấy quá dài, làm mỗi khi nhìn về quá khứ, hắn thường kiêu ngạo chê thuộc cấp là cái thâm niên quân vụ của họ chưa chắc bằng những ngày hắn nằm bệnh viện cộng lại.

 

Hắn như bị “cuốn theo chiều gió”, mang ba-lô lưu lạc khắp bốn vùng chiến thuật, “gặp thời thế thế thời phải thế” lúc thì trận mạc, lúc bị thượng cấp ghét bỏ vì ăn chia không đều, bèn bị đẩy theo học các khóa quân sự, chỉ huy tham mưu nhạt nhẽo và buồn ngủ, nhưng nhờ thế hắn đã “qua-ly-phai” và chiếm ưu thế trong các cuộc tranh đua thăng thưởng.

 

Cuối cùng “Anh chưa chết đâu em!”, sống lâu lên lão, lon lá càng ngày càng

nặng để một sáng ngủ dậy vào đơn vị bỗng thấy ngưi trưởng ban Ba, cần-mẫn,

tận-tụy đang chờ, cưi, tươi rói, trình tờ công-điện từ bộ Tổng-Tham- Mưu….Thế là thầy cựu thông ngôn lại lên chức, lại lên lương, đường hoạn lộ thênh thang…để mai sau, khi hai năm mươi, những tấm mề-đay còn đó, đôi giy đinh còn đó cùng cái nón sắt…tất cả đã trở thành “kỷ vật cho em”. Những kỷ vật này có thể làm cho một nhà thơ lang thang đang túng đề tài, hay được, chợt nhìn nước chẩy mây trôi, lan man nghĩ tới cái ngắn ngủi, phù du của kiếp người, sinh lão bệnh tử, bèn nhả ngọc phun châu thành mấy câu đy đủ các hình ảnh:

 

Chiến sĩ, gươm đàn, sa trường, đêm trăng, nơi gió cát, da ngưa bọc thây…gói

ghém niềm thương tiếc một vì sao “rớt hột.”.

Bản “tướng mạo và quân vụ.” của cha bự này như thế cũng chả vinh dự

danh giá, ghê gớm gì. Một lực sĩ đấu võ wrestling lúc thưng đài vì nghề nghiệp,

câu khán giả, vênh váo chửi bới đi phương, đôi khi thng, đôi khi bđịch thủ

dần cho nhừ tử gần bể mặt, chuyện đi năm ăn năm thua, riết rồi cũng chán.

 

Bỗng một hôm thấy không khí bầu bán hào hứng với cờ quạt, máy phóng thanh,

những vận đng viên đội mũ quả dưa của chú Sam… bèn bỏ nghề đm đá, nhào ra ứng cử và trở nên kẻ đng đầu một tiểu bang nhiệm kỳ bốn năm. Bốn năm nơi xứ Bắc lạnh lùng, tuyết phủ, hàng ngàn vạn cảnh hồ ớc mênh mông, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông cây cỏ hữu tình… ngài thống đc làm được gì?

 

Chắc cũng không nổi bật, nên tới 2002 ngài bị kẻ khác giành mất chiếc ghế uy

quyền, thơm như múi mít, đẩy lùi cuộc sống trở về lặng lẽ, tối tăm, y như “thằng

bé âm thầm đi vào xóm nhỏ!”

Ngài cựu thống đốc bây giờ ở đâu? Bến Hải hay Cà-Mâu? Ôi! bức tranh vân cẩu. Lên voi xuống chó. Lão Tử viết “ Danh khả danh phi thường danh.” Trong thiên hạ nào dễ mấy ai! Xin tiếp tục chuyện thông ngôn cho trọn ý.

 

Không phải sự hợp-tác giữa hai chủng-tộc, hay nói cho đúng là giữa hai cá nhân của hai chủng tộc, là nhất thiết phải cần thông ngôn. Hồi đó mấy tên lính viễn chinh xa nhà, khi thảnh thơi, ngóng trời, nhìn cụm mây trắng lững lờ, bồi hồi

ởng lại, chẳng biết con bé tóc vàng hàng xóm, con bé mặc váy ngắn hớ hênh,

mang vớ trắng cao tới đầu gối hay thơ thẩn một mình dưới cội ô liu trước nhà

bây giờ ra sao, lòng nhớ quê hương bời bời thì cũng y chang người di tản lúc đầu vậy.

 

“Anh Phải Sống”. Mặt khác cô me Tây lảng vảng đâu đó cũng phải sống. Thế

là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.” hai bên, dù chẳng cùng ngôn ngữ, bèn

ráp vô, khắng khít như thỏi sắt và cục nam châm, nương tựa nhau cho bớt sầu

đời.

 

Chẳng cùng ngôn ngữ thì nhằm nhò gì, họ biết phải làm chi và phải đối xử với

nhau thế nào chứ! Công thức “Ông mất cái giò, bà thò chai rượu” có tính cách

quốc tế, đem áp dụng lúc nào cũng hữu hiệu. Họ có hai vòng tay đầy sức sống.

Hai vòng tay ấy chả phải chỉ để ôm nhau thật chặt, ngạt thở, tỏ dấu yêu đương

mà còn dùng nói chuyện, rồi bập bẹ vài tiếng, rồi cố gắng ghép hai chữ lại, nửa

Pháp nửa Việt cho Pháp Việt đề huề.

 

Cũng tình tứ, mùi mẫn quá cỡ thợ mộc ấy chứ lỵ! Một hôm cuối tuần, mới sáng

tinh , trên tấm thân thể bừng bừng còn khoác chiếc áo ngủ mỏng dính, dài thượt, chị vợ đã thoăn thoắt làm điểm tâm cho chồng ăn, vừa bưng đĩa trứng vừa lẩm bẩm một mình, như hát, như reo “ Ẻn pa cúc cù cu…cu, ẻn săng tê cúc cúc, Y-ê ẻn đon-nê một cục, ô-dua-đuy ốt si một cục, ốp la ốp lết, măng dê ngon ra phết.”. Ăn xong, theo đúng chương trình nỉ non to nhỏ từ đêm hôm qua, hai vợ chồng còn thắng bộ, dắt tay dạo chơi sở thú, đến khu chuồng cọp cô me Tây mừng rỡ kéo tay người lính xa quê hương, vừa chỉ vừa nói líu lo: “Me sừ! me sừ! luý gầm, lúy gừ, lúy com lơ bớp, lúy pa lơ bớp, lúy tý ti dôn, lúy tý ti noa, lúy măng dê cmoa, lúy măng dê cả toa, Ô la la!”

 

Chàng lính viễn chinh nghe vậy gật gù, mỉm cười, ngây ngô, sung sướng, song, thử hỏi, người trai trẻ đang ngụp lặn trong hạnh phúc ấy có hay biết gì không nhỉ? Tôi chẳng rõ. Thú thực viết đến đây tôi chỉ e là quý vị độc giả kính mến có hiểu giùm chăng mấy câu nói của cô me Tây đang cơn hào hứng! Tuy nhiên, ví dù, nếu không hiểu cũng đừng kêu tôi nhé! Thay vì kêu tôi, xin gõ cửa tìm hỏi ông Bảo Trần, tác giả tập thơ Đối Diện Niềm Vui xuất bản năm 1998.

 

Ngoài đường ban tối, tối thui,

Ông đang “Đối Diện Niềm Vui” trong nhà.

 

Chả là vì ổng và tôi cư ngụ cùng thành phố. Mấy bữa mò tới thăm ổng, tôi không thích theo lối mới, gọi điện thoại trước. Có gì quan trọng đâu. Cứ phom phom lái xe

Ô tô đến nơi, bấm chuông, đi vắng thì về, cửa mở thì vô, sau khi xoa hai bàn tay

vào nhau, cười cầu tài, lúm khúm, biểu diễn mầu mè chiếu lệ:

 

- Xin lỗi, kẻ phàm phu tục tử này thật đáng trách, đến mà không thông báo,

chẳng hay tiên sinh có bận việc gì chăng?

 

Ổng không trả lời, nắm vội lấy tay tôi kéo tuột vào nhà, cho tôi uống cà-phê “3

in 1”, ăn đậu phọng rang, mọi thứ đều sẵn trên bàn cùng phích nước xôi, vui vẻ,

thân tình. Cái màn tiếp đãi khách khứa self service này rất tiện, không cần tiểu

đồng, hầu thiếp phục vụ lỉnh kỉnh. (lấy đâu ra tiu đồng, hầu thiếp bây giờ. Trẻ

con đi học, coi TV. Phụ nữ đi làm, đi shopping.) và có lần ổng đã kể tôi nghe mẩu

chuyện ời thế đấy!

 

Phạm-Quỳnh viết:” Người An-Nam cái gì cũng cười”. Mẩu chuyện trên đây lại

buồn cười! Thế thì mình cứ ời vui cho thoải mái. No star where (Không sao đâu.) Tuy nhiên, mặt khác, những câu nói buồn cười này chưa hẳn đã thật, biết

đâu chẳng là hư cấu, mà dù giả hay thật, chắc chắn nó không có gì đáng khinh

cả, vậy xin đừng nghĩ tới lời phê phán khắt khe, miệt thị của ít người: “Tiếng Tây

bồi” !

 

Từ sau năm 1975, có rất nhiều người Việt bỗng nhiên bỏ cửa bỏ nhà sang sinh sống ở Hoa-kỳ. Tôi nói bỗng nhiên vì cuộc ra đi không dtrù trước. Có ông cụ búi tó củ hành cặp nách cái ô (Mà ni phương Tây đặt tên Ầm-bà-là, Đồng bào miền Nam kêu cái dù. Hồi xưa cái ô này được gọi ô máy, theo ông Tú Xương nó chính là cái ô Tây: “Hôm qua anh đến chơi đây, giầy dôn anh diện ô Tây anh cầm”), nói với mấy ngưi đng hương ngay khi bước xuống sân bay: “Chẳng hiểu tại sao tôi ở đây!”. Một bà già đi một mình, may mắn được ông lão ngưi đa phương “pông so” rước về, chủ nhật nào cũng đưa nhau tới nhà thờ.

 

Đng hương hỏi “Sao kiếm ngay được ông chồng tốt vậy?” Bà già trả lời “Thì có

biết chi đâu! Ổng bảo gì mình cũng gật đầu nói “yes” nên mới ra cơ sự!”

 

Không kể ít người bị love sick, rất nhiều kẻ bị home sick, chưa biết tiếng Anh,bao nhiêu chán nản, bao nhiêu trường hợp, đôi khi cũng gây ra vô số chuyện tức ời về ngôn ngữ vì đâu phải lúc nào cũng có thông ngôn, nhưng được cái, hiếm khi nghe ai phê phán “tiếng Mỹ bồi!” và hẳn tiếng Mỹ bồi cũng có lúc buồn ời lắm, xin miễn kể chỉ vì hầu hết mọi dân đồng cảnh ngộ đều kinh nghiệm, trải qua, chả ít thì nhiều.

 

Sau hơn ba chc năm bọn di-tản-buồn chúng tôi, cư ngụ ở Mỹ, bây giờ lại sẩy ra vấn đề mới trong cộng đồng, cũng nan giải: Người mình mà không nói rành tiếng nước ta. Tôi có thằng cháu không chịu cắt tóc ở tiệm có người Việt đứng cầm tông-đơ, l. do giản dị, không ngờ, “nó cứ hỏi hoài bằng tiếng Việt Nam cháu không biết nói làm sao.” Nếu còn chẳng tin, cứ nghe một số ít các ca sĩ giới thiệu trưc khi hát là đủ. “ Cam ta quy vi. Em xin trinh bay bai Muoi nam tinh cu...” chẳng cần bỏ dấu gì cả y như anh dân vệ ở Sa-Đéc, gốc Cao-Miên, bắt thằng nhỏ ăn trộm gà, hỏi “Ăn tôm đcua đâu?” (Ăn trm để của ở đâu?) mà cụ Vương-Hồng-Sển có kể trong sách.

 

Thực ra thì mấy danh ca (Không phải đánh cá) choai choai này đã là Mỹ cả rồi, họ sinh trưởng ở Mỹ mà! Hình dáng là Việt-Nam nhưng nói năng, suy nghĩ, ăn ở y chang như người bản xứ. “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Khả năng biểu diễn tiếng Việt như thế còn là may! Thành ra quan niệm của ông bà, ước ao con cái phải lấy vợ lấy chồng người Việt trở nên lỗi thời cái một. Mà Việt hay Mỹ nay có khác chi! Có khi Mỹ lại ngon lành. Kén chọn, nếu bậc cha mẹ có diễm phúc được kén chọn, thì đôi khi cũng chỉ hài lòng tới ngày đám cưới thôi!

 

Bây giờ, vấn đề chủng tộc chẳng còn mang . nghĩa quốc gia nữa. Một đội bóng đá của dân Gô-Loa thấp thoáng vài cầu thủ da đen là bình thường, tương tự, trong kỳ Thế vận Hội Olympic 2008 ở Bắc-Kinh, ta thấy một vận động viên tranh giải bóng bàn đại diện cho Hoa-Kỳ là một á-mụi 100 phần 100, đng trước mũi các vị con thiên tử: tiu, xoáy, vớt, múc, đập, rơ ve…đua tranh tận tình, tỉnh queo… no star where!

 

Nhưng vn đề ngôn từ, nói chung, vẫn là quan trọng, rất quan trọng. Ưu tiên tôi nghĩ, nên luôn luôn hãnh diện, đề cao, phổ biến và trau dồi tiếng mẹ đẻ.

“Tiếng ta còn, nước ta còn.”. Mặt khác, càng biết nhiều ngoại ngữ càng tốt, ít

nhất đỡ hiểu lầm, đỡ phải thông ngôn mỗi khi tiếp cận.

 

Người Tầu ở Chợ-Lớn phần đông biết nói rành tiếng Việt, chẳng trở ngại về sinh-ngữ, khi lấy vợ Việt, vẫn muốn vợ mình học thêm tiếng Trung-Hoa vì còn những trường hợp cần thiết như tiếp xúc các bậc trưởng lão họ hàng. Khổ nỗi, khi lấy nhau rồi, vì gia đình, con cái, công việc, đàn-bà đôi khi làm biếng chuyện học hành, nhất là lại thấy chả cần thiết. Ngộ ái lị, lị ái ngộ ợc dzồi.Nên nếu chồng có nhỏ nhẹ trách yêu thì thường “ngoan cố” trả lời đại khái, bằng một câu nhõng nhẹo cũng đáng yêu:

 

“Từ ngày lấy nhau,

Nị cứ bảo chẳng chịu học chữ gì,

Thế sao ngộ lại biết

Cái “pán-xì” là củ khoai lang!”

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.