Apr 25, 2024

Tùy bút - Bút ký

Tôi Ra Xứ Huế
Nguyễn Phú Long * đăng lúc 10:32:18 PM, May 02, 2017 * Số lần xem: 1282
Hình ảnh
#1

            

 
          
TÔI RA XỨ HUẾ

 

 


 

 Tùy bút của Nguyễn Phú Long

Khoảng tháng Mười năm 1888, khi viên tổng trú-xứ ở Huế là Etienne Richaud vừa  nhậm toàn quyền ít lâu, dịp này triều đình Việt-Nam mới cho thành lập một ban đại diện gồm cả ông Nguyễn-Văn-Mai tháp tùng, ông Mại là người vừa được thăng làm tự-vụ, sung hành tẩu, trực thuộc binh bộ thượng thơ cơ mật viện Hoàng-Hữu-Tường. Phái đoàn có nhiệm vụ tổ chức liên lạc định ngày đem vàng bạc châu báu, của hiếm vật lạ, sang chúc mừng quan tân toàn quyền Pháp tại Việt-Nam. Nhân tiện, thấy sẵn cơ hội, Hoàng-thái-hậu Từ-Dũ cũng gửi hai viên ngọc như-ý làm quà tặng người khách viễn phương.

 

Bên ni sông, là kinh thành của vua Đồng-Khánh, bờ bên kia có tòa tổng trú-xứ...sự qua lại còn phải dùng đò ngang chòng chành, diệu vợi...Hôm ấy chẳng may lại gặp mưa to gió lớn, các đồ tặng phẩm chia làm mấy chục thứ để ở long đình lập danh sách, sắp xếp kiểm tra canh gác, rồi cắt đặt nhiệm vụ người nào việc ấy cẩn thận che đậy đem xuống thuyền...vậy mà chẳng may mọi người lật đật nhiều việc cũng đã quên mất hai viên ngọc như-ý.

 

Đến tòa thì các quan chia nhau bưng tặng phẩm vào mà không thấy hai tráp đựng ngọc. Đoàn-trưởng Nguyễn-Hữu-Độ hỏi đi hỏi lại, các quan lớn đều sợ hãi bồn chồn lui ra, đổ lỗi cho Nguyễn-Văn-Mại, ông Mại bình tĩnh, một mặt ủy cho hai người thừa phái về viện kiếm tìm,ông nghĩ trong viện lẽ nào có người dám ăn trộm ngọc...,một mặt vào tòa thưa rằng:

 

"Hai tráp ngọc ấy để riêng một long đình, đem xuống một long thuyền nhỏ, nhân vì mưa gió nên chưa tới..."

Đình thần lấy làm lo lắng, biết là lời khai không thực, may sao, lát sau người thừa phái bưng ngọc đến...các quan mới vui mừng vào tiệc, rượu tây mới được khui ra, bồi bàn mới chạy lăng quăng, phong tục tuy khác biệt, ngôn ngữ lại bất đồng, chẳng thấy nói ở đấy có thông ngôn hiện diện làm việc hay không, nhưng điều đó nhằm nhò gì, gặp nhau đây, chủ khách đều hiểu vị trí của mình nên đã đãi ngộ thù tạc trong tinh thần "Pháp Việt đề huề"...thật thà, tha thiết, cởi mở!

 

        Đúng ra đây là một sự việc nhỏ, nhưng cũng gây nhiều hồi hộp, cái tóc cái tội, giữa chốn quan quyền vua chúa, sơ xuất mất đầu như bỡn, về sau chính ông  Nguyễn-Văn-Mại  có kể trong tập Lô-Giang Tiểu-Sử còn lưu truyền đến bây giờ. Ngay đó các quan hỏi, nếu tìm không ra thì nói sao? Ông Mại trả lời "Thì tôi nhận chìm một con thuyền và đổ cho mưa gió..."Mọi người nghe vậy ai nấy trợn mắt kinh ngạc trước mưu toan sắp đặt to gan của đương sự.

 

        Nguyễn-Văn-Mại (1858-1945) bút hiệu Tiểu-Cao, quê làng Niêm-Phò huyện Quảng-Điền đậu phó bảng hai lần (năm 1885 và 1889) sau được cử làm quản giáo chuyên về Hán văn  song song với cụ Ngô Đình Khả làm quản giáo về Pháp văn cùng trường Khải-Định, ngoài cuốn Lô-Giang-Tiểu Sử cụ Mại còn là tác giả tập Việt-Nam Phong Sử, cắt nghĩa rành mạch 100 câu phong dao lịch sử từ thời Hồng Bàng... đường công danh thênh thang, sáng lạn, cụ lên tới chức An Sát Quảng-Nam và rồi về hưu với hàm tổng đốc thọ gần 90 tuổi.

      

        Việc quên ngọc như-ý hồi ấy chỉ là một trường hợp hãn hữu, nếu chẳng phải quá giang, phái đoàn sẽ tránh được nhiều phiền toái lỉnh kỉnh và biết đâu nhờ đó sẽ không sẩy ra vụ quên ngọc, tuy nhiên chẳng phải vì lý do quên ngọc mà người ta mới rõ sự ích lợi của việc xây cầu làm cống.

 

        Thực tế đâu lạ gì, xưa nay hễ có sông, có dân là có cầu. Cầu cống là rất cần thiết.Nó giúp ích thuận lợi trong việc mưu sinh chợ búa đổi trao, tiện nghi qua lại họ hàng thân thuộc...thế thôi, Tình hình Việt-Nam hồi đó mà nói rằng cầu cống còn góp phần làm tăng trưởng kinh tế, văn hóa có lẽ hơi sớm. Dân làng giầu có làm cầu sắt, cầu bê-tông, cầu ngói... nếu nghèo làm cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo thậm chí kiếm mấy thân cây dài cắm xuống nước buộc lại thành hình chữ X rồi để thêm một cây nữa bắc ngang như cái sào phơi làm cầu khỉ cao chênh vênh cũng được.

 

Khúc sông Hương chẩy qua kinh thành Huế là vùng đất quan trọng hơn nơi nào khác, với lâu đài vua chúa bên ni, với tòa Trú sứ của quan Đại Pháp bên kia, với "nhiều bà đầm ngoi đít vịt, lắm ông cử ngỏng đầu rồng." Thì lại càng cần nhiều cầu cho tiện việc sinh hoạt hàng ngày, nên nơi đây về sau thấy xuất hiện cây cầu khá quan trọng, khá nổi tiếng đó là cầu Trường-Tiền thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên.

 

Theo sách Cố Đô Huế của học giả Thái Văn Kiểm, thì cầu Trường-Tiền làm từ năm Thành Thái thứ 9 (1897) cầu dài 400 mét và sở dĩ có tên Trường Tiền vì ngày trước gần đấy có một xưởng đúc tiền.

 

         Nhớ bến Trường-Tiền có cây đa bóng mát Gần bến Bồ-Đề có bãi cát phẳng lỳ.                    

Đại Nam Nhất Thống Chí nói rõ hơn: "Trường Tiền Thiết Kiều" ở đông nam kinh thành, bờ phía bắc thuộc về phường đệ nhất, tổng Phú Xuân huyện Hương Trà, bờ phía nam thuộc phường đệ bát. Khởi làm năm Thành Thái thứ 9 (1897), cầu có sáu gian, mỗi gian 66 thước 8 tấc 5 phân; Bề ngang 6 thước 2 tấc trọn bề dài 401 thước 1 tấc đến năm Thành Thái thứ 11 mới xong.

 

Lại theo cuốn L  Empire d  annam của Capitaine Ch. Gosselin thì cầu khởi công tháng 5 năm 1889 hoàn thành tháng 10 năm sau. Sàn cầu lát bằng gỗ lim, ra đời chưa được mấy năm bị gió bão năm Thìn, ngày 14 tháng 9 năm 1904, đánh xập, thế là thêm một lần phải... "đúc lại xi-moong!".

                  Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại  

                  Cầu Tràng Tiền đúc lại xi moong.

 

Từ ngày "đúc lại xi-moong" tưởng chiếc cầu sẽ bền vững dễ dàng cho cư dân hai bên bờ đi lại thân tình, cho "em tôi qua lấy chồng làng bên" hạnh phúc, nào dè nó vẫn còn nổi trôi theo vận nước bấp bênh:

 

        Cầu Trường-Tiền bấy nhiêu năm qua lại

        Kể từ đời Thành Thái đến nay

        Chạnh lòng biết hỏi ai đây

        Việc chi nên nỗi đang tay giựt cầu.

                                               Ưng-Bình.

 

Nhân tiện đến đây xin kể một giai thoại liên quan đến chiếc cầu Trường-Tiền trong tập hồi ký của Đặng-Thái-Mai ghi lại như sau:   

"Một tin đồn rằng ngày cái cầu Trường-Tiền bắc qua sông Hương, được khởi công lần thứ nhất thì lão khâm-sứ, hôm bắt đầu đặt hòn đá móng cho công trình đã nói với vua:

- Khi nào cái cầu này gẫy thì nhà bảo hộ sẽ trả lại nước An-Nam cho bệ hạ!

 

Nào ngờ đâu, cái trận bão năm Thìn "1904" đã xô ngã nhịp cầu đầu tiên xuống sông. Thế là mấy ngày sau khi nhà vua gặp lại khâm sứ trong một buổi lễ, đã hỏi ngay hắn ta: "Thế nào, cái cầu gẫy rồi đấy!" Làm khâm sứ chỉ còn nước xanh mặt, cười nghê, đánh trống lảng."

 

Theo giáo sư Hứa-Hoành trong "Sau Bức Cấm Thành Nhà Nguyễn"  thì vua Thành-Thái lên ngôi vào đầu năm 1889 lúc mới 10 tuổi, về thể chất nhà vua có nước da ngăm đen, cao lớn, khỏe mạnh, cặp mắt sáng, thông minh đã biết một ít chữ Tầu và chữ Tây. Ong có nhiều cử chỉ, thái độ chống đối người Pháp làm cho họ lưu ý, nên đã cắt cử một vài đại thần theo dõi để báo cáo.

 

Trường Tiền là một cây cầu lớn, lâu đời và nổi tiếng ở cố đô nước ta, so với cầu Long-Biên (Paul Doumer) tại ngoại ô Hà-Nội nếu xét về mặt thâm niên nó còn là bậc đàn anh sinh trước tuy không dài, rộng, bề thế bằng.

 

Cầu Long-Biên do hãng Daydé & Pille xây cất (không phải công ty Eiffel như cầu Trường-Tiền). Cầu dài 2,300 m cầu chính 1,800 m, hiện tại chỉ còn 9 nhịp dài 767 m về phía Hà-Nội là tương đối nguyên vẹn, rộng 30,6 m có đường sắt và hai lằn đường dành riêng cho khách bộ hành cao khoảng 44 m tính từ mặt nước sông, đã khánh thành hồi tháng 2 năm 1902 với chuyến xe lửa đầu tiên chở vua Thành-Thái, toàn quyền Paul Doumer, vua Mã-Lai, đại diện, Lào, Campuchia, Trung Hoa… khởi hành từ ga Hàng-Cỏ Hà- Nội vượt qua sông Hồng rầm rộ khua chiêng đánh trống có tính cách quảng bá, hãnh diện về việc làm ích quốc lợi dân đã thực hiện.

 

        Cầu Trường-Tiền có cái lợi hơn cầu Long-Biên là chiều dài vừa phải, chỉ có 400 thước, lại nằm giữa đôi bờ dân cư đông đúc, nên băng ngang cầu hàng ngày khách bộ hành sử dụng rất nhiều nhất là các nữ sinh áo trắng đã tận dụng môn thể thao đi bộ qua chiếc cầu lúc cắp sách tới lớp và khi tan trường về, tạo nên một hình ảnh đặc thù của Huế, làm tăng vẻ đẹp cho cây cầu, phát sinh những kỷ niệm, nhiều người nhớ đến trọn đời:

                   Nơi đây hương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ta có đậm đà!

                                           Hàn-Mạc-Tử.

 

        Không ai trối cãi là những cây cầu dù hùng vĩ dù đơn sơ ngoài sự ích lợi thiết thực, nó cũng giúp phần làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, nó như chứng tỏ có sức sống, có sự hòa hợp của thiên nhiên và sự hoạt động kiến tạo của bàn tay khối óc con người.

 

        Các văn nghệ sĩ, hơn những người khác, đã nhìn thấy rõ và họ cũng biết là những vẻ đẹp này nếu lấy làm bối cảnh sẽ tô điểm thêm cái lãng mạn, cái tình tứ, nên thơ tức là cái giá trị nơi tác phẩm của ho, chẳng biết có đúng thế không mà đoạn kể lúc chia tay của "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt." cùng "khách má hồng." Bên cầu, trong tác phẩm Hán văn của ĐặngTrần Côn "Chinh Phụ Ngâm Khúc" mà bà Đoàn-Thị-Điểm đã dịch, mô tả thì ai nghe, ai đọc dù chỉ mấy câu cũng thấy thật là... "Nhiều nỗi truân chuyên" vậy đó!

 

                Ngòi đầu cầu nước trong như lọc

                Đường bên cầu cỏ mọc còn non

                Đưa chàng lòng dặc dặc buồn

                Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.

 

     Đến đây ta sẽ mang tiếng là vô tình biết mấy vì nói tới Huế mà cứ kể lể về cầu Trường-Tiền sao chẳng đả động, nhắc nhớ chi đến sông Hương. Thử tưởng tượng coi, nếu không có sông Hương thì làm gì có cầu Trường Tiền, thì Huế lấy gì để hãnh diện là Huế đẹp Huế  thơ, là "non xanh nước biếc như tranh họa đồ." để hấp dẫn mọi người từ hàng dân giả tới các vị tài tử phong lưu, từ người địa phương lúc nào cũng ăn nói nhỏ nhẹ tới hàng du khách, kẻ ở xa đến... nhìn đâu đâu cũng mê mẩn tâm thần.

 

                Học trò trong Quảng ra thi

                Thấy cô gái Huế chân đi không rời.

 

        Sông Hương bắt nguồn từ núi Tường-Động và Chấn-Sơn đổ xuống hợp lại từ ngã ba sông Bằng-Lãng

quanh co trước Cơ-Thánh, núi Ngọc-Trản đến ngã ba Long-Hồ, cầu Gia Hội, Bao-Vinh, Triều-Sơn, Thanh-Phước, Bến Thái-Dương, thành Trấn-Hải rồi phóng ra cửa Thuận-An tổng cộng khoảng 55 dặm.

 

        Theo một vị rất có tư cách để nói về Huế là học giả Nguyễn-Cúc, người đang miệt mài tiếp tục xuất bản hàng năm những dặc san Tiếng Sông Hương, thì, Ngày xưa, không lâu lắm, dọc theo bờ sông Hương, cỏ cây hoang dại còn nhiều từ đồng nội xa xăm, hay những đám đất vồng thoai thoải, lưng chừng, mọc lên một loài

hoa, hương thơm nhè nhẹ gọi là DÃ CÚC sau này các nhà nho thích chữ nghĩa đặt thêm tên Hán Việt KHỔ Ý NHĨ.

 

     Từ trường Chaigneau đến trường Jeanne d Arc và gần đó dọc theo sông Hương, từ ngã ba tòa Khâm xuống đến Đập Đá, hoa thầu-đâu nở thênh thang và cũng có ngày hoa rụng tràn đầy. Hương Thơm hoa thầu-đâu không được dịu lắm Huế mình cho là hơi hắc.

 

        Có thể vì những mùi thơm rải rác dọc đôi bờ, hay trên những vồng đất thoai thoải lưng chừng mà con sông được mang tên sông Hương.Rất có thể là như vậy, nhưng ai là người đặt tên "sông Hương" cho con sông có mùi hương thơ mộng ấy ? Thật khó trả lời. Và, nguyên do mùi thơm đó từ đâu thi mỗi người giải thích một khác, tiện đây cũng xin ghi lại bài thơ Hương Giang Hành trình bầy nguồn gốc danh từ "Sông Thơm" của cụ Vân-Bình Tôn Thất-Lương, (1887-1951) cảm tác lúc cụ tòng sự tại tòa khâm-Sứ Huế:

 

                         Hương Giang Hành.

                Cỏ thơm có giống Thạch Xương Bồ

                Sanh ở hai nguồn tả hữu trạch

                Hoa thơm dầm nước, nước trong veo

                Họp thành "sông thơm" chẩy róc rách

                Quanh co rộng hẹp dài muôn sải

                Thấm mát ruộng vườn gành với bãi

                Em đềm theo dọc tỉnh Thừa-Thiên

                Chẩy về Thuận An ra Đông Hải.

 

        Nội dung Hương Giang Hành đại ý, từ hai bên bờ tận thượng nguồn sông Hương có một loài thảo mộc tên là Thạch Xương Bồ mọc nơi khe đá toát ra hương thơm hòa tan khiến cho nước sông có mùi thơm nên gọi là sông Hương, nước sông Hương đượm mui thơm của Thạch Xương Bồ chẩy róc rách thấm mát ruộng vườn gành bãi dọc theo tỉnh Thừa-Thiên về Thuận-An ra Đông Hải...

 

        Thạch Xương Bồ là loài thảo mộc như thế nào có lẽ ít người rõ. Theo Tự điển Tiếng Việt định nghĩa thì ta cũng chỉ biết đại cương: Xương bồ là danh từ, cây họ ráy, mọc ở nước, lá hẹp dài, nhọn, thân rễ có mùi thơm, dùng làm thuốc... Kỳ hoa dị thảo trên mặt đất nhiều vô kể làm sao biết hết. Lại nữa cùng loài cây ấy chỗ này gọi khác, nơi kia gọi khác thật khó truyền đạt cho nhau dễ dàng. Năm 1945 nhà văn Đỗ Tốn cho xuất bản cuốn truyện ngắn nhan đề HOA VÔNG VANG Nhiều độc giả hỏi: "Hoa vông vang là hoa gì?" khiến lần sau do Xuân-Thu tái bản tác giả đã phải giải thích trong "Vài lời nói thêm." In nơi cuối sách để mọi người cùng hay.

 

        Trở lại vấn đề ai là người đặt tên sông Hương thì đến nay tôi cũng chưa tìm được tài liệu chắc chắn để trình bầy nơi đây, ước mong quý độc giả quý vị cao niên nếu biết vui lòng chỉ bảo ngõ hầu tác giả và một số các bạn trẻ được học hỏi thêm thì thật là vinh dự, thật là mãn nguyện, mặc dù hơn một lần, tạm thời, khi có dịp nói chuyện với ai tôi vẫn trình bầy quan điểm dè dặt là, có lẽ, xin nhấn mạnh chữ "có lẽ", tên sông Hương nó đã thành hình từ từ qua sự cảm nhận và sử dụng thường nhật của người dân trong vùng...rồi lan rộng ra tới lúc được chấp thuận chính thức khi nào không hay. Cũng như ta gọi sông Hồng vì nước sông mang phù sa mầu hồng, sông Cửu-Long vì có chín nhánh uốn khúc vòng vèo như chín con rồng trước khi ra biển.

 

Hiện thời thì tôi chưa có cơ hội về Huế để trắc nghiệm lại những tài liệu quý báu vừa đề cập đến; để tìm hiểu học hỏi thêm xung quanh cái tên gọi của sông Hương. Nhưng tôi tin sự giải thích của hai vị Nguyễn Cúc và Tôn-Thất-Lương đưa ra đều đúng, nó bổ túc, hỗ trợ cho nhau cùng làm thành mùi thơm của sông Hương. Nói cách khác, hương thơm của dã cúc, của hoa thầu-đâu, của thạch-xương-bồ đã tạo ra mùi thơm cho sông Hương. Cũng có thể còn một vài yếu tố nhỏ nữa mà ta chưa hay.

 

        Bây giờ viết đến đây, thú thực, tôi chỉ đang bồi hồi nhớ tới khoảng thời gian cũ vì những năm trước 1975 "Tôi Ra Xứ Huế." nhiều lần và rất tiếc là hồi đó tôi đã không có nhiều thì giờ và cũng không lưu tâm lắm về chuyện này.

 

        Những ngày công tác của tôi nơi một đơn vị quân đội ở đó ngắn ngủi, công việc xong ít hôm là trở về đàng trong, ít lâu sau hữu sự lại vội vàng ghi tên với phòng 4 sư đoàn xin chỗ ngồi trên máy bay C130 trở ra khi cần và hễ có dịp tới Huế như thế, nơi dừng chân đầu tiên sau khi đáp xuống sân bay Phú-Bài hồi đó phần nhiều là tại hậu trạm tạm thời đặt trong Đại Nội, rồi từ đó mới ra Hương-Điền, Quảng Trị... bằng trực thăng bay trên phá Tam-Giang hoặc bằng đường bộ qua quốc lộ số 1.

 

        Bay bằng C130 hoặc trực thăng, riêng tôi thấy "khỏe" hơn là phải qua hãng Air VN vừa mất tiền, chậm chạp vừa ù tai nhức đầu với những chiếc DC4 quá cũ sử dụng trên các phi lộ nội địa.

 

        Khi tới Đại Nội xen kẽ những bữa cơm xấy với thịt heo hộp thơm phức mùi vị húng lừu tịch thu được của quân địch, tôi thường rủ mấy anh em ra chợ Đông-Ba ở ngoài giại, ngay chân cầu Trường Tiền (Giại là giải đất trống dài dài dọc theo bờ sông và ngay trước mặt sông), ăn cơm thịt luộc mắm tôm chua, con nào con ấy còn nguyên hình thù cong cong, đỏ như trái ớt chín, lại còn ẩn hiện với những sợi giềng thái nhỏ, khiến chưa cầm đũa đã nghe hương vị đậm đà, rồi vừa ăn vừa nghe tiếng râm ran như ong vỡ tổ của người mua kẻ bán, vừa ngửi mùi bánh đa nướng thơm lừng, vừa nhìn nào mệ nào o qua lại ai nấy đều mặc áo dài đàng hoàng dù bận bịu quang gánh tay xách nách mang hàng họ bán mua...

  

        Tối về... tụ tập trong sân Thế Miếu bên cạnh Cửu Đỉnh, cùng mấy quân nhân nằm ở hậu trạm ngổn ngang đây đó ba lô súng đạn và hàng trăm thứ quân cụ lỉnh kỉnh khác... khi thì đánh cờ, lúc binh xập xám trướng, chơi domino... cho giết thời giờ. Thực sự là giết thì giờ thôi chứ không phải tứ đổ tường vì:

 

Tôi ở nơi đây chỗ tận cùng.

Dẫu là giữa phố vẫn đầu sông.

                                             Trần-Vấn-Lệ.

 

        Một đêm trời thật nóng, vừa từ hành quân về tới hậu trạm, chúng tôi kiếm được bộ bài tổ tôm bèn quây quần chơi đánh chắn còm để thay đổi không khí. Đêm ấy mấy chân bài thay phiên ù tôm lèo...rất vui, rất phấn khởi. Tôi còn góp thêm vào một màn phấn khởi và vui hơn: Sau khi bốc nọc được cây cửu vạn, mầu hồng, tôi hạ bài xuống và hô bạch định! Mà đúng ra khi bài không có cây nào mầu hồng thì mới hô như vậy. Kết quả, thay vì được tiền lại phải bỏ thêm tiền ra...và làm mọi người cười lăn, muốn bể bụng! Thấy thế một ông gốc Bắc kỳ ngồi chầu rìa, tới chậm hêt chỗ chắc cũng ngứa ngáy chân tay, đề nghị cầm hộ mấy ván để tôi đi tắm cái... xả xui.

 

        Ở bên đầu hồi phía tả của Thế-Miếu có một cái giếng đá ong rất trong và mát, đặc biệt lúc nào nước cũng đầy, không cần thả giây, cứ lấy cái nón sắt, lợi dụng chỗ thành giếng bể, cúi xuống múc cũng được, xung quanh giếng những bụi chuối xanh um tình cờ làm thành một cái màn che thật tiện lợi. Ban ngày chúng tôi thường tắm ở đó rất thoải mái, kín đáo, tự nhiên, nhưng ban đêm thì sợ rắn rết chẳng mấy an toàn. Nhiều người còn hù là giếng ấy xưa kia để các mệ, các o, các cung tần mỹ nữ rửa  ráy sạch sẽ trước khi vô hầu thiên tử, bây giờ khi đêm đang ngủ chợt nghe tiếng nước xối và tiếng cười khúc khích, xúc phạm tới có thể bị bóp cổ, chết nhăn răng.

 

        Nghe vậy tôi không tin. Các bậc quốc sắc nõn nà sống trong nhung lụa ăn trắng mặc trơn tháng ngày được cơm bưng nước rót, lúc nào cũng ngong ngóng chỉ chờ vinh dự độc nhất là tin vui: được vời vô đón nhận "long chủng" của thiên hoàng...Các bậc quốc sắc thiên hương với những hàm răng đen rưng rức này đều quây quần trong cung Khôn-Thái ngay sau điện Càn-Thành, gần chỗ ở của vua rất xa Thế-Miếu.

 

        Những mỹ nhân luôn luôn khao khát mong đợi thi hành nhiệm vụ như thế phải cư ngụ gần đó để khi động dụng quý quan thái-giám túc trực dễ dàng, sửa soạn đúng thủ tục  "luật lâm-hạnh" rồi cõng trên lưng chạy thẳng tới đặt nằm trên long sàng mới tiện. Khi mọi việc xong xuôi viên thái giám trở vào lại cõng người cung nữ về phòng. Ngay lúc đó viên tổng thái giám cũng vào, quỳ trước long sàng chờ lệnh. Thái giám có năm bậc từ hàng tứ phẩm trở xuống. Ở bên Tầu hồi xưa Thái-Giám chia làm 10 bậc gọi là Thập Thường và đã một lần các thái giám, dù đã cắt phăng cái của nợ chẳng còn tha thiết chi cái sự đời cũng đã nổi giận, nổi loạn gọi là "Thập Thường Thị " sử sách còn ghi.   

 

        Tổng thái giám quỳ trước long sàng yên lặng...Nếu vua nói "Lưu!" tổng thái giám sẽ ghi rành mạch ngày tháng tên tuổi người cung nữ vào một cuốn sổ để đối chiếu trường hợp sinh con cái sau này.( theo tài liệu của Vũ-Đức-Sao-Biển trong cuốn Oan-Khuất A Q.)

 

        Nếu vua nói "Lưu" vậy tức là, dù ít dù nhiều cũng có đêm vua nói ngược lại "Không cần lưu." Và khi vua nói không thì chuyện gì đã sẩy ra nhỉ? Hồi đó chưa phát minh ra bao cao-su. Mà vấn đề kế hoạch hóa gia đình thì đâu thành..."vấn đề" đối với các bậc vua chúa! (các vua triều Nguyễn, trừ vua Tự- Đức vô hậu, người nào cũng nhiều con, Vua Gia-Long 31 con; Vua Minh-Mạng 142 con; Thiệu-Trị 40; Đồng Khánh 9...) Quan trọng là chuyện gì đã sảy ra và chuyện sảy ra có làm thất vọng, buồn lòng mỹ nương chăng? Chả nhẽ vời người ta vào rồi để khơi khơi cơm treo mèo nhịn. Nhất ẩm nhất trắc giai do tiền định! Tâm sự của nàng được giãi bầy khá đầy đủ trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của On-Như-Hầu Nguyễn- Gia- Thiều ( 1741-1798) nhưng chẳng thấy tác giả đề cập tới điểm này.

 

        Mặt khác, nghĩ lẩn thẩn thấy cũng tội, như thế các quan thái giám phụ trách việc "Kính sự phòng" của nhà vua thường phải làm việc ca nhì (ban đêm.) hoặc ca ba (cũng ban đêm) và về đời Minh-Mạng các vị này nhiều phần cực nhọc hơn so với các đồng nghiệp triều đại khác vì nhà vua có khi cao hứng biểu diễn "Hoàn thành hảo sự" tới sáu lần một đêm (Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử!).

 

        Đêm hôm đó tôi nhường cho người bạn cầm giùm rồi, không nỡ lấy lại chân bài,sau khi ra ngồi chầu rìa mấy ván, bèn nhờ một chú lính trẻ chở ra bờ sông Hương dọc theo đường Trần-Hưng-Đao ngủ đò:

 

              Sông Hương dợn sóng khuynh thành

              Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.

 

        Cũng như cơm hến, nón bài thơ, cơm âm phủ, kẹo mè xửng...ngủ đò trên sông Hương là một nét độc đáo của Huế, là nỗi tò mò, là niềm ao ước của hầu hết khách mày râu từ phương xa đến Huế. Không "dấn thân" một chuyến lúc về biết lấy mô kể chuyện làm quà. Câu chuyện có khi cần hư cấu thêm mắm muối cho đậm đà hơn thực tế, mục đích làm ngơ ngẩn thèm thuồng quý vị thính giả chưa từng bước chân tới chốn Thần Kinh "đêm tàn Bến Ngự!"

 

        Thường thường ngủ đò là phải có ca Huế.

        Riêng tôi ngủ đò để biết, để có cảm giác đơn giản vậy thôi chứ không bì được và không thực hiện được đúng cách như các giời quyền quý, quan lại, lắm bạc nhiều tiền nghĩa là cần thêm ca Huế, một hình thức nghệ thuật với ca nữ, đàn địch xênh phách, để thưởng thức những giọng ca, nhất là ca Nam như: Nam Cầm, Nam bình, Nam Ai đầy réo rắt nỉ non man mác...với rượu chè, ngắm trăng, ngâm vịnh... mà nghe nói thú chơi tao nhã đó rất thịnh hành nhất là vào thời cuối thế kỷ 19 ở đây, mặc dù có thể ca Huế đã xuất hiện từ thời chúa Nguyễn-Phúc-Chu (1691-1725) trên vùng đất mới chiếm của Chiêm-Thành này.

 

        Đức Khổng Tử viết: "Nhạc giả thiên địa chi hòa giã" (Nhạc là cái điều hòa của trời đất.) vì hoàn cảnh không thể thực hiện được sự hòa hợp âm nhạc và thiên nhiên dể thưởng thức cho đã, cho đúng điệu một đêm ngủ đò kể cũng tiếc.

 

        Xuốt đêm trên con đò nhỏ cắm xào lơ lửng giữa đôi bờ cùng vợ chồng già chủ đò, nhớ lại,  tôi không cảm thấy  mùi hương của dòng sông phảng phất đâu đây, gió mát cũng không, gần xa thấp thoáng những chiếc thuyền nan bé tý teo bán chè bán cháo cho khách ăn đêm với ngọn đèn trai leo lét...có thể mùi hương đặc biệt ấy chỉ tỏa ra ở thượng nguồn sông Hương. Chỗ này đã là đồng bằng, gần tới cửa bể, lòng sông rộng, thuyền ghe nườm nượp, ngay cả đám cỏ cây hoang dã không còn nhiều nên cũng chẳng có hương thơm nhè nhẹ của loài cúc dại và thật xui cho tôi, lại nữa, bấy giờ chắc cũng chưa tới mùa hoa thầu-đâu.

 

        Sóng chòng chành và không khí oi bức làm tôi không ngủ được. Hai vợ chông chủ đò cũng rì rầm lục đục hoài, cuối cùng thấy tôi còn thức họ mời ra ngoài khoang cho thoáng và uống trà. Tôi chui ra qua cửa tò vò, hỏi:

-  Mấy giờ ông bà mới đi ngủ?

-  Oi, già rồi thức ngủ chập chờn có chi quan trọng.

Nghe ông già nói vậy, tôi chưa biết trả lời sao thì ổng lại tiếp:

-  Ban mai vắng khách ngủ cũng rứa khác chi!

-  Vậy cứ ở dưới thuyền tối ngày, không cần nhà cửa sao?

     Ông già trả lời tôi hơi có vẻ kiêu ngạo:

-  Có chớ! Con gái tôi nó bán giải khát trên bờ kia tối về giữ nhà trông nom bốn đứa cháu ngoại. Còn tôi thì khi về khi không.

-  Chắc con rể của ông cũng ở đó?

     Tôi hỏi một câu hơi vô duyên nhưng người trả lời có vẻ ngậm ngùi:

-  Trước kia ở đó chứ ở mô, nhưng nó đi lính sư đoàn 1 đã chết từ mấy năm rồi!

 

Tôi bối rối không muốn nói gì thêm.Tôi chưa đến nhà của ông bà chủ đò, không biết ở đâu, nhưng tưởng tượng cũng hình dung được đại khái như thế nào. Đất cầy lên sỏi đá. Trời hành cơn lụt mỗi năm... Với quán nước của người góa phụ, với chiếc đò trên sông Hương do cặp vợ chồng già lèo lái,  với sự mất mát người trụ cột gia đình, gia đình bẩy miệng ăn, tương lai chẳng có gì tươi sáng phấn khởi. Sau một lúc im lặng đến lượt ông bà chủ đò hỏi tôi:

-  Chắc thầy trong Nam mới ra? 

-  Thưa quê tôi ngoài Bắc!

 

        Thiệt lạ, mỗi lần tới Huế, có dịp tôi lại muốn tự giới thiệu tôi người đàng ngoài. Sự thực đúng người đàng ngoài rồi, mà đàng ngoài đàng trong thì cũng rứa, cũng con Hồng cháu Lạc có khác chi mô!  Bây giờ đàng ngoài đâu còn giữ độc quyền thưởng thức rau muống luộc chấm tương như xưa!

Rau muống rỗng ruột như cây tre nên còn gọi là rau vô tâm, nhiều chất sắt có thể dùng làm dược thảo, tốt! Tên khoa học là Ipomoea Aquatica Nam Bắc đều biết, đều dùng như những món ăn trong bữa cơm bình thường: ăn sống, sào, luộc, nấu canh v...v...rất rẻ, rất phổ thông."Rau muống cơm tẻ mẹ ruột." Vậy xét kỹ vẫn phải đi đến kết luận làchả có gì phân biệt Bắc Nam. Nhưng tôi vẫn nói thế vì đó là sự thật và có lẽ cũng muốn tự nhắc nhớ cho phù hợp với hai câu thơ mà tôi rất thích:

Yêu em anh cứ anh vô

Kệ truông Nhà Hồ, mặc phá Tam-Giang.

 

        Hai câu thơ trên lấy ý từ câu ca dao "Yêu em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang." trích trong bài thơ dài 88 câu của Tản-Đà nhan đề Chơi Huế trong tập Tản-Đà Vận-Văn toàn tập do Sống Mới xuất bản. Chữ "Em" ở đây trỏ vào xứ Huế, tác giả cẩn thận ghi chú như thế! Vâng, chữ "Em" trong hai câu thơ Tản-Đà dùng để chỉ cố đô Huế thì mình phải hiểu theo ý của tác giả. Nhưng với câu ca dao, với tinh thần bình dân, đại chúng, tôi nghĩ nó chẳng mang cùng nghĩa như vậy. Nó là một người nữ. Nó là em ngồi bên cửa mình em, nó là Công Tằng Tôn Nữ đang nhìn...nắng hàng cau...v...v...

 

        Lần này, thấy câu trả lời chưa rõ, có thể bị nghi là người anh em phía bên kia, hồi đó là sau mùa hè đỏ lửa 1972 bomđạn vẫn còn mù trời, nên tôi tiếp:

- Thưa ông bà, tôi người Bắc, nhưng di cư vào Nam từ 1954 và đúng vậy, tôi mới ở Sài Gòn ra mấy hôm nay.

Bà già rót thêm nước cho tôi rồi nói một hơi, đầy thân tình:

- Mà thầy đã vãng cảnh chùa Linh Mụ chưa, ai ra đây cũng nên tới, trước là lễ phật sau là cầu duyên nợ vững bền! Linh Mụ thiêng lắm!

 

        Với giọng Huế trầm bổng dịu dàng nghe êm đềm quyến rũ, dưới ánh sáng lờ mơ, bà chủ đò trạc ngũ tuần, trông mảnh khảnh, quý phái, mộ đạo không có vẻ là người lao động "nghiệp dư ". Có thể, biết đâu trước đây bà chẳng là một nữ sinh Đồng-Khánh, "ngày ngày đi học, chiều chiều đi chơi." và hiện thời trong căn cước bọc nhựa, cũng như trên sổ Gia-Đình với mộc son, chữ ky chứng thực của phường xã đàng hoàng tên tuổi bà biết đâu chẳng là Công Tằng Tôn Nữ... làm cho vô tình ai thấy sự đời dâu bể sẽ hôi ngạc nhiên giữa quá khứ và hiện tại, tiếc thay cũng chỉ vì thời cuộc, vật đổi sao dời ...tôi như thức tỉnh, chợt khám phá rằng, thì ra có thể còn nhiều sự việc âm thầm ở cố đô vẫn chưa hay, tôi nhớ đến hai câu thơ của Lương-Quân, nghĩ bụng giá được bà đọc lên cho nghe chắc cũng đúng, cũng vui:

 

Ngẫm coi lầu các nắng mưa

Sông Hương, núi Ngự... đủ chưa? Lắc đầu!

 

        Tôi và có lẽ rất nhiều người thích nghe giọng Huế nhỏ nhẹ, bình thản, đều đều... dấu sắc, dấu ngã thì xuống thấp, dấu huyền thì lên cao, khoảng cách cao thấp này nhạc sĩ Phạm-Duy gọi là âm vực. Tôi đáp, cố bắt trươc giọng Huế nhưng không thành công:   

- Duyên nợ mô chừ, vợ con đùm đề rồi "mệ" ơi.

Bà già không chịu:

- Thầy nói chi lạ rứa! cứ cầu xin đâu thừa, các cụ nói tu nhân tích đức.. .

Sáng hôm sau trở dậy tôi thuê xe ôm viếng chùa Linh-Mụ.

Chùa Linh Mụ thuộc làng An-Ninh, một kiến trúc lâu đời nhất ở Huế, theo sách "Ô Châu Cận Lục" thoạt tiên từ 1553 về trước chỉ là một thảo am. Với câu chuyện Bà Già Mặc Ao Đỏ rất thiêng, biến lên trời, được dân địa phương về sau kể cho chúa Nguyễn-Hoàng nghe khi qua đây năm Tân-Sửu (1601) kết quả là ngài đã cho xây chùa. Mới đầu chùa có tên Thiên Mụ (Hay thực ra làThiêng-Mụ? ) rồi về sau năm 1850 sợ phạm húy với trời (Thiên) nên vua Tự-Đức đổi là Linh-Mụ. Tuy nhiên nay vẫn còn nhiều người gọi là Thiên-Mụ. Chùa tọa lạc trên gò cao ngay bên bờ sông Hương.

Lại sông Hương!

 

        Khúc sông này thật rộng. Xa xa, bờ đối diện là gò Thọ-Cương, cây xanh bao phủ, khói xanh êm đềm, tạo nên cảnh bên ni bên nớ:

                  Gió đưa cành trúc la đà,

                  Hồi chuông Thiên-Mụ canh gà Thọ Xương.

 

        Ngoài chùa có một cái tháp hình bát giác cao hơn 21 m đặt tên là tháp Phúc Duyên gồm 7 tầng, mỗi tầng thờ một đức phật. Chùa Linh Mụ được kể đứng hàng thứ 14 trong 20 thắng cảnh của cố đô Huế với bài thơ ca tụng của vua Thiệu- Trị (1841-1847) để lại trong cuốn "Ngự Chế Thi Tập" nguyên văn như sau:

    

                      Thiên-Mụ Chung Thanh.

   Cao cương cổ sát trấn tiền xuyên

   Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên

   Bách bát hồng thanh tiêu bách kết

   Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên

   Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm

   Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền

   Phật tích thánh công thùy hải vũ

   Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.

 

        Xin mạn phép tóm sơ đại ý: Chùa trên đồi cao trước sông thờ tượng phật phương phi phúc hậu, hãy tụng kinh, lần truỗi, đánh chuông để thức tỉnh đất nước, mang nhân lành quả tốt khắp cõi bờ.

 

        Ý nghĩa bài thơ đầy tình bác ái nhân đạo hướng thượng bao dung, rõ ràng là khẩu khí của bậc thiên tử, chắc chắn thế nào "Thiên Mụ Chung Thanh" hàng ngày cũng là những âm vang hữu ích nhắc nhớ tạo nhân quả tốt lành cho, không những cư dân kề cận mà còn ngân nga ảnh hưởng khắp bờ cõi.

 

      Tôi hy vọng có ngày tái ngộ Huế để ngó lại cầu Trường Tiền "sáu vài 12 nhịp"; Để đi thăm lăng tẩm lòng vòng, những nơi mà Phạm-Quỳnh hết sức ngợi ca:"Không biết lời gì mà tả được cái cảm giác lạ, êm đềm, ảo não, nó chìm đắm khách du quan trong cái cảnh tịch mịch u sầu này." Và để làm một chuyến đò dọc, ngược dòng Hương giang hướng lên thượng nguồn cố gắng nhận biết cái hương thơm thoang thoảng của nước sông, để nghe xao xuyến âm vang Thiên Mụ chung thanh...và còn thật nhiều điều khác nữa mà tôi chưa có dịp...

 

Ngẫm coi lầu các nắng mưa

Sông Hương, núi Ngự... đủ chưa? Lắc đầu!

 

        Thấm thoát vậy mà đã mấy chục năm. Núi sông ngăn cách. Ông bà già chủ đò cho tôi tá túc một đêm chắc đã ra người thiên cổ. Mấy "chiến hữu" tụ tập đánh chắn đêm nào giữa sân Thế Miếu người còn kẻ mất phiêu bạt bốn phương. Biệt vô âm tín. Mai sau, nếu hữu duyên có cơ hội trở về... lúc ngập ngừng bước chân vô Đại-Nội, dưới tàng phượng vĩ đỏ ối, chắc chẳng ai là cố nhân đón chờ, chẳng ai thỏ thẻ nhỏ nhẹ bên tai "Ôi chu choa! Lâu quá hỷ?"

Bây giớ mới tưởng tượng thôi mà nghe đã ngậm ngùi trạnh nhớ hai câu thơ của Chu-Mạnh-Trinh:

 

              Tịch mịch tiên triều cung ngoại miếu

              Đỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm./.

 

Nguyễn Phú Long


 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.