Mar 29, 2024

YouTube

Mười Bức Tranh Trâu - Điều chỉnh và bổ túc 10 bức tranh chăn trâu
Nhiều Tác Giả * đăng lúc 11:27:24 AM, Jan 05, 2024 * Số lần xem: 13097
Hình ảnh
Nhơn ngưu câu vong: người trâu đều quên (vẽ vòng tròn) Dứt Cả Hai
#1

 

 

  TRANH THIỀN TÔNG

I .TRANH
Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con tràu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa - ba cổ xe - là xe dê, xe nai va xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn chỉ một thừa thôi - Phật thừa - trực tiếp đưa người vào cảnh giới Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật Thiền Tông chủ trượng trực tiếp thành Phật là vậy.
Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít được thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ[1]nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.
Còn về thứ lời thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) là khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.
Riềng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhơn ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :...

TRANH ĐẠI THỪA

Vị mục: chưa chăn
Sơ điều: mới chăn
Thọ chế: chịu phép
Hồi thủ: quay đầu
Tuần phục: vâng chịu
Vô ngại: không ngại ...
Nhiệm vận: tha hồ
Tương vong: cùng quên
Độc chiếu: soi riêng
Song dẫn: dứt cả hai (vẽ vòng tròn)

TRANH THIỀN TÔNG

Tầm ngưu: tìm trâu
Kiến tích: thấy dấu, kiến
Kiến ngưu: thấy trâu
Đắc ngưu: được trâu
Mục ngưu: chăn trâu
Kỵ ngưu quy gia: cởi trâu về nhà
Vong ngưu tồn nhơn: quên trâu còn người
Nhơn ngưu câu vong: người trâu đều quên (vẽ vòng tròn)
Phản bổn hoàn nguyên: trở về nguồn cội
Nhập triền thùy thủ: thỏng tay vào chợ

Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại trụ sở Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng, Sài gòn, tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ánh phần nào cái thiền phong ngày trước.

Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loạt khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :

- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.
Còn một loạt tranh khác, rất cổ kính, in bằng một bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zennesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle co – Rutland Vermont – Tokyo Japan - 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây
II. NỘI DUNG
Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiên vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì. ...
Vô niệm: niệm tức chánh
Hữu niệm: niệm thành tà
(Pháp bữu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ lý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh mà loài người chúng ta hằng tự phụ.
Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.
Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng cần những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác: tu thì tiệm mà chứng thì đốn.
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ của Thiền tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian.
Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường: sai tâm bắt tâm - tâm vô tâm - bình thường tâm.
1. SAI TÂM BẮT TÂM
Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1 )

.
Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành....
Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2),


thấy thân trâu (tranh 3).


Thì ra trâu có trốn đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh.
Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4),


rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5).

 
Rồi chú cưỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6: kỵ ngưu quy gia).
 

Cưỡi trâu về nhà là cưỡi tâm về chỗ ban sơ.
Người ta đi tìm tâm vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, tri óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.
Thế là bắt được dấu, con người phăng mối đi tình tâm.
Đó là giai đoạn cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi: lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cưỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhật ra rằng târn ở nơi ta; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.
Dừng bước lại: ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm màu có thể thay đổi cả cục diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút - vài phút thôi - thì khuôn mặt của thế gian này chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.
2. TÂM VÔ TÂM
Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt, mâu thuẫn. ...
Đạo không mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một
Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.
Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư: cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chúng là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con ngươi thật”của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác:
tri huyễn tức ly
ly huyễn tức giác
là vậy
Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm? Tổ dạy: Ngươi đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư lýnh quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt: Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy: Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.
Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa - nếu không nói là một việc làm VÔ VI - mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience - nhận thực tánh Phật bổn lai ở trong ta.
Vậy sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, - xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói. (tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) - thấy tâm không thật, thấy người không thật.
Thấy tâm không thật thì tâm dứt: trâu quên (tranh 7: vong ngưu tồn nhơn)
 

Thấy người không thật thì ngươi quên nốt (tranh 8: nhơn ngưu cứu vong).
Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ: tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8).


Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn này :
“Đứng về mặt tâm lý, giác là vuợt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không”
"Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại” .

3. BÌNH THƯỜNG TÂM

Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhứt trùng quan.
(Trần Thái Tôn)



Thật vậy, trong đêm cuối cùng khi đức Phật ngồi ở cội bồ đề, Ngài lần lượt xuất và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về với ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhơn cảnh câu bất đoạt”, Ngài phải trở về trạng thái “nhơn cảnh cân bất đoạt”[2]để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.
Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.
* Trở về với trời đất - Trở về với trời đất với Pháp giới: đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
 

Từ thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền khỏi phải làm gì hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc.
Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên không thỉ không chung của trời đất.
Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong Pháp giới vô ngại: nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong KHÔNG: Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa: tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên
Nhứt thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn

(Lăng già)

TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ.

Một hột bụi chứa đủ ba ngàn thế giới. Ba ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.
“Có thì có tự mảy may,
"Không thì cả thế gian này cũng không.
“Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông
"Ai hay không có có không là vầy.

( Huyền quang tôn giả )

Đó là cái thấy của hàng bồ tát “quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.

*Trở về với thế tục - Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chơn nhơn”
“vào rừng không khua lá
“vào nước không quậy sóng
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba )

Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy: “Bình thường tâm thị đạo”.
Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :
“Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
“Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình.
Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý vô ngã” :
“Thất thập tòng tâm chi sở dục”.

Chứng được đạo lý ấy thì là gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu cũng là đạo tràng” pháp nào cũng là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.

Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Tư lấy làm lạ hỏi :

- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được?

Ngài cười đáp :

Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chăng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư?
Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỒ thỏng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.
KẾT LUẬN

Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :

Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm

Nghĩa:
Tìm trâu cần phăng dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tầm

****

 Tìm Trâu
Tầm ngưu: tìm trâu

 Tìm Trâu
Rẻ lau vạch cỏ cố công tìm
Non nước đường thênh xa dấu tâm
Tận lực lao tâm tìm chẳng thấy
Rừng sâu rộn rã tiếng ve ngâm .......

 

 Thấy dấu

Kiến tích: thấy dấu

Thấy dấu

Lội suối băng ngàn chân đã chai
Cỏ thom sẵn lối thấy gì đây
Dù cho hang núi sâu thăm thẳm
Lỗ mũi rành rành dễ dấu ai


Thấy Trâu

Kiến ngưu: thấy trâu

 Thấy Trâu 

Trên cành chim hót tiếng hoàng oanh
Nắng ấm vi vu biếc liễu xanh
Ngày đấy chẳng còn đâu tránh khỏi
Rõ ràng đầu giáp vẻ khôn thành


Chăn Trâu

Mục ngưu: Chăn Trâu


Chăn Trâu
Dốc hết thần thông mới thấy đây
Tâm hùng lực tráng khó lung lay
Vời trông mới đến cao nguyên nọ
Vội đã khuất tầm biệt gió mây


Ðược Trâu - Thuần Phục

Đắc ngưu: Ðược Trâu


Thuần Phục

Roi thừng chẳng phút để lơi tay
Chỉ sợ gió tung chốn bụi này
Chăn đã được trâu thuần thục tính
Khỏi lo kiềm chế vẫn theo đâu

Cởi Trâu Về Nhà

Kỵ ngưu quy gia: Cởi Trâu Về Nhà

 
 

Cởi trâu về nhà
Cởi trâu thong thả sắp về nhà
Tiếng sáo vi vu tiễn nắng tà
Gõ nhịp khúc ca vô tận ý
Hiểu nhau nào phải động môi nha


Quên Trâu Còn Người

Vong ngưu tồn nhơn: Quên Trâu Còn Người

Cỏi trâu rày đã tới nhà am
Trâu chẳng còn đâu, người cũng nhàn
Nắng đã ba sào còn đắm mộng
Roi thừng bỏ mặc xó nhà gian



Người Trâu Ðều Quên (vẽ vòng tròn)

Nhơn ngưu câu vong: Người Trâu Ðều Quên (vẽ vòng tròn) Dứt Cả Hai

 
Dứt Cả Hai

Roi thừng trâu mụ tứ đều không
Lồng lộng trời cao tin khókhông
Hùng lực lửa lò khôn nạp tuyết
Ðến nơi mới tháy tổ cùng tông


Thỏng tay vào chợ

Nhập triền thùy thủ: Thỏng Tay Vào Chợ
   

Thỏng tay vào chợ
Lộ ngực trần thân xuống chợ đời
Lấm lem tro đất ngoác mồm cười
Thần thông bí quyết không dùng tới
Chỉ cốt cành khô trổ nụ cười
....

Trở về nguồn cội

Phản bổn hoàn nguyên: Trở Về Nguồn Cội


 

 Trở về nguồn cội
Trở lại nguồn xưa khéo nhọc công
Sao bằng ngay đấy t
manh lung
Trong am chẳng thấy muôn ngàn vật
Nước tự mênh mông hoa tự bồng

 

 





                                                                   ***************************

 

                  Tranh Chăn Trâu Đại Thừa và Thiền Tông 
                                                         Thích Tuệ Sỹ

MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra phatdayluyentamnhuchantrau-contentcứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.
A. TRANH ĐẠI THỪA
I. TRANH
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ; nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :
Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)
Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:
 Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng
nghĩa :
 Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng
Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ lục) ; trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi ; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trường Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.
II. NỘI DUNG
Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương :
 “Vân hà hàng phục kì tâm ?”
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)
Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v… Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu : “vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.
Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.
Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.
Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.
 Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM :
“Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.
Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu” :
“Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp”.
Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.
Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.
(J. L. Jagarin : Le Judo International)

 

B. TRANH THIỀN TÔNG

tranh_chan_trau_thien_tongI. TRANH

Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai và xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.

Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.

Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật – Hy Vận), nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.

Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.

Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức cũng như về nội dung :

TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG

1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu : tìm trâu
2. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu : thấy trâu
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu : được trâu
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia : cỡi trâu về nhà
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên trâu còn người
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu vong : người trâu đều quên
(vẽ vòng tròn)
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên : trở về nguồn cội
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ : thõng tay vào chợ
(vẽ vòng tròn)

Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.

Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :

 - The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First Series.

Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co – Rutland Vermont – Tokyo Japan – 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi trích in lại mười bức họa sau đây.

II. NỘI DUNG

Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :

 vô niệm : niệm tức chánh
hữu niệm : niệm thành tà
(Pháp bửu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ hý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luận mà loài người chúng ta hằng tự phụ.

***

Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này.

Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì tiệm mà chứng thì đồn.

***

THẬP MỤC NGƯU ĐỔ của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian.

Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường : sai tâm bắt tâm – tâm vô tâm – bình thường tâm.

1. SAI TÂM BẮT TÂM

Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành.

Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có mất đi đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh.

Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5). Rồi chú cỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6 : kỵ ngưu quy gia).

 Cỡi trâu về nhà là cỡi tâm về chỗ ban sơ.

Người ta đi tìm trâu vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, trí óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.

Thế là bắt được dấu, con người phăn mối đi tìm trâu. Đó là giai đoạn ngoại cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, sai tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi : lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhận ra rằng tâm ở nơi ta ; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.

Dừng bước lại : ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm mầu có thể thay đổi cả cuộc diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút – vài phút thôi – thì khuôn mặt của thế gian nầy chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.

2. TÂM VÔ TÂM

Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt, mâu thuẫn.

Đạo không có mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một.

Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.

Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết, tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư : cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm đặt bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chung là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con người thật” của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác :

 tri huyễn tức li
li huyễn tức giác
là vậy.

Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm, Tổ dạy : Người đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư lính quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt : Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy : Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.

Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa – nếu không nói là một việc làm VÔ VI – mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience – nhận thức tánh Phật bổn lai ở trong ta.

Vậy, sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri tự giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, – xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói, (tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) – thấy tâm không thật, thấy người không thật.

Thấy tâm không thật thì tâm dứt : trâu quên (tranh 7 : vong ngưu tồn nhân).
Thấy người không thật thì người quên nốt (tranh 8 : nhân ngưu câu vong).

Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8). Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.

Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn nầy :

 ”Đứng về mặt tâm lý, giác là vượt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không”.
“Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại”.

3. BÌNH THƯỜNG TÂM

Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:

 Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(Trần Thái Tôn)

Thật vậy, trong đêm cuối cùng, khi đức Phật ngồi ở cột bồ đề, Ngài lần lượt xuất gia và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là Ngài đang chứng được cái tâm vô tâm. Song Ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhân cảnh câu đoạt”. Ngài phải trở về trạng thái “nhân cảnh câu bất đoạn” (Cảnh và người đều giữ nguyên.Chữ của Thiền Lâm Tế trong pháp “tứ liệu giản”) để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.

Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để, như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

Trở về với trời đất – Trở về với trời đất, với Pháp giới : đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn. 

Tự đời thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền dạy khỏi phải làm hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc.

Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thỉ không chung của trời đất. 

Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong pháp giới vô ngại : nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong KHÔNG : Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa, tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên :

Nhất thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn
(Lăng Già)

TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ

Một hột bụi chứ đủ ba ngàn thế giới. Bà ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.

 “Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông,
Ai hay không có có không là vầy”.
(Huyền Quang tôn giả) 

Đó là cái thấy của hàng bồ tát “quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.

Trở về với thế tục -… Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi cũng không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chân nhân”.

“vào rừng không khua ua lá
vào nước không quậy sóng”
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba)

Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy : “Bình thường tâm thị đạo”.

Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :

 “Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình”.

Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý “vô ngã” :

 “Thất thập tòng tâm chi sở dục”.

Chứng được đạo lý ấy thì làm gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu phải là đạo tràng” pháp nào là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.

Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng, mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Từ lấy làm lạ hỏi :

 - Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được?

 Ngài cười đáp :

 - Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chẳng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư ?

Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.

KẾT LUẬN

Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :

 Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quí vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm

Nghĩa :

 Tìm trâu cần phăn dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tâm

 Phước Châu Đại An hỏi :

 - Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó như cái gì ? Bách Trượng đáp : Hệt như cỡi trâu tìm trâu.

Hỏi : Hiểu rồi thì như thế nào ?
Đáp : Như người cỡi trâu về nhà.

Hỏi : Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp ?
Đáp : Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.

______________

PHỤ LỤC

Thi tụng và Họa của các Thiền Sư về Tranh Chăn Trâu .

TUỆ SỸ soạn tập

 

Giới thiệu 

Theo chỗ tôi biết, tác phẩm này đã được soạn từ lâu, nhưng một số các bài thi tụng chưa được tìm thấy đầy đủ, nên tác giả có ý để dành lại. Bây giờ, sửa chữa hay thêm thắt không còn là vấn đề nữa. Nó là một di cảo.

Thuở sinh tiền, tác giả có nói chuyện với tôi về các bài thi tụng, nhưng tôi chưa kịp mang đến tác giả tiện bề tham khảo. Nay, tôi cố gắng sưu tập chúng, in vào phần phụ lục này, gọi là một chút tưởng nhớ.

Tài liệu này, tôi rút ra từ Tục Tạng Kinh bản chữ Vạn, quyển 113, phần “Thiền tông trước thuật bộ”. Trong đó, có ba bản cùng một tiêu đề chung là Thập ngưu đồ tụng.

Bản thứ nhất, gồm mười hai thi tụng của Quách Am, luôn cả những bài họa của Thạch Cổ hòa thượng và Hoại Nạp Liễn hòa thượng, với một bài tựa do chính Quách Am viết, và những lời dẫn về các bức tranh, cũng của Quách Am (Quách Am ; Pháp hiệu Sư Viễn, phủ Thường Đức, Lương Sơn, dòng Lâm Tế, đời thứ 15 kể từ Nam Nhạc trở xuống, Sư là đệ tử của Đại Tùy Tĩnh thiền sư).

Bản thứ hai, tiêu đề riêng là Tân khắc Thiền tông Thập ngưu đồ, do Hồ Văn Hoán soạn tập. Bản này chép những bài vịnh của Phổ Minh thiền sư, và các bài họa của Vân Cái. Ngoài các bức tranh chăn trâu, Hồ Văn Hoán còn cho in cả các bức tranh về “Khổ lạc nhân duyên”, mà theo lời ông, ghi trong bài tựa, cả hai loại tranh hình như cùng có một ý nghĩa như nhau, là thuật luyện Tâm. Cuối cùng là một bài thơ “Tổng Đề” của Hồ Văn Hoán. Bài thơ ấy như sau :

 Quán bãi ngưu đồ diệc liễu nhiên
Tái quan khổ lạc hữu nhân duyên
Giả nhiêu bán tánh phi Không hậu
Tất cánh viên quang bất hiện tiền
Đả phá Thiền cơ Tam hữu Phật
Thoát ly ác thú phục tàng thiên
Yếu tri thử diệc phi nan sự
Thí bả công phu trước nhất tiên.

Bản thứ ba, gồm các bài họa tụng của 15 thiền sư về vịnh chăn trâu của Phổ Minh thiền sư. Bản này có một bài tựa của Chu Hoằng, một bài tựa của Đô Lịch đạo nhân, một bài tựa và danh sách các thiền sư hoa tụng của Như Niệm Không. Cuối cùng còn in riêng mười bài về tranh trâu trắng của Cự Triệt thiền sư. Điều đáng để ý là, trong bản này, có nhiều chữ bị mất, mà Hội Phật giáo Trung Quốc in lại năm 1957 đành bỏ trống.

Trong phụ lục này, tôi dịch tất cả các bài đã được kể trên. Trừ bài tựa của Hồ Văn Hoán, chỉ dịch một nửa, lược bỏ đoạn đề cập về tranh “Khổ lạc Nhân duyên”. Độc giả sẽ thấy các bài tựa này cung cấp khá nhiều chi tiết liên quan đến tranh chăn trâu. Do đó, tôi chỉ dịch mà không dẫn giải. Ngoài ra, tôi dịch trọn mười bài tụng của Quách Am, mười bài vịnh của Phổ Minh, và mười bài về tranh trâu trắng của Cự Triệt. Những bài khác lược bỏ.

Dịch mà không dẫn giải, còn một lý do khác. Ngoài lý do, những gì cần nói, đã được tác giả của tập sách nói rất đầy đủ, về hình thức, nội dung cũng như gốc gác của các loại tranh chăn trâu ; và tài liệu của các bài tựa được dịch cũng nói rất nhiều ; ở đây, lý do riêng của tôi là tránh làm rối loạn một di cảo, khiến cho sai lạc bản ý của tác giả. Vả lại, đến bây giờ, tôi vẫn không rõ những tài liệu mà tôi dịch ở đây có phải những gì mà tác giả cần có hay không. Vì tôi chưa có thời gian để học lại tác giả, nay thì không bao giờ có thể hỏi được nữa.

Tôi chỉ mong việc làm này, nếu không cần thiết theo bản ý của tác giả, thì cũng không đến nỗi làm lạc ý của tác giả. Như thế gọi là có thể tưởng nhớ được một chút tình tri ngộ của tôi đối với tác giả, kể từ khi cộng tác cho tạp chí Vạn Hạnh, và trong những năm cùng dạy học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Vậy, mong độc giả dành cho Phụ lục này một vị trí khiêm nhượng trong tập sách, để khỏi phụ lòng tác giả.

Tu Viện Quảng Hương, VII, 1972

 

_______________

 

MƯỜI BÀI TỤNG CHĂN TRÂU
Của Hòa Thượng Quách Am

TỰA

Chúng sanh vốn đã có sẵn cái nguồn suối Chân tánh của chư Phật : nếu mê, phải chịu trôi lăn trong tam giới, nếu ngộ, tức khắc vượt ngay ra ngoài cõi tứ sinh. Do đó, có kẻ thì thành Phật, có hạng thì làm chúng sinh. 

Các bậc hiền triết xưa, với tấm lòng thương yêu, đã bằng mọi cách dựng lên lắm đường đi. Về Lý, thì vượt những méo mó hay tròn đầy ; về Giáo nêu cao Đốn hoặc Tiệm. Từ thô sơ cho đến tinh tế, từ cạn cợt cho đến sâu sắc, cuối cùng, trong một chớp mắt, đóa sen xanh đã gợi lên nụ cười chúm chím của Đầu đà (Ca Diếp). Chánh pháp nhãn tạng từ đó chảy cùng khắp thiên thượng nhân gian, cõi này và cõi khác. Ai nắm được Lý của nó, thi siêu tông vượt cách, như đường chim không vết tích. Ai chỉ nắm được Sự của nó, tất lặn lội trong vũng ngôn từ, như con linh qui lết đuôi trong bùn lầy vậy.

Gần đây, có Thanh Cư thiền sư, ngài quán sát căn khí của chúng sinh, theo bệnh mà cho thuốc, soạn những bức tranh chăn trâu, tùy cơ trình bày giáo nghĩa. Từ buổi đầu, dần dần trắng, nêu rõ lực lượng còn yếu kém. Lần hồi, đến chỗ thuần chân, biểu trưng cho căn cơ đang tỏa dần. Cho tới lúc, người và trâu không còn thấy nữa, đó là tiêu biểu cho yếu lý rằng Tâm và Pháp thảy đều quên hết và cũng tiêu biểu cho giáo pháp nói rằng đã thấu suốt căn nguyên rồi vậy. Còn để lại cái nón lá, do đó, khiến cho kẻ căn khi thấp kém ngờ vực, bậc trung và bậc hạ phân vân. Hoặc ngờ nó rơi vào cõi hư vô, hoặc cho là nó rớt vào cái chấp thường hữu.

Nay xét ra, ngài thiền sư phỏng theo mô phạm của các đấng tiền hiền, rút ra từ lưng túi của mình làm mười bài thi tụng tuyệt tác, những luồng sáng giao nhau phản ảnh. Bắt đầu từ chỗ lạc mất, cuối cùng đến chỗ hoàn nguyên ; khéo léo phù hợp với mọi lớp căn cơ, lòng từ xa rộng cứu cơn đói khát. Do đó, tìm tòi diệu nghĩa, lượm lặt huyền vi, như kiếm đồ ăn cho sứa, làm mắt sáng cho loài cua biển. Bắt đầu từ việc tìm trâu, cho đến lúc đi vào chợ, thật như là đất bằng sóng dậy, đầu bỗng mọc thêm sừng. Tâm còn chẳng có để mà mò, thì làm gì có trâu để phải kiếm. Đậu lại nơi chỗ vào chợ, sao mà quỷ quái thế ? Thế là còn làm cho các ông không biết tai vạ, con cháu chẳng biết đâu mà lường. Đây, tôi thử hoang đường soạn ra đề xướng.

I.- MẤT TRÂU

DẪN – Xưa nay đâu có mất, săn tìm chi ? Bởi, quay lưng với Giác mà thành ra lỏng lẻo ; sấn bước vào Trần nên mới bị mất đi. Từ đó, quê hương càng lúc càng diệu vợi, mà đường sá lại gập ghềnh. Cái lẽ được và mất đã cháy bừng bừng ; phải và quấy mọc lên tua tủa.

TỤNG

 Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thủy thoát sơn diêu lộ cánh thâm
Lực tận thần bì vô mịch xứ
Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm

 Nức lòng vạch cỏ rong tìm
Non xa nước rộng đường chim mịt mù
Sức cùng dạ mỏi tìm mô ?
Rừng phong bóng ngả nghe hồ ve ngâm.

II.- TÌM TRÂU

DẪN – Mò kinh để thấy nghĩa, học giáo để tìm ra tung tích. Rõ, bao khí dụng chỉ một chất vàng, hết thảy tạo vật là chính ta cả. Chính tà khỏi lựa, chân ngụy khỏi phân. Bởi chưa vào được cửa đó, nên mượn tiếng kêu là “thấy dấu”.

TỤNG 

 Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dã ma
Túng thị sơn thâm cánh thâm sứ
Liêu thiêu khổng tị tạc tàng tha

 Dấu chân dọc bến ven rừng
Cỏ non chằng chịt biết chừng đâu đây ?
Non kia cứ vẫn xa dầy
Trời cao mũi hẹp dấu mày được ư ?

III. – THẤY TRÂU

DẪN – Theo tiếng mà vào, ghé mắt là thấy. Cửa sáu căn tỏ rõ không nhầm ; ngay nơi động dụng rành rành hiển lộ. Chất mặn trong nước, chất xanh trong màu. Vén lông mày lên, là nó chứ ai !

TỤNG 

 Hoàng li chi thượng nhất thanh thanh
Nhật noản phong hòa ngạn liễu thanh
Chỉ thử cánh vô hồi thị xứ
Sâm sâm đầu giác họa nan thành

 Vàng anh trên ngọn líu lo
Gió reo nắng ấm bên bờ cỏ xanh
Chỗ này thôi hết chạy quanh
Đầu sừng rối rắm khó thành vẽ lên.

IV.- ĐƯỢC TRÂU

DẪN – Từ lâu, vùi lấp ngoài đồng hoang, hôm nay đã gặp mi. Bởi cảnh đẹp nên khó lòng đuổi, đắm say cỏ non hoài mãi không thôi. Cứng đầu còn quá lắm, tính buông lung chưa hết. Muốn cho chịu khép mọi bề, cần cho roi vọt.

TỤNG 

 Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

 Trăm đường mới chộp được mi
Cứng đầu hăng tiết chưa qui thuận nào
Thoảng khi dắt đến gò cao
Lại trông mây nổi dạt dào buông lung.

V.- CHĂN TRÂU

DẪN – Niệm trước vừa khởi, niệm sau tiếp theo. Bởi đã Giác nên thành Chân. Bởi tại mê, hóa ra vọng. Chẳng phải lo cảnh mà có, nhưng chính do tâm mà sinh. Xỏ mũi, cùm đầu, không chần chờ gì nữa.

TỤNG

 Tiên sách thời thời bất li thán
Khủng y túng bộ nhập ai trần
Tương tương mục đắc thuần hòa dã
Cơ tỏa vô ức tự trục nhân

 Cây roi mang sẵn kè
Ngại y tung vó theo bè trần ai
Sửa lưng, mày đó ta đây
Trói chân cho kỹ, mày quây đường nào ?

VI.- CƯỠI TRÂU VỀ NHÀ

DẪN – Đã hết cuộc can qua, đã rồi câu được mất. Hát bài ca đồng của anh đốn củi, thổi điệu khúc quê của chú bé con. Vắt mình trên trâu, mắt mở nhìn mây vời vợi. Kêu réo, không quay đầu ; kéo lôi, cũng chẳng dừng bước.

TỤNG 

 Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
Tri âm hà tất cổ thần nha

 Lưng trâu bước chậm ta về
Sáo lên vi vút ngoài tê ráng chiều
Vừa ca vừa nhịp hiêu hiêu
Tri âm rồi khỏi ra điều nọ kia

VII. - QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI

DẪN – Pháp không là pháp phân hai, mắt trâu là tông chỉ. Mượn tiếng “bẩy thỏ” để dụ cho dị danh; lấy chữ “dò cá” để nêu cái sai biệt. Như vàng ròng rút ra từ đống quặng ; như trăng tỏ vén khỏi cụm mây. Một đạo hàn quang qua khỏi kiếp Uy Âm vô thủy.

TỤNG 

 Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng thông độn thảo đường gian

 Lưng trâu thoắt đã quê mình
Buông trâu mất hút mặc tình thong dong
Nắng cao còn đượm giấc nồng
Quăng roi nhà cỏ hết dùng nữa thôi

VIII. – NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN

DẪN – Buông bỏ tình phàm, thì ý Thánh cũng không. Chỗ có Phật cũng không thèm rong chơi, chỗ không Phật cũng không thèm ngó lại. Không vướng đầu này hay đầu nọ, không liếc xéo nơi này hay nơi kia. Hàng trăm con chim ngậm hoa, thẹn sao là thẹn !

TỤNG

 Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu quách tín nan thông
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyệt
Đáo thử phương năng hiệp tổ tông

 Người, Trâu, roi vọt đều không
Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng
Tuyết khoe trắng giữa than hồng
Cội nguồn quê quán tao phùng một phen

IX.- PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN

DẪN – Bản lai thanh tịnh, không vướng một mảy trần. Quán sát vẽ tươi và héo của những gì là hữu tướng, an thân trong cảnh ngưng tịch của đạo vô vi. Không đồng với huyễn hóa, cần gì phải tu, phải trị. Nước biếc, non xanh, ngồi mà xem cuộc thành bại.

TỤNG

 Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
Tịnh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thủy tự mang mang hoa tự hồng

 Mắt công mò lại cội nguồn
Trắng trong một dải ra tuồng điếc đui
Trong am không thấy cõi nào
Ngoài kia hoa thắm nước trào mênh mông

X.- VÀO CHỢ BUÔNG TAY

DẪN – Khép cánh cửa sài, một mình một bóng, dù Thánh Hiền vạn cổ cũng không hay. Chôn vùi cái văn vẻ của riêng ta, bỏ lại lối mòn của cổ đức. Mang bầu vào chợ, chống gậy về nhà, hàng rượu hàng cá, dạy cho thành Phật hết.

TỤNG

 Lộ hung tiễn túc nhập triền lai
Phù thổ đồ hôi thiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giao khô mộc phóng hoa khai

 Lưng trần chân đất chợ người
Cát lầm bụi vẫn ta cười say sưa
Thần tiên bí quyết cũng thừa
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.

____________

 

ĐỀ TỤNG CỦA PHỒ MINH THIỀN SƯ

TỰA của Phật tử Hồ Văn Hoán.
Tân khắc Thiền tông thập ngưu đồ

Tranh chăn trâu, vốn được Thiền tông dùng để thí dụ cho sự tu tâm chứng đạo. Mục đồng, tức là Người ; Trâu chỉ cho Tâm. Vòng ánh sáng tròn tức là Người và Tâm đã đến chỗ thuần nhất, chứng được đạo Bản Nhiên.

Tâm, là cái ai mà chẳng có. Có thì phải biết cách sửa trị. Đạo, người nào lại không sẵn. Đã sẵn, tất phải làm sao để chứng. Nhưng, lẽ đó đâu phải riêng nơi Thiền tông mới có, để thí dụ. Bọn ta dù là theo Nho, cũng đồng với lẽ ấy. Cũng chẳng phải riêng gì bọn Nho chúng ta mới đồng với lẽ ấy, mà mọi người trong thiên hạ thảy đều đồng. Nói gọn lại, từ đầu đền cuối không khác nhau. Lẽ này quá rõ. Nhưng lần hồi ta bị vật dục che lấp mất, cho nên cam phận trâu bò cũng chẳng bằng vậy. Trâu mà còn có thể dạy nho thuần, trong khi, Tâm mà bảo rằng không thể sửa, quả là điều chưa từng có.

 

TỰA của Chu Hoằng

Kinh Di giáo nói: “Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người ta”. Thế thì, thuyết chăn trâu bắt nguồn từ đó.

Kế tiếp theo, có Mã Tổ. Ngài hỏi Thạch Củng: “Chú làm gì đây?” Đáp “Chăn trâu”. Lại hỏi: “Chăn như thế nào?” Đáp: “Mỗi khi nó chạy a vào đồng cỏ, thì xỏ mũi kéo lui lại, thế là người chăn giỏi”.

Lại nữa, ngài Đại Qui An, vốn ở tại Qui Sơn, có nói: “Tôi nương nơi Qui Sơn, nhưng không học Thiền Qui Sơn, mà chỉ chăn một con trâu”.

Lại nữa, ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan hỏi vặn Quách Công Phu rằng ? “Trâu thuần chưa?”

Tự mình chăn, hay dạy kẻ khác chăn, đã thấy lũ lượt có, xưa nay cũng khá nhiều, thật là rành rõi. Về sau mới có người vẽ thành tranh. Bắt đầu từ lúc chưa chăn, cho đến lúc cả hai đều mất hút, trình bày thành mười chặng, và trâu cũng theo thứ tự, từ đen đến trắng, cuối cùng không còn màu trắng tinh ròng nào để mà tả nổi. Ngài Phổ Minh lại kèm theo mỗi chặng một bài tụng.

Phổ Minh, chưa rõ gốc gác là ai. Tranh và tụng cũng chưa rõ có phải do tay của một người hay không. Nay không bàn chuyện đó. Chỉ xét các bức tranh, biểu tượng thì rất rõ mà ý chỉ lại sâu sắc. Còn các bài tụng, lời gần gũi nhưng ý xa xôi. Người học cầm lấy mà làm bản đồ, để xét lại đức của mình hầu thành đạt sự nghiệp. Cúi xuống, xét chỗ thành tựu của mình ; ngửa lên, trông vào chỗ chưa đến để đến. Khỏi mắc chừng được ít đã cho là đủ, sa đọa vào tính kiêu mạn tự phụ. Như thế, giúp ích được rất nhiều. Tôi liền sao lục, cho đúc lại các bản gỗ. Ngoài ra, có bộ tranh vẽ, từ chỗ “tìm trâu” đến chỗ “vào chợ” gồm mười bức, đại đồng tiểu dị với bộ tranh này. Thêm nữa, cứ theo sự phân biệt của giáo điển về thứ lớp tiến tu, có thể so sánh mà biết. Tôi cho in phụ vào cuốn sách để tiện tham khảo. Nếu là kẻ một phen vượt lên là vào thẳng, không mất công roi rọt, mà trâu đã trắng rõ thiên nhiên, không phải theo thứ bậc, trong khoảnh khắc năng và sở cùng tuyệt hết, với người đó, tranh hóa ra đồ bỏ, và tụng cũng thành lời thừa, xem qua chắc chẳng khỏi một trận cười. Tôi không ép.

Niên hiệu Vạn lịch, năm Kỷ dậu, ngày Như Lai khánh đản, kẻ hậu học, CHU HOẰNG, kính cẩn viết TỰA.

 

TỰA của Độ Lịch

Ôi chao! Trọn cả trái đất là một con trâu của Phổ Minh, chỗ nào còn có Phật và chúng sinh nữa? Không cách biệt mảy may, vốn là Như Như. Nếu nói rằng, trâu này có đen có trắng, có đực có cái, có đói có no, chỉ là một Thể mà được phân làm hai, thì, khi đức Thế Tôn mới sinh, chỉ trời chỉ đất, đi một vòng, mắt dòm dõ, phạm vào lúa mạ người ta không phải ít. Tổ sư Tây đến, chỉ thẳng Tâm người, thấy tánh thành Phật, đã ăn cỏ uống nước của người ta quá nhiều. Ba huyền yếu, bốn liệu giản, năm vị quân thần, chín mươi sáu viên tướng, chịu hết roi vọt, cho đến dộng chày dựng phất, hươi gậy la hét, đủ mọi cách dùng, lông lá rụng cả, bốn vó lún dấu, để cho một cổ trâu trốn chỗ nào chả biết. Đến chỗ này thì, lớp quan ải dày đã bị phá, thử nói, bên trên kia còn có sự gì chăng ? Cầm phất tử vẽ viên tướng, bảo rằng: “Trong lửa trâu gỗ cày mây trắng, trong mây ngựa đá dỡn gió xuân”. Hiểu hay không hiểu? Xin xem các bài tụng chăn trâu, và các vần họa của chư phương ; rút lại, có chỗ nào hơn kém hay không?

Lâm Tế chánh tông, đời thứ 32, Độ Lịch đạo nhân Nghiêm Đại Tham kính cẩn đề tựa.

TỰA của Như Niệm Không

(Viết cho các bài tụng tranh chăn trâu của Phổ Minh và phụ họa tụng của các Đại Thiền sư).

Ngài Vân Thê Liên Trì đại sư (Chu Hoằng), soạn bản gỗ cho các bài tụng gốc của Phổ Minh, có viết Tựa nói : “chưa biết Phổ Minh là ai”. Thế thì, cũng không rõ đạo tràng của sư ở đâu vậy.

Năm tân sửu (1661), mùa đông, tôi về làng làm việc. Năm Nhâm Dần (1662), mùa hạ, cư sĩ Đạc Lịch mang đầu mối của Phổ Minh và các bức tranh trong chùa cũ ra cho xem, mới biết nhân duyên ở đây. Cư sĩ đã khôi phục lại nền móng của chùa, ban đầu mời Huyền Vi thiền sư, kế đến mời Ngài Minh Nham, chùa chiền sáng rỡ, phòng liêu dẫy đầy, tương lai có cơ thành hang sư tử. Tôi tìm thấy các bài tụng của chư phương, vui mừng không thể tả, bắt chước cũng họa theo, và đem tranh cùng các bài họa tụng hiệp thành một quyển để lưu thông.

MỤC LỤC các bài họa tụng

Văn Cốc đại sư
Thiên Ẩn thiền sư
Phá Sơn thiền sư
Vạn Như thiền sư
Phù Thạch thiền sư
Ngọc Lâm thiền sư
Nhược Am thiền sư
Sơn Tỳ thiền sư
Huyền Vi thiền sư
Hương Tràng pháp chủ
Đạc Lịch cư sĩ
Như Niệm đạo nhân què
Vô Y đạo nhân
Mục Công đạo nhân
Cự Triệt thiền sư (phụ các bài tụng trâu trắng)
Khang Hy nguyên niên (1662), tháng mạnh thu, ngụ Bát Nhã đưng, Như Niệm Không, kính tường.

 __________

 

THI TỤNG của PhỒ MINH THIỀN SƯ

I.- CHƯA CHĂN

 Sanh nanh đầu giác tứ bào hao
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển dao
Nhất phiến hắc vân hành cốc khẩu
Thùy tri bộ bộ phạm gia miêu

 Đầu sừng hung bạo kêu la
Ngược xuôi rừng suối đường xa dặm ngàn
Mây đen một dải ngoài hang
Lân la từng bước gậm càn mạ non

II.- MỚI DẮT

 Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên
Tùng lai liệt tánh (khuyết ba chữ)
Do đắc sơn đồng tận lực khiên

 Dây thừng xỏ mũi ta lôi
Một phen bứt chạy, lằn roi nặng nề
Vốn xưa dở tánh (…….)
Bây giờ chú mục sẵn kề một bên

III.- CHỊU KHÉP

 Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì
Đồ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
Mục đồng chung nhật tự vong bì

 Dần dà chịu khép mọi đường
Băng mây vượt nước dặm trường có nhau
Nắm dây ta giữ lấy đầu
Một ngày mệt lả ra mầu nhởn nhơ

IV.- QUAY ĐẦU

 Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu
Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa
Do bả mang thằng thả hệ lưu

 Ngày qua tháng lại lần khân
Hung hăng cuồng dại mấy phần chịu buông
Chú chăn ghé mắt trông chừng
Trong tay còn vững dây thừng chưa lơi

V. NGOAN NGOÃN

 Lục dương âm hạ cổ khê biên
Phóng khứ thâu lai đắc tự nhiên
Nhật mộ bích vân phương thảo địa
Mục đồng quy khứ bất tu khiên

 Dương xanh rủ bóng bên nguồn
Buông đi kéo lại ra tuồng thảnh thơi
Cỏ non, nắng quái, mây trời
Chú chăn thả bước tay lơi sợi thừng

VI.- KHÔNG NGẠI

 Lô địa an niêm ý tự như
Bất lao tiên sách vĩnh vô câu
Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ
Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư

 Giữa trời ru giấc thong dong
Khỏi công roi vọt, nhọc lòng kéo lôi
Cội từng chú mục ngồi chơi
Sáo lên vi vút nối lời vu vơ

VII. – BỎ MẶC

 Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung
Đạm yên phương thảo lục nhung nhung
Cơ xan khát ẩm tùy thời quá
Thạch thượng sơn đồng thùy chánh nồng

 Làn xuân, nét liễu tà dương
Khói un cỏ biếc trông chừng dặm xa
Đói ăn khát uống la đà
Gối tay trên đá người ru giấc nồng

VIII. QUÊN NHAU

 Bạch ngưu thường tại bạch vân trung
Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng
Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch
Bạch vân minh nguyệt nhiệm tây đông

 Mây trời, trâu trắng một màu
Lòng người thơ thẩn, lòng trâu hững hờ
Bóng trăng qua lớp mây đưa
Mây treo cõi bắc, trăng tà cõi đông

IX. MỘT BÓNG

 Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn
Nhất phiến cô vân bích chướng gian
Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ
Qui lai do hữu nhất trùng quan

 Chú chăn thư thả không trâu
Làn mây vời vợi trên mầu non xanh
Vỗ tay ca, bóng trăng ngàn
Nẻo về quê cũ tấc giang ngại gì

X.- VẮNG HẾT

  Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quan hàn vạn tượng không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tòng tòng

 Người, trâu vết tích là đâu ?
Trăng buông lạnh lẽo một bầu hư không
Hỏi thăm một lẽ tơ lòng
Kìa xem cỏ nội hoa đồng, chăng nhe ?

______________

 

CỰ TRIỆT THIỀN SƯ HỌA TRANH TRÂU TRẮNG

I.- MẤT TRÂU

 Trâu ở phía tây, mặt hướng về tây.
Mục đồng ở phía đông, mặt hướng về đông.

 Ngưu thượng ngưu hề, đồng thượng đồng
Ngưu đồng bối hướng các tây đông
Tiêm trần bất cách hà tiêu nhưỡng
Khoáng kiếp lai kim uổng tự hoăng

 Chú, trâu, này chú nọ trâu
Chú, trâu hai ngả hai đầu đông tây
Bụi hồng cách một rèm mây
Thiên thu lơ láo những ngày lang thang

II.- TÌM TRÂU

 Chủ nhân hỏi trâu ở đâu?
Mục đồng lơ láo.
Lại có một người từ phía tây đi đến, đưa tay chỉ về xa.

 Hốt hương sơn đồng vấn bạch ngưu
Sơn đồng võng thác bất tri cầu
Bàng nhân thức đắc ngưu tung tích
Chỉ điểm sơn đồng cấp chuyển đầu

 Thoắt đâu gạn hỏi sơn đồng
Mặt trơ mày dạn biết chừng là đâu
Có người hay được vết trâu
Đưa tay chỉ chú quay đầu về tây

III.- THẤY TRÂU

 Chú nhắm phía tây mà chạy ;
thấy có nhiều dấu chân trâu trong đồng ruộng.

 Đê hối mạch chuyển hướng khê tây (tê)
Nhất lộ thâm đề gián thiển đề
Đoan đích tân tri tầm cựu thức
Nhân ngư đáo thử lưỡng vô mê

 Quanh co đèo suối về tây
Dấu chân rải rác thưa dày chen nhau
Đường kia nỗi nọ cơ cầu
Lần theo vết cũ đã hầu gặp nhau

IV.- THẤY TRÂU

 Trâu trắng nằm yên trong đồng ruộng,
đồng tử nôm thấy, vui mừng.

 Hạnh tận sơn thôn quá thủy thôn
Hảo trung hốt kiến bạch ngưu tôn
Hân hân ổn bộ phương khinh khoái
Suyễn tức sơ điều dữ tế luân (luận)

 Trải bao xóm nước làn mây
Thoắt trông một cổ ở ngoài đồng hoang
Nhẹ chân cất bước vội vàng
Nén hơi kéo lại, nỗi mừng thấp cao

V.- ĐƯỢC TRÂU

 Trâu trắng từ từ đứng dậy.
Đồng tử vui vẻ, vuốt ve lưng nó.

 Bạt thiệp khê sơn khởi đạn lao
Bạch ngưu đốn hoặch giá di cao
Khoái tâm cửu biệt trùng tương khế
Thiện phủ thung dung hỉ phục thao

 Rừng khe bao quản lội trèo
Đã may gặp gỡ già nào trọng hơn
Xa nhau mấy nổi nguồn cơn
Thong dong tay ướm tay nâng vỗ về

VI.- GIỮ TRÂU

 Đồng tử rỗi rãi ngồi trên tảng đá.
Trâu trắng uống nước suối bằng thích.

 Ngư thích nhân nhàn khước sấu phì
Phong thanh nguyệt bạch cửu vong ki
Ư hương dã lục doanh sơn cốc
Kỉ độ triêu huy ánh tịch huy

 Mặc trâu không nại béo gầy
Trăng trong gió mát quên ngày đói no
Hương rừng cỏ núi mịt mù
Buâng khuâng nắng sớm đong đưa bóng chiều

VII.- CƯỠI TRÂU

Bóng chiều gác núi,
trâu trắng về ràng,
mục đầu vắt vẻo trên lưng,
thổi sáo làm vui.

 Phóng khoảng kị qui thế sở hi
Liễu ti tiên ảnh nhiệm phong huy
Sơn đồng suy triệt vô sinh khúc
Địch vận như huy nhập cấm vi

 Nghêu ngao lưng gối ai tày
Liễu tơ nghiên gió thoáng đầy bóng roi
Sơn đồng thổi khúc vui đời
Tà dương ruổi vận vào nơi cấm đình

VIII.- QUÊN TRÂU

 Trăng sáng trên trời,
mục đồng vỗ tay ca hát một mình.

 Bạch cổ hồn vong vô thặng trung
Sơ cuồng mục thụ khiếu cô phong
Sơn hà đáo ảnh thiềm thừ chuyển
Ngọc lộ linh linh quang ảnh trùng

 Bóng trâu vắng bặt am hao
Mục đồng cao hứng lên gào đỉnh xa
Nước non nghiêng, ánh trăng tà
Mà khuya điểm trắng sương pha lạnh lùng

IX.- VẮNG HẾT

Người và trâu đều không thấy,
chỉ có một vòng tròn.

 Lâu các trùng trùng đạn chỉ khai
Bổn vô dư khiếm thất ban tài
Không truyền ngủ thập tam gia xú
Dẫn khước nhân ngưu đại mộng hồi

 Khảy tay Lầu các chập chùng
Giàu sang bảy báu chưa từng thiếu dư
Hỏi chi thói Đáo hồ đồ
Giấc mơ Nhân Ngã bây giờ hoàn không

Phụ chú: Thiện tài Đồng tử theo lời dạy của Bồ tát Văn Thù, đã đi hỏi Đạo trải qua năm mươi ba chỗ. Khi đến hỏi Đạo với ngài Di Lặc, trong một thoáng gặp gỡ, Thiện Tài nhớ lại hết cả con đường dài đã trải qua, bất giác nhìn lại hai tay đầy cả hoa trời. Sau đó, ngài Di Lặc dẫn Thiện Tài vào lầu các Vairocona (Quang minh biến chiếu), vừa khảy móng tay, tức thì cánh cửa mở rộng, Thiện Tài thấy mình bước vào một thế giới giao ánh nhau trùng trùng vô tận. Thiện Tài, có nghĩa là người sinh ra cùng lúc với bảy báu cao quí nhất, và người đó từ khi mới sinh đã là bậc sang cả như một hoàng đế của thiên hạ.

Người chăn trâu đến lúc này như đã bước vào Pháp giới vô tận. Từ đây trở xuống, chỉ còn là hiện thần thông du hí tam muội mà rong chơi trong các cõi luân hồi, như đi vào chợ mà ngao du. Ngao du là chỗ rốt ráo của Bồ tát hạnh, vì nó tượng trưng cho ý nghĩa Vô Sở Trụ : Bồ tát không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết Bàn. Chúng sinh lang thang như mục đồng tìm trâu mà không thấy vết tích. Bồ tát cũng lang thang trong trầm luân khổ hải, nhưng thong dong như mục đồng buông tay vào chợ.

X.- VÀO CHỢ 

 Đồng tử đi trước, hướng về phía Đông
(vì là đang đi vào cõi sinh tử) ;
trâu trắng lẽo đẽo theo sau.

 Mại lộng nhàn nhàn bạch cổ ngưu
Nhập triền thùy thủ tứ ngao du
Đồng lưu cửu giới cừu phong độ
Tâm Phật chúng sinh vô biệt cầu

 Trâu theo đủng đỉnh mua vui
Buông tay vào chợ dạo chơi phố phường
Gió lành chín cõi đưa sang
Này Tâm, này Phật, này hàng Tử sinh.


*****************

Mười bức Tranh Chăn Trâu 
của Thiền Sư Quách Am

Trần Trúc Lâm

Thiền tông Trung Hoa đã gây ảnh hưởng rất lớn không những về mặt tôn giáo mà còn thấm nhuần sâu xa vào văn hóa, tâp quán, triết học, tư tưởng, học thuật của Trung quốc và các nước lân cận như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

Phật giáo từ Thiên Trúc đã du nhập lẻ tẻ sang Trung quốc đầu kỷ nguyên Tây lịch, nhưng mãi đến thế kỷ thứ III, trào lưu hoằng hóa mới bộc phát do sự gia tăng thỉnh kinh, dịch thuật và cầu pháp. Năm 329 có Hòa thượng Pháp Hiền đi Ấn Độ thỉnh kinh. Năm 401, có vị Đại sư xứ Dao Tần (Kucha, thuộc Tân Cương ngày nay), vốn dòng dõi quí tộc là Cưu Ma La Thập (Kumarajiva: 344- 413) đến Trường An truyền bá Phật pháp và phiên dịch kinh Đại thừa dấy lên một phong trào chép dịch kinh Phật rầm rộ ở Trung quốc. Các tông phái ban đầu như Tịnh-độ, Tam-luận, Thành-thực, Niết-bàn vv... liên tiếp lớn mạnh. Rồi các tông phái khác như Thiên-thai, Hoa-nghiêm, Pháp tướng vv... dần dần được thành lập.

Các tông phái ở thế kỷ thứ V nghiên về học thuật, chịu ảnh hưởng pháp Trung quán của Tổ Long Thọ (Nagarjuna) và theo con đường tiệm ngộ mà tu chứng. Mãi đến thời hai đồ đệ xuất chúng của Đại Sư Cưu Ma La Thập là Đạo Sinh và Tăng Triệu thì sắc thái Phật học tại Trung quốc mới mang một sắc thái đặc thù mới.

Đạo Sinh (360-434), vốn học rộng và tinh thông giáo pháp, đã thành lập Niết bàn tông. Ngài đã cùng sư phụ Cưu Ma La Thập dịch Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika-sutra) và Duy Ma Cật Sở Thuyết (Vimalakirtinirdesa-sutra). Ngài cũng đã có công tổng luận hai bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana-sutra) và Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita-sutra), giải rõ ý niệm mọi chúng sinh đều có Phật tánh (Buddhata) bình đẳng và hành giả tu theo theo con đường đốn ngộ, có thể hốt nhiên mà đạt chánh giác và hợp nhất với Chân Như. Ngài thuyết rằng Phật tánh nói trong Kinh Đại Bát Niết Bàn và tính Không trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa chỉ là một. Cả hai đều là vô tính, vô tướng và đó cũng chính là Niết bàn, một giai tầng tâm thức không còn phân biệt giữa tướng ngã, tướng nhân.

Tăng Triệu (374-414), ban đầu học đạo của Lão,Trang, khi rốt ráo lại than "Hay thì hay lắm nhưng còn trụ nơi hư vô, chưa đến chỗ tột cùng", đến khi đọc qua kinh Duy-Ma Cật Sở Thuyết, ngài vui mừng thốt "Nay mới biết được chỗ về!" bèn xuất gia làm đệ tử của Cưu Ma La Thập. Tăng Triệu nổi danh qua bộ Triệu Luận gồm bốn cuốn là Bát Nhã Vô Tri, Bất Chân Không, Vật Bất Thiên và Niết Bàn Vô Danh. Qua đó ngài đã trình bày tính xuyên suốt của tương đối và tuyệt đối, của hiện tượng và bản thể, chúng vừa tương vừa nghịch nhau. Chính nhờ Tăng Triệu mà Đại thừa hệ phái Trung quán đã nẩy nở đầy sinh lực trên đất Trung hoa.

Khoảng năm 520, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị Tổ Thiền tông đời thứ 28 của Ấn Độ vì thấy sự suy vi của Phật giáo tại bản xứ nên theo đường biển đến Quảng châu lúc Ngài đã 50 tuổi để hoằng hóa sang Trung quốc và sau bao thăng trầm buổi đầu đã thiết lập được một truyền thống Thiền Trung Hoa tuyệt diệu nhờ nẩy nỡ trên một mãnh đất đã sẳn mầu đạo vị, và trở thành vị Sơ Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài thường thuyết bộ kinh Nhập Lăng Già (Lankavata-sutra) và truyền phép thiền định. Ngài đã đặt ra hầu hết những giềng mối cơ bản cho Thiền tông Trung Hoa.

Bồ Đề Đạt Ma với tướng mạo dữ dằn, mắt lộ, râu ria rậm rạp đến nỗi các hành giả còn gọi ngài là "Bích nhãn Hồ" nghĩa là tên rợ mắt xanh, mở ra được dòng Thiền từ Chùa Thiêu Lâm, trên rặng núi Tung sơn. Tương truyền nơi đây Ngài đã thiền định suốt 9 năm ngồi quay mặt vào vách đá, và cũng tại đấy Huệ Khả đến cầu đạo. Từ đó y bát giòng Thiền đã được truyền thừa cho năm vị Tổ kế thừa là Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngủ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Đến thời Huệ Năng, đời nhà Đường, thì phái Thiền tông đã phát triển rộng rãi, đạt đến tuyệt đỉnh và rất được trân trọng ở Trung Hoa. Chính ngài là người đã vận dụng cả kinh điển Đại thừa, thiền định Ấn và Lão giáo để truyền dạy yếu lý của Phật pháp là đốn ngộ kiến tánh. Uy danh, đạo hạnh của Huệ Năng được sử sách đánh giá rất cao trong hàng chư tổ. Lời giảng của ngài ghi lại trong bộ "Pháp Bảo Đàn Kinh" được gọi là Kinh trong khi sách của chư tổ khác thì chỉ được gọi là Luận mà thôi.

Huệ Năng lập môn phái ở Tào Khê, phía nam nước Tàu nên được gọi là Nam tông, vì Thần Tú, một đệ tử cao tăng khác của Hoằng Nhẫn, nhưng lại không được chánh truyền y bát, vẫn ở lại núi Hoàng Mai lập phái Bắc tông, theo lối thật tu tiệm ngộ, nên đương thời có câu: "Nam đốn, Bắc tiệm". Phái Bắc tông về sau suy kém, trong khi phái Nam tông càng ngày càng hưng thịnh và dần dần lập thành 5 phái Thiền của Trung Hoa. Lục Tổ đã y theo lời dặn dò của Thầy là Hoằng Nhẫn: "Ngày xưa đức Đạt Ma mới đến xứ này, người ta chưa tin Phật pháp, nên phải truyền cái y và bát này để làm vật tin từ đời này sang đời khác. Còn Pháp thì lấy tâm chuyển tới; và từ xưa chư Phật chỉ trao kín cái bản tâm mà thôi. Y, bát này lại trở thành cái mối tranh chấp, vậy từ đời ngươi trở đi, không cần phải truyền y bát nữa, vì tông phái đã có truyền thống rõ rệt rồi..." mà không truyền thừa y bát lại cho đệ tử tín cẩn nữa.

Tác phong tu hành thời Huệ Năng đã bắt đầu bớt dần lối sinh hoạt thuần tĩnh tọa trầm tư của tăng già Ấn Độ, có lẽ một phần vì ảnh hưởng của môi sinh, khí hậu Trung quốc lạnh lẻo hơn, nên thêm vào phép tu lao tác (làm lụng bằng chân tay) để định tâm, nhưng vẫn chưa triễn khai lối Thiền công án, thoại đầu hoặc át bổng (hét đánh) như về sau.

Chủ thuyết của Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn trong câu: "Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật" hoặc "Bất nhị pháp môn" cũng trở thành tôn chỉ của Thiền tông Trung Hoa.

Huệ Năng có hai đệ tử xuất sắc là Nam Nhạc Hoài Nhượng (Nanyue Huairang: 677- 744) và Thanh Nguyên Hành Tư (Quiyan Xingxi: 660- 740). Người kế vị Nam Nhạc là Mã Tổ Đạo Nhất (Mazu Daoyi: 707-786), kế đến là Bách Trượng Hoài Hải (Baizhang Huaihai: 749-814; lập phái Qui Ngưỡng chủ trương triệt để lao động chân tay theo qui tắc nghiêm ngặt), rồi đến Hoàng Bá Hy Vận (Huangbo Xiyun: ?- 850; mà những lời dạy của Ngài đã được đệ tử Bùi Hưu chép lại trong bộ Hoàng Bá Truyền Tâm Pháp Yếu rất danh tiếng), rồi đến Lâm Tế Nghĩa Huyền (Linji Yixuan: ?- 867; đã lập phái Lâm Tế trong thời gian Pháp nạn ở Trung quốc: 842- 845; và Ngài đã phát minh ra lối thiền công án, cùng phép át bổng mà truyền thống vẫn còn duy trì cho mãi đến ngày nay - xem BichNham Lục, Vô Môn Quan vv...) Giòng Thanh Nguyên Hành Tư về sau phát sinh ra 3 tông phái khác là Tào động, Vân môn, và Pháp nhãn. Hai phái Tào động và Lâm Tế đã được truyền sang Nhật ở thế kỷ 12 mang tên là Sodo và Rinzai.

Thiền tông cũng đã được truyền vào Việt Nam thời thuộc nhà Tùy, khoảng năm 580, do một vị Thiền sư Ấn độ tên là Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci:? - 594), vốn là đệ tử của Tam tổ Tăng Xán, vì nạn phá Phật ở Trung quốc đã vâng lời thầy đi hoằng hóa phương Nam, đến tỉnh Hà Bắc lập chùa Pháp Vân (chùa Dâu) và truyền thừa cho Pháp Hiền. Có thuyết cho Tì Ni Đa Lưu Chi là tổ dòng Thiền ở Việt nam; nhưng lại có nơi cho rằng chính Khang Tăng Hội là người khai sáng. Tiếp theo, đến năm 820 đời Đường có Thiền sư Trung Hoa Vô Ngôn Thông (? - 826) môn đệ của Bách Trượng Hoài Hải, ngụ tại chùa Kiến Sơ, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Dòng Thiền này đã sản xuất ra những vị Thiền sư lỗi lạc như Khuông Việt, Thông Biện, Mãn Giác, Minh Không, Giác Hải vv... Rồi năm 1069 có Thiền sư Thảo Đường cũng vân tập phương nam hoằng dương chánh pháp.

Thực ra thì truyền thống Thiền đã có từ lâu đời ở Ấn độ, khởi phát từ các phương pháp tu luyện chú tâm quán tưởng của phái Yoga thuộc Bà la môn giáo, nhưng chỉ được kín đáo truyền dạy cho các đệ tử trong hàng tăng lữ đạo sĩ mà thôi, chưa được phổ biến rộng rãi ra ngoài cho các giai cấp khác. Truyền thống thiền trong Phật giáo dĩ nhiên cũng đã khởi đi từ thời Đức Phật Thích Ca qua điển tích "Niêm hoa vi tiếu" giửa Phật và đại đệ tử Ca-Diếp (Mahakasyappa). Đạo uyên áo không thể thuyết được bằng lời mà chỉ dĩ tâm truyền tâm mà thôi cho những ai đã đạt đến trình độ đạo đức tối thượng. Tam tạng kinh điển, do các đệ tử kết tập những lời dạy của Đức Phật chỉ là phương tiện, kim chỉ nam vẽ đường để "kiến tánh", để đạt đến cõi tâm thể linh diệu vô nhị, còn gọi là Phật Tánh, hay Như Lai Tạng Tánh (Tathagata), hay còn được gọi bằng vô số thuật ngữ khác trong rừng kinh điển như Viên Giác Tánh, Bản Lai Diện Mục, Trí Tuệ Bát Nhã, Bản Tánh Sáng Suốt, Vô Tâm, Vô Thức, Đạo, Atman, Phi Thức - Phi Vô Thức (Naivasamjna-nâsamjnayatan), Diệu Tánh, Chân Như, Không, A lại đa thức, Niết Bàn, Tánh Giác, Chơn Tâm, Pháp Vô Sanh, Pháp Bất Diệt, Pháp Tối Thượng, Pháp Thân Huệ Mạng, Bản Thể Chân Thật, Bản Nguyên Chân Thật, Kim Cang Bất Hoại, Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoặc Bản Lai Vô Nhất Vật vv...

Giáo lý chỉ giúp ở 6 bậc chuẩn bị của 8 bậc thiền định. Theo phái Yoga thì thiền định được phân ra làm 8 bậc để đạt đến siêu thoát là Yama, Niyama, Asana, Pranayama, Pratyahara, Dharana, Dhyana, và Samadhi. Tam tạng kinh thì chia ra 4 bậc thiền và 4 bậc định. Tổ Long Thọ thêm một bậc thiền ban sơ nữa gọi là thiền chuẩn bị. Tổ Thế Thân còn chia bậc thiền chuẩn bị thành hai bậc và đề ra hai hình thức luyện tập là bất tịnh quán và trì túc niệm.

Giáo lý không tạo ra giác ngộ. Liễu ngộ được Phật tánh không phải do học mà ra. Không có cuốn kinh nào hay lối tu khổ hạnh nào cứu kẽ hành giả ra khỏi luân hồi. Những kẽ hay thuyết lý đều là trợ thủ của Mâra, dẫn dắt người vào chỗ mê hoặc. Những người chỉ chuyên nghiên cứu Phật pháp và Thiền tông, có thể là bậc uyên bác, nhưng thường bị mắc kẹt ở giai tầng ý thức, vì họ chỉ muốn thỏa mãn ở mặt tri thức, mà không thực tu thực chứng ở mặt tâm linh. Bởi vậy mà Đức Phật đã từng dạy rằng giáo pháp tựa như ngón tay Ngài trõ cho thấy mặt trăng tựa như chân như tự tánh mà thôi, và chư tổ nói đến bất lập văn tự,kiến tánh thành Phật là thế.

Chỉ có thiền định, phản chiếu hồi quang - dĩ nhiên là sau khi trải qua khá nhiều thời kỳ tu tập dọn dẹp bản thể cho được tuyệt thanh tịnh - mới khám phá ra được Phật tánh nơi chính mình. Những bộ kinh, luận như Tam Tạng Kinh, Bát Nhã Ba La Mật Đa Luận, Trung Quán Luận của tổ thiền thứ 14 Long Thọ (Nagarjuna), bộ Câu Xá Luận của Tổ thứ 21 Thế Thân (Vasubandhu) và Kinh Lăng Già của tổ thứ 28 Bồ Đề Đạt Ma vv... đã dẫn dắt hành giả theo lối tu tiệm ngộ; cho mãi đến Lục tổ Trung Hoa Huệ Năng mới nhấn mạnh vào lối tu trực chỉ đốn ngộ.

Trong chốn già lam, từ xa xưa đã xuất hiện nhiều bộ tranh chăn trâu của các cao tăng cốt truyền dạy chúng tăng, nhưng rồi thất lạc dần. Mãi đến đời Tống (960- 1279), nhiều bộ tranh mới đã được truyền tụng trong các Tòng lâm, Thiền Viện, có thuyết cho là gồm 4 bộ, có thuyết khác cho là 5 hay 6 bộ, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập, chứng nghiệm.

Tựu trung mỗi bộ có mười bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi, có thể xếp thành hai loại: Loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Tuy tranh vẽ có khác nhau đôi chút nhưng các bài tụng và bài chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi. Các bức tranh được đặt đề mục theo thứ tự từ 1 đến 10 như sau:

Tranh Đại thừa: 1: Vị mục (Chưa chăn). 2: Sơ điều (Mới chăn). 3: Thọ chế (Chịu phép). 4: Hồi thủ (Quay đầu). 5: Tuần phục (Vâng chịu). 6: Vô ngại (Không ngại). 7: Nhiệm vận (Tha hồ). 8: Tương vong (Cùng quên). 9: Độc chiếu (Soi riêng). 10. Song dẫn (Dứt cả hai) với bức tranh vòng tròn.

Tranh Thiền Tông: 1: Tầm ngưu (Tìm trâu). 2: Kiến tích (Thấy dấu). 3: Kiến ngưu (Thấy trâu). 4: Đắc ngưu (Được trâu). 5: Mục ngưu (Chăn trâu). 6: Kỵ ngưu qui gia (Cỡi trâu về nhà). 7: Vong ngưu tồn nhân (Quên trâu còn người). 8: Nhân ngưu câu vong (Người trâu đều quên), với bức tranh vòng tròn. 9: Phản bổn hoàn nguyên (Trở về nguồn cội). 10: Nhập triền thùy thủ (Thõng tay vào chợ).

Ban đầu thì Đại sư Thanh Cư chỉ vẽ ra 8 bức, đến mục "Một vòng trắng" không còn trâu, không còn người chăn, tượng trưng cho tâm và pháp cả hai đều hết, pháp là dụ cho trâu, tâm là dụ người chăn. Về sau Thiền Sư Tắc Công e hàng sơ căn dễ rơi vào thường kiến nên họa thêm mục chín là: "Phản bổn hoàn nguyên", vẽ lá rụng về cội, chim bay về tổ rồi làm kèm bài tụng. "Phản bổn hoàn nguyên" là tìm thấy được bản lai diện mục, nói lên ý nghĩa là hành giả đã vào được cảnh giới của Phật. Cuối cùng Thiền Sư Từ Viễn thêm vào mục thứ mười là "Thõng tay vào chợ" để tiêu biểu công hạnh giáo hóa chúng sanh của bậc viên mãn vẫn còn hành bồ tát đạo.

Trong các sách tu tập Thiền ở Trung quốc, vào thế kỷ thứ 12, Thiền sư Quách Am hay Khuếch Am Sư Viễn (Kakuan hay Kuoan Shiyuan: 1100-1200) đã để lại cho môn sinh một tập miêu tả các bậc tiệm ngộ rất nỗi danh gọi là "Thập Mục Ngưu Đồ" (hay Mười Bức Tranh Chăn Trâu). Thiền sư Quách Am dự? vào các bản luận cũ của tiền nhân rồi họa bức tranh mười con trâu, mượn hình ảnh tượng trưng của trâu trong Lão giáo, rồi viết bài tụng và lời bàn bằng văn xuôi. Bộ tranh của Ngài thuần chất Thiền, sâu sắc hơn các bộ của các bậc tiền bối. Mười con trâu biểu hiện cho những bước tuần tự trong sự chứng ngộ bản lai diện mục (hay thực tánh, hay phật tánh). Từ đấy, nó trở thành nguồn cảm hứng sâu xa cho các thiền sinh, và khá nhiều tranh phỏng theo bức họa của Thiền sư Quách Am đã được vẽ ra hằng bao nhiêu thế kỷ.

Khi các thiền sư Nhật đi cầu học ở Trung quốc về, du nhập Thiền vào đất Nhựt và từ đó Zen hưng thịnh thì Thập Mục Ngưu Đồ càng được tán tụng, ấn tống và rất nhiều tranh mộc bản được khắc ra. Ở đây người viết chỉ xin giới thiệu cùng quý độc giả phần dịch từ bản Anh ngữ của cuốn Zen Flesh, Zen Bones (sưu tập bởi Paul Reps) và tranh họa tương đối mới nhất của nghệ nhân mộc bản nổi danh Tomikichiro Tokuriki, con cháu của giòng dõi danh tiếng lâu đời ở Nhật và liên tiếp làm chủ trà thất Daruma-do (Daruma là chữ Nhật của Bồ Đề Đạt Ma). Tranh chăn trâu mộc bản của ông đẹp chân phương và ý nghĩa vô hạn chẳng khác gì tranh gốc của Thiền sư Quách Am.

Mong rằng, cũng giống như vị Thiền tổ Trung Hoa, độc giả khám phá ra được vết chân tự tại của ngài, mang gậy trúc cứu đời của ngài và bầu rượu thơm nếu không thường thỏng tay vào phố chợ để giác ngộ tha nhân, thì biết đâu khi nghiền ngẩm những bức tranh, tụng những bài kệ, đọc những lời bàn của thánh nhân, bất chợt trong một sát na tâm mình sáng chiếu linh quang viên mãn. Ấy là Đốn Ngộ vậy.

1. ĐI TÌM TRÂU (TẦM NGƯU) 
 
Trong cánh đồng của thế gian này, ta không ngừng vạch cỏ cao đi tìm trâu. 
Theo những dòng sông không tên, lạc vào những đường mòn chằng chịt trong những dãy núi xa, 
Sức đã kiệt và thân rã rời nhưng ta vẫn chưa tìm thấy trâu đâu cả. 
Ta chỉ nghe côn trùng rã rích trong rừng suốt đêm.

Lời bàn: Con trâu chẳng bao giờ thất lạc. Nó vẫn sờ sờ ra đó đâu phải kiếm tìm? Chẳng qua chỉ vì ta rời xa thực tướng cuả mình nên ta không hề thấy nó. Trong sự mê muội của sắc tướng mà ta mất dấu vết của nó. Ở xa căn nhà, ta thấy nhiều ngỏ đan nhau, nhưng đâu là con đường chính. Lòng tham và sợ hãi, tốt và xấu ràng buộc lấy ta.

2 TÌM ĐƯỢC DẤU CHÂN TRÂU (KIẾN TÍCH) 
 
Dưới những tàn cây dọc theo bờ sông, ta tìm thấy những dấu chân trâu! 
Ngay cả dưới làn cỏ thơm ta thấy những dấu chân của nó. 
Lần sâu vào những dãy núi xa chúng càng rõ nét. 
Những vết này không thể che dấu được như mũi ngước nhìn trời.

Lời bàn: Hiễu được lời dạy, ta thấy dấu chân của trâu. Rồi ta biết rằng, như nhiều dụng cụ được chế từ kim lọai, muôn vàn sắc tướng đều do ngã tạo ra. Làm sao ta thấy được thực và ảo nếu ta không phân biệt? Khi chưa vào được cửa, hẳn nhiên ta phải tìm cho ra con đường.

3. THẤY TRÂU (KIẾN NGƯU) 
 
Ta nghe có tiếng hót của chim họa mi. 
Nắng ấm, gió êm, lau lách xanh tươi dọc bờ sông, 
Ở đây trâu nào trốn được! 
Họa sĩ nào có thể vẽ được cái đầu lớn này, cặp sừng to nọ?

Lời bàn: Nếu ai nghe tiếng, có thể cảm nhận được nguồn. Vừa khi lục căn hòa hợp, cửa đã nhập. Vào bất cứ nơi nào ta cũng đều nhìn thấy đầu con trâu! Sự kết hợp này cứ như muối tan trong nước, như màu hòa trong thuốc nhuộm. Vật dù nhỏ bé nhất cũng không rời khỏi bản ngã.

4. BẮT ĐƯỢC TRÂU (ĐẮC NGƯU) 
 
Sau một cuộc đánh vật vất vả ta nắm được nó. 
Tâm và sức của nó dữ dội không suy suyển. 
Nó vùng chạy lên đồng cao ngàn mây che phủ, 
Hoặc đứng sững dưới vực sâu không có nẽo vào.

Lời bàn: Nó sống trong rừng đã lâu, nhưng ta bắt được nó hôm nay! Sự đắm say cảnh sắc đã làm nó lạc đường. Vì ham muốn cỏ ngon hơn, nó lang thang phiêu bạc. Tâm của nó còn bướng bỉnh và không chịu thuần phục. Nếu muốn nó nghe lời, ta phải dùng roi.

5. THUẦN HÓA TRÂU (MỤC NGƯU) 
 
Roi và dây thật là cần, 
Không thì nó lại chạy càn xuống con đường đất bụi. 
Được huấn luyện tốt thì nó trở nên nhu hòa. 
Rồi khi được thả, nó biết nghe lời chủ.

Lời bàn: Một niệm khởi thì niệm khác theo sau. Khi niệm đầu nẫy sinh từ giác ngộ, thì những niệm kế tiếp là chân thực. Do mê muội mà mọi vật trở nên không thực. Ảo tưởng không từ ngoại cảnh mà bởi chủ quan. Hãy nắm chặt dây xỏ mũi và không nên nghi ngại.

6. CỞI TRÂU VỀ NHÀ (KỊ NGƯU QUI GIA) 
 
Cởi trâu, ta thong thả quay về nhà 
Tiếng tiêu của ta réo rắc chiều tà 
Ngón tay láy nhịp, ta hòa điệu không ngừng. 
Ai nghe nhạc khúc du dương này xin tấu cùng ta.

Lời bàn: Cuộc tranh đấu đã qua; được hay thua đều không khác. Ta hát bài ca của tiều phu và thổi điệu đồng giao. Cởi trâu, ta ngắm mây trôi bồng bềnh. Ta đi tới dù ai có gọi giật lại.

7. KHÔNG CÒN TRÂU (VONG NGƯU TỒN NHÂN) 
 
Cởi trâu, tôi về đến nhà 
Lòng tôi thanh thản. Cũng thế, trâu yên nghỉ. 
Chiều buông xuống an hòa diệu vợi, 
Trong căn nhà tranh, tôi cất roi và dây.

Lời bàn: Pháp bất nhị. Ta chỉ tạm mượn chuyện trâu. Nó cũng như sự tương quan giửa thỏ và bẩy, giửa cá và lưới, giửa vàng và cặn, hay trăng vừa ló khỏi mây. Một tia sáng xuyên suốt vô thỉ vô chung.

8. CẢ TRÂU VÀ KẺ CHĂN ĐỀU KHÔNG (NHÂN NGƯU CÂU VONG) 
 
Roi, dây, người, và trâu - tất cả tan vào KHÔNG. 
Cõi trời bao la nên không điều gì có thể để lại dấu. 
Làm thế nào một bông tuyết có thể tồn tại trong lửa hồng? 
Đây là vết chân của chư Tổ.

Lời bàn: Nhiễu sự đã qua. Tâm không còn chướng ngại. Ta không mong cầu cõi giác ngộ. (Dịch giả thêm: " ... Vô khổ, tập, diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc" ..."Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố. Vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn"). Ta cũng không trú vào nơi không giác ngộ. Vì ta không vướng mắc vào cả hai, mắt không hề nhìn thấy ta. Nếu hàng vạn chim cúng hoa trên đường ta đi, sự tán thán đó cũng chỉ là vô nghĩa.

9. TRỞ VỀ NGUỒN (PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN) 
 
Đã nhọc lắm công mới quay được về nguồn. 
Biết thế khởi đầu nên bị mù và điếc! 
An trú trong nhà mình, chẳng bận tâm đến sắc đến không, 
Con sông mãi trôi êm đềm và hoa vẫn đỏ.

Lời bàn: Ngay từ ban đầu, chân lý đã sáng tõ. Qua thiền định, ta quán đến sắc tướng hợp tan. Nếu ai không chấp vào sắc tướng thì vốn đã tự tại. Nước xanh lóng lánh, núi thẩm đậm màu, và ta thấy cái đang tạo hình và cái đang tan rữa.

10. THÕNG TAY VÀO CHƠI HAY NHẬP THẾ (NHẬP TRIỀN THÙY THỦ) 
 
Ngực trần chân đất, ta chen vai cùng nhân thế. 
Áo rách bụi nhơ, nhưng ta thật an hòa. 
Ta nào cần ma thuật để được sống lâu; 
Ngay lúc này, trước mặt ta, hàng cây khô sống lại.

Lời bàn: Bên trong cánh cổng của ta, chư thánh chẳng biết ta. Vẻ đẹp của mảnh vườn ta không ai thấy được. Tại sao người ta phải đi tìm dấu chân chư Tổ? Ta thõng tay vào chợ với bầu rượu và quay về với gậy trúc. Ta ghé tửu quán và phố chợ, và bất cứ ai ta nhìn cũng thành giác ngộ.

Trần Trúc Lâm 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.