Bão biển vào đất liền tạo những trận mưa nghiêng làm nhà cửa đổ ngã, bứt rụng hết hoa lá.
Bão làm đời tả tơi. Nước biển mặn, biết rồi, bão từ biển bay vào tại sao mưa lại ngọt?
Nước suối, sông ngọt sớt chảy ra biển, mặn chằn! Thật là sự trái ngang, nói ra trào nước mắt!
Ngọt với mặn…thành chát! Lời bài hát du dương nghe thấy như bất thường, chan chứa buồn, đau đớn…
Những con chim bay trốn, chúng bay trốn ở đâu? Chúng núp dưới mái lầu hay dạ cầu tuyệt vọng?
Nếu biển đừng dậy sóng liệu có mưa kia không? Mặt đất nước xẻ dòng, ai thấy lòng của đất?
Ai thấy lòng của Phật? Ai thấy lòng Chúa Trời? Từng hồi chuông rụng rơi chi vậy, chiều với sớm?
Tôi đi hỏi con bướm, ép khô trong sách xưa bắt gặp một câu thơ: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo…” (*)
Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Bà Huyện Thanh Quan: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.

Tờ Giấy Trắng Và Mây Trời Cũng Trắng
Em tắt máy. Em chào anh. Đi ngủ. Nụ hoa quỳ rực rỡ giấc mơ em. Anh đi ra hiên. Anh đứng lại bên thềm, anh thấy hoa, anh thấy em và bầy chim buổi sáng!
Anh, buổi sáng thì nơi em chạng vạng. Anh, sắp trưa thì em đã tối rồi. Nửa địa cầu vẫn đầy ắp mây trôi. Thương quá mặt trời, nhớ em anh giụi mắt. Thương quá vầng trăng, cô đơn, giống như em vậy nhỉ?
Đời người ta có chung có thủy. Có làm chi ơi hỡi những tình yêu? Rừng hoa quỳ kìa, ai đếm có bao nhiêu những nụ hoa vàng buồn nheo con mắt?
Anh muốn bồng em anh đem giấu cất trong trái tim anh như giọt mật mù sương. Em của anh ơi anh nhớ Đơn Dương, nơi đỉnh núi anh chào xa Đà Lạt…
Gần ba mươi năm rồi bao nhiêu mất mát, hai cây đào còn mà Mạ mà Ba... Hai cây đào còn, còn Tết nở hoa, anh xứ lạ chỉ chan hòa đau đớn!
Ôi Dran, những nhánh hoa quỳ ngả ngớn bên thành xe đò, anh biết vẫn còn nguyên. Có điều chúng mình không có cái duyên để kỳ ngộ…bởi còn đâu Cổ Tích?
Ngày đang đi, kim đồng hồ nhúc nhích…Mình còn đâu Đà Lạt rất-ngày-xưa! Anh gửi về em, này, nữa bài thơ, tờ giấy trắng và mây trời cũng trắng…
Trần Vấn Lệ