Oct 10, 2024

Thơ xướng họa

Huệ Thu & Võ Đình Tiên họa thơ Vi Khuê
Vi Khuê & Hue Thu * đăng lúc 02:28:49 AM, Aug 22, 2024 * Số lần xem: 3971
Hình ảnh
#1

                   * đăng lúc 05:37:10 PM, sept 09, 2007 * Số lần xem: 839

 

 

 

Bài Xướng: VI KHUÊ
Bài Họa : Huệ Thu

 Xướng

Nguyễn Nhược Pháp
(tác giả bài thơ Chùa Hương)

Một áng thơ năm chữ tuyệt vời
Ðưa người lên vút đỉnh thơ chơi
Ðóa hoa tình ái đơm chùa núi
Câu niệm nam mô thoảng gió trời
Cái đẹp cái thanh ngoài
cái tục
Trang tiên trang bụt giữa trang đời
Chỉ ngần ấy gửi hương cho gió
Ðủ ngát thơm hoài Nhược Pháp ơi !

Vi Khuê
 
Họa

Thơ riêng một giọng cứ vời vời *
Như thể là đùa như thể chơi
Ðã tưởng thơm lừng muôn dặm đất
Mà sao lạnh cả bốn phương trời
Chỉ dăm vận chữ, vài ngàn chữ
Lại mấy mươi năm một cuộc đời
Ông Vĩnh, ông Giang thua bác hết **
Tài năng Nhược Pháp lớn chao ơi !

* Nguyễn Nhược Pháp chỉ có một tập thơ
** Nguyễn Văn Vĩnh là bố và Nguyễn Văn Giang là anh của
Nguyễn Nhược Pháp nhưng hai người này không nổi tiếng bằng 

Huệ Thu
 

 Xướng
Nhớ Về Cung Oán

Ráng đỏ chiều xuân hiện cảnh tiên
Lại giòng sông biếc cũng đào nguyên
Xuyên qua phố bụi vào phòng tịnh
Cùng với người thơ hẹn bút thiền
Vòi vọi non xanh tàn cổ thụ
Não nùng chiều tím giọng thuyền quyên
Ngàn năm Cung Oán còn Ngâm Khúc
Muốn đạp tiêu phòng dễ đã nghiêng

Vi Khuê

Họa

Chẳng tiên thì cũng đáng thơ tiên
Giáng ngọc luôn lưu giữa kỷ nguyên
Cứ tưởng sắc hương đầy vẻ tục
Mà sao hương vị đượm mùi thiền
Hương thơm từng đoạn lòng Ban Cố
Ðàn thắm bao cung máu Ðỗ Quyên
Ngòi bút tài hoa là thế đó
Ngàn vàng thuở ấy tưởng xô nghiêng


Huệ Thu


Xướng

Huyền Trân Công Chúa

Nước non ngàn dặm tưởng Huyền Trân
Mỗi bước chân, thơ chuyển một vần
Ngần ấy niềm quên chừng khó sánh
Bao nhiêu nỗi nhớ dễ mà cân
Hai châu Ô Lý, tình vương lệ
Nửa khúc Nam Ai, tứ nhập thần
Sắc nước hương trời thơm Việt sử
Thương ai, lại nhớ đức vua Trần

Vi Khuê

Họa

Một gái Huyền Trân đã tuyệt trân !
Hai châu Ô Lý bỗng xoay vần
Tài hoa không lẽ quên hồn nước
Nhan sắc sao đành nhẹ trước cân !
Bởi đó tình ân càng nghĩa nặng
Từ nay rượu thánh lại thơ thần.
Khắc Chung còn mãi trong tình sử
Càng vẻ vang thêm gái họ Trần

Huệ Thu

Xướng

Tú Xương

“Ta nhớ người, người nhớ ta không ?”
Năm canh hiu hắt ngọn đèn chong
Chí chàng trai ấy dâng sông núi
Nguyện tấm lòng đây hiến Lạc Hồng
Mực nọ nghe còn vương mãi lệ
“Sông kia giờ đã hóa nên đồng”
Kìa ai thơ thẩn bên sông đó
“Nuôi đủ năm con với một chồng” *

* Các câu trong “...”là thơ Tú Xương

Vi Khuê

Họa

Chỉ biết ăn chơi ? Có phải không ?
Mà sao đêm cứ bấc ngời chong ?
Câu thơ dám chọc phường lương đống *
Giòng máu đem tô giống Lạc Hồng
Ðêm tối vẫn chờ cây nến đốt
Mùa Thu lại rụng lá ngô đồng .
Mới hay tài tuấn trong thiên hạ
Món nợ giang sơn vẫn chất chồng .

* lương đống : rường cột (nghĩa bóng : người quan trọng mất còn
cho một nước những vị muốn nói mấy vị quan to)

Huệ Thu

Xướng

Nguyễn Trãi

Gương cũ nay còn dấu Nhị Khê
Long lanh ánh sáng Lạc Hồng kia
Thù nhà một thuở lời cha dặn
Nợ nước mười năm bóng nguyệt thề
Ảnh nước hoa in * xòe cánh bụt
Trang thơ lệ đẫm quyện hồn quê
Bình Ngô Ðại Cáo hồn dân tộc
Muôn thuở trầm hương ngát nẻo về

* trích trong bài Hoa Râm Bụt thơ Nguyễn Trãi

Vi Khuê

Họa

Ðường đi khúc khuỷu lại nhiêu khê
Thăm lại ngàn năm chuyện trước kia
Thù nước vẫn mong còn nhớ mãi
Lòng son xin nguyện mấy lời thề
Nghĩa nhân thêm chuyện tình trăm ngả
Cuồng bạo không còn, đẹp lối quê
Một khúc Bình Ngô, Trang Tử chép
Nén hương cúi thắp bóng xưa về

Huệ Thu

Xướng

Vũ Hoàng Chương

Nhớ xưa ai trẩy hội * chùa Hương
Lại nhớ ai say * cuộc hý trường
Rượu đắng lưỡi còn the thế vị
Rừng phong * thu đã nhuốm tà dương
Hỡi ơi mây * nổi trò hư vọng
Ra thế lòng son nguyện cúng dường
Một cánh hạc vàng ** ai cưỡi vượt
Ngàn năm thơm vạt áo Hoàng Chương

* Tên các thi phẩm của Vũ Hoàng Chương
** Vũ Hoàng Chương dịch bài Hoàng Hạc Lâu bản dịch thật hay

Vi Khuê

Họa

Chùa Hương xa lắm cảnh sông Hương
Tỉnh giữa cơn say giấc mộng trường
Tim nghẹn bấc giong trong dị hỏa *
Rừng phong thơ dựng giữa Ðông Dương
Lửa thiêu sót lại dù hư huyễn
Dạ sắc mang theo để cúng dường
Người đi gửi lại vần thơ đẹp
Nhớ ai như nhớ khách văn chương

* lửa thuốc phiện

Huệ Thu

Xướng

Ðoàn Thị Ðiểm

Trắng một làn da tiếng vỗ giòn
Lại trong trắng cả tấm lòng son
Trắng phơi tờ giấy niềm thơ gởi
Trắng đợi tin chàng tiếng ngựa bon
Trắng khúc chinh phu gieo vận Hán
Trắng câu chinh phụ diễn lời Nôm
Trắng ơi màu trắng ai còn điểm
Ðể trắng muôn đời nguyện nước non

Vi Khuê

Họa

Tiếng vỗ ngàn xưa cũng vẫn giòn
Ngàn năm còn mãi tấm lòng son
Nỗi buồn cô phụ vì ai viết ?
Vó ngựa chinh phu cứ mãi bon
Thơ Ðặng dù hay quên chữ Hán *
Bà Ðoàn đã khéo lựa lời Nôm **
Bao năm khói lửa tàn chưa nhỉ ?
Một tiếng than dài giữa núi non

*Ðặng Trần Côn ** Ðoàn Thị Ðiểm

Huệ Thu

Xướng

Bà Huyện Thanh Quan

Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm
Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng
Trong cơn gió bụi chìm hương lửa
Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng
Cung báo quốc não nùng điệu quốc
Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên
Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại
Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền

Vi Khuê

Họa

Thanh Quan tâm sự biết bao niềm
Phận gái làm thầy một cõi riêng *
Sao đã nên khôn, sao lại dại ?
Cứ tìm ra mối chẳng quên giềng
Chưa buồn vì chuyện ba cơn mộng
Ðâu nỡ ngây vì một giọng quyên
Một chữ hý trường bao nỗi hận
Câu thơ tao nhã mãi lưu truyền

* Bà Huyện Thanh Quan là thầy dạy vua học ở trong cung

Huệ Thu

Xướng

Tản Ðà

Sông Ðà núi Tản đúc nên thơ
Nên bậc tao nhân của bút tờ
Cái hạc vút xòe trên đỉnh mộng
Con thuyền lơ lửng giữa giòng mơ
Ðã nên chữ hiếu cùng tiên tổ
Còn đẹp vần trung với cõi bờ
Thắm mãi lời thề non nước nhỉ
Bức dư đồ há dễ thờ ơ

Vi Khuê

Họa

Mộng con mộng lớn, mộng là thơ
Mấy vạn bài thơ , mấy vạn tờ
Núi Tản bao lần trăng đợi gió
Sông Ðà bao thuở nước chìm mơ !
Rằng trung rằng hiếu đà mong trọn
Chữ lợi chữ danh chẳng có bờ
Non nước lời thề còn mãi đó
Hương sơn phong cảnh chẳng thờ ơ .

Huệ Thu
Sài Môn Thất Trung Thu 2007


Võ Đình Tiên Họa Thơ
                     Vi Khuê

Họa Thơ Vi Khuê:
Nguyễn Nhược Pháp

Lời hay, ý đẹp chẳng xa vời!
Cứ quyện vào nhau như viết chơi
Năm chữ thơ tình len thạch động
Mười phương gió núi lộng mây trời
Chùa Hương thanh thoát đầy thi vị
Thạch nhũ thiên nhiên lại khác đời
Ai vẽ dệt thêu quan cảnh ấy
Một mình Nhược Pháp, nét tình ơi !

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Nhớ Về Cung Oán

Lời thơ Cung Oán đẹp như tiên
Nhưng vẫn xót xa trọn ý nguyên
Bóng sắc chôn vùi sau điện ngọc
Tài tình rải rác giữa cung thiền
Một đêm giao hợp, hương còn quyện
Sóng gió rền vang, tiếng Đỗ Quyên
Đã có tiêu phòng sao lạnh lẽo
Thân tàn, ngâm khúc, bóng trời nghiêng

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Huyền Trân Công Chúa

Hai châu Ô Lý, nhớ Huyền Trân
Công Chúa, thơ gieo được mầy vần
Gót ngọc vào Nam còn ước lệ
Đồ Bàn soi bóng dễ gì cân
Cung đàn ai oán vương lời thánh
Điệu nhạc khóc than dệt ý thần
Chữ hiếu, bỏ tình cho phải đạo
Mở mang bờ cõi, đẹp vua Trần

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Tú Xương

Diễn đạt lời thơ nhẹ quá không !
Để cho bấc lụn với đèn chong
Năm canh nếm đủ mùi tục lụy
Sáu khắc còn vương chốn bụi hồng
Điểm mặt nho quan ngoài xã hội
Tô son cỏ nội với hương đồng
Nuôi con lăn lóc, mình vợ đãm
Thơ rượu, chơi ngông, chỉ một chồng.

Họa thơ Vi Khuê: Nguyễn Trãi

Quyết theo Lê Lợi thật nhiêu khê
Nếm mật, nằm gai, giấc mộng kia
Đem cả sức tài lo giúp nước
Quản chi gian khổ giữ lời thề
Tôi trung phò chúa in tâm khãm
Hiếu để tiễn cha đậm bóng quê
Truyền hịch Bình Ngô vang sử sách
Trăm năm oan ức cõi xa về

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Vũ Hoàng Chương

Vần thơ thi sĩ vẫn thơm hương
Dầu đã cách xa vạn dặm trường
Thơ đậm tâm tư, nâng chén rượu
Bút tô nét vẽ, lướt trùng dương
Bao nhiêu tác phẩm còn lưu thế
Biết mấy hư danh tỏ kính dường
Hoàng Hạc bay rồi đâu trở lại
Nồng nàn thơ dịch Vũ Hoàng Chương

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Đòan Thị Điểm

Bì bạch tiếng thơ vẫn vỗ giòn
Đường đời đôi lúc cũng tô son
Hương nguyền, má phấn, đâu từng trải
Hẹn ước, môi hồng, vết ngựa bon
Chinh phụ dầu hay nhưng chữ Hán
Dịch gia tuyệt phẩm lại vầng Nôm
Thơ Đoàn Thị Điểm lừng thiên hạ
Hậu thế còn ghi với nước non

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Bà Huyện Thanh Quan

Qua đỉnh Đèo Ngang* dậy nỗi niềm
Lời thơ kim cổ chút tình riêng
Dấu xưa xe ngựa* đâu còn vết
Mây trắng đầu non, giữ mối giềng
Ngoảnh lại trời xanh cùng gió nước
Nhìn quanh đá trắng tiếng chim quyên
Xa xa ẩn hiện chiều cô đọng
Ý dệt, lời thêu, hậu thế truyền

*Bà Huyên Thanh Quan

Võ Đình Tiên

Họa thơ Vi Khuê : Tản Đà

Tao đàn mặc khách đượm tình thơ
Mây trắng trên cao, vắng lặng tờ
Mộng lớn, mộng con, ngàn nét vẽ
Non non, nước nước, vạn niềm mơ
Sông Đà nung đúc nên thi bá
Núi Tản phát sinh vững cõi bờ
Hâu thế tự hào bao tuyệt tác
Dòng thơ, nhạc điệu vẫn ngon ơ !

Võ Đình Tiên

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.