| 
 Viết về tác giả & tác phẩmHà Thượng Nhân Đọc Trăm Mười Tám Bài Lục Bát Bát Huệ Thu Hà Thượng Nhân *   đăng lúc 06:34:18 PM, May 31, 2023 *  Số lần xem: 5124 
 
 #1   | 
 
 #2   | 
 
 
 *  đăng lúc 12:53:44 AM, May 25, 2013 * Số lần xem: 2685 
 
 
    
        
             
                         
            
                
                    
                           
                        Hà Thượng Nhân Đọc Trăm Mười Tám  
                        Bài Lục Bát Bát Huệ Thu 
                         
                        Huệ  Thu là một hiện tượng kỳ lạ trong thi ca Việt Nam, thơ người gần gũi  với ca dao, thứ ca dao của bây giờ. Tâm hồn ấy thực phức tạp. Lời thơ  người hết sức giản dị. Đọc người ta chỉ cần cảm, không cần hiểu. Thơ  người như bay, như lượn, không có biên giới. Những ý tưởng cơ hồ rời  rạc, nhưng ta biết chúng gắn bó với nhau chặt chẽ. 
                         
                        Giận chi mưa ướt mặt trời  
                        Sáng nay buồn quá, tôi ngồi ngó mưa  
                        Nghe lòng buốt lạnh như thơ  
                        Nghe thương chi lạ những tờ giấy thơm!  
                         
                        Thơ người phần lớn là thơ tình. Nhưng một thứ  tình lãng đãng, như thực  như hư. Tưởng là mộng nhưng là sự thật, tưởng  là sự thật nhưng lại là  mộng. Không có ranh giới nào giữa cái có và cái  không.  
                        Không phải Huệ Thu làm thơ mà như thơ trào ra tên đầu ngọn bút: 
                         
                        Ước gì ta hóa cành mai  
                        Mùa Xuân hoa nở, mắt ai ghé nhìn  
                        Ước gì ta hóa mái đình  
                        Ai qua đếm ngói, thấy tình vô biên! 
                         
                        Bất cứ cái gì đến với Huệ Thu cũng trở thành thơ:  
                         
                        Hậu Giang  
                        Mỹ Thuận có cầu  
                        hai bờ sông  
                        vẫn hai đầu con sông!  
                        xưa,  
                        mình đã nhớ, đã mong  
                        nay,  
                        đời viễn xứ, nghe lòng thêm xa... 
                         
                        Có ai nghĩ rằng tuyết làm ấm khu rừng mùa Đông chưa? Ý nghĩ ấy quả nhiên là độc đáo: 
                         
                        Trời hình như đã sang Đông  
                        Rừng xanh tuyết trắng ôm vòng, ấm chưa?  
                        Lá phong còn mấy lá chờ  
                        Gió quên bứt rụng để mờ Thu xa... 
                         
                        Tuyết ôm lấy rừng phong như ôm một tình nhân.  Tình yêu của tuyết, sự ân  cần của tuyết hẳn là làm ấm rừng phong! Hai  câu cuối vẽ nên một cảnh  cuối Thu, tiêu điều buồn bã. Đang vui bỗng  buồn, đang ấm, bỗng lạnh. Đó  là Huệ Thu. 
                         
                        Lên non nhìn Lũng Hoa Vàng  
                        Tưởng tà áo lụa đắp hoàng hôn xanh!  
                         
                        Sức tưởng tượng của người thơ thật phi thường.  
                        Tả một trận động đất nhỏ, Huệ Thu viết: 
                         
                        Nửa đêm nghe đất trở mình  
                        Ta không muốn trở cũng đành trở theo  
                         
                        Nhưng mà nhìn lên người thơ lại thấy:  
                         
                        Giữa trời một bóng trăng treo  
                        Bình yên như thể mái chèo trong mây  
                         
                        Trong cơn địa chấn, trăng vẫn mênh mông sáng.  Trong cái bất ổn, vẫn có  cái gì đó hết sức ổn định. Ta tưởng là tiếng  nói của một Triết gia.  Không, Huệ Thu không định làm triết gia. Nhưng  cuộc đời đã cung cấp cho  Huệ Thu những ý tưởng đượm màu triết học: 
                         
                        Cảm ơn trời đất vô cùng  
                        Cảm ơn Chúa, Phật trong lòng nhân gian  
                        Lần tay kinh mở từng trang  
                        Bỗng quên đi nỗi cơ hàn, lạ thay! 
                         
                        Có thể Huệ Thu không là tín đồ của một tôn giáo  nào cả nhưng người vẫn  tin tưởng ở sự cần thiết của tôn giáo. Con người  dựng nên Chúa - Phật vì  con người vốn cô đơn, rất cần những niềm an  ủi. Bởi vì Huệ Thu là là  một con người hết sức cô đơn. Đọc người thấy  nỗi cô đơn thấm vào từng  chữ từng câu. Người nhớ người yêu. Muốn tạc  tượng người yêu nhưng không  bằng gỗ bằng sắt, mà bằng tuyết: 
                         
                        Tuyết đừng tan!  
                        Tuyết đừng tan  
                        tôi xây pho tượng  
                        hình chàng mùa Đông  
                        Sợ mà tuyết chảy ra sông  
                        Rồi mai với mốt tôi không còn chàng! 
                         
                        Tạc bằng tuyết, rồi lại sợ tuyết tan. Trong cái  mỏng manh, người muốn  xây dựng hằng cửu. Xây bằng tấm lòng mình, bằng  nỗi nhớ của chính mình: 
                         
                        Cho nên:  
                        Chỗ ta ở,  
                        chỗ ta lìa  
                        Trăm năm rồi cũng tụ về phút giây 
                         
                        Kìa giàn bông giấy gió bay  
                        Ở, đi như lá từ cây bỏ cành! 
                         
                        Lá rụng. Ai không nhìn thấy lá rụng nhưng chỉ có  Huệ Thu nhìn thấy lá  rụng là thấy cái ngắn ngủi của kiếp người, cái  dững dưng đến tê buốt của  sự vật, của thời gian.  
                        Có ai ngộ nghĩnh như Huệ Thu khi viết: 
                         
                        Cành Thu còn chiếc lá vàng  
                        Ai treo trước ngõ, hay chàng nhớ ta?  
                        Chiều nay nấu một bình trà  
                        Rót ra hai chén, ai mà uống chung! 
                         
                        Còn ngộ nghĩnh hơn khi người bảo: 
                         
                        Ông trời có lẽ cô đơn  
                        Xưa nay là đấng chí tôn một mình 
                         
                        Tôi nghĩ đến một ông vua trong tiểu thuyết của  Kim Dung. Ông vua bé con,  xưa nay chỉ được người ta phục tùng, ca tụng  bỗng một hôm bị một thằng  bé vô lại (hình như là Vi Tiểu Bảo) đánh cho  một trận. Thằng bé vô lại  ấy trở thành bạn bè thân thiết của nhà vua.  Chỉ từ bấy giờ ông vua mới  thực sự được làm người. Ông trời vì lớn quá  ”Chí Tôn” quá cho nên Huệ  Thu thương ông trời cô đơn . 
                         
                        Tình thương cùa Huệ Thu thật là mênh mông,  thương từ hạt cát, hạt bụi,  từ chiếc lá mục đến cả...ông trời. Bởi thế  ta không lấy làm lạ khi Huệ  Thu khóc con cá:  
                         
                         
                        Cá ơi! Cá chết nỡ nào?  
                        Hai con mắt mở mà trào lệ tôi 
                         
                        Từ trước đến nay chưa ai nói đến những điều như  thế trong thi ca. Cuộc  đời Huệ Thu đầy thăng trầm sóng gió. Nhưng Huệ  Thu vẫn đứng vững và vẫn  nhìn đời bằng con mắt trẻ thơ. Vì Huệ Thu là  Thi sĩ. Thi sĩ suốt đời là  một đứa trẻ thơ: 
                         
                        Cơn mưa như chẳng có gì  
                        Mà sao nước đọng trên mi bao giờ! 
                        Nhớ người, lật những bài thơ  
                        Những câu lục bát không ngờ còn thơm!  
                         
                        Thơ Huệ Thu buồn thì thật buồn nhưng đọc rồi  lòng tự nhiên êm ả. Vì mất còn, thua được chỉ là giả tưởng.  
                        Huệ Thu sống thơ, yêu thơ như cuộc sống. Một người như thế còn có gì có thể quật ngã được?  
                         
                        Lời thơ Huệ Thu tuy cay đắng, chứa chan nước mắt  nhưng ta vẫn thấy tuồng  như Huệ Thu bỡn cợt với cả chữ nghĩa. Buồn  bỗng hóa thành vui. 
                         
                        Có phải Huệ Thu là một thứ Bồ Tùng Linh thi sĩ không nhĩ? 
                          | 
                     
                    
                        | 
                             Hà Thượng Nhân  
                           San Jose, 1999 
                         
                         
                         | 
                     
                
             
             | 
         
    
 
  Ý kiến bạn đọcVui lòng  login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin  ghi danh.  
 
 | 
 
 
 |