Thập mục ngưu đồ
Thập mục ngưu đồ (zh. 十牧牛圖, ja. jūgyū-no-zu) là mười bức tranh chăn trâu nổi tiếng trong Thiền tông, tương ưng với quá trình hành đạo của một người phát nguyện đạt Giác ngộ. Mười bức tranh này có thể xem là biểu hiện cô đọng nhất, trình bày tinh hoa của Phật giáo Đại thừa.
Mục lục 
1 Quá trình hình thành 
2 Thập mục ngưu đồ 
2.1 Tìm trâu 
2.2 Thấy dấu 
2.3 Thấy trâu 
2.4 Bắt trâu 
2.5 Chăn trâu 
2.6 Cưỡi trâu về nhà 
2.7 Quên trâu còn người 
2.8 Người, trâu đều quên 
2.9 Trở về nguồn cội 
2.10 Thõng tay vào chợ 
3 Tham khảo 
Quá trình hình thành
Các bức tranh chăn trâu được sáng tạo trong thời nhà Tống (960-1279) và ngay từ đầu đã được xem như những bức hoạ tiêu biểu, trình bày tinh hoa, cốt tuỷ của Thiền Trung Quốc. Có nhiều bộ tranh - có thuyết nói là bốn, thuyết khác nói là 5, 6 chăn trâu khác nhau - nhưng có lẽ nổi danh nhất và cũng bao hàm ý nghĩa nhiều nhất là bộ với mười bức tranh của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn (zh. kuòān shīyuǎn 廓庵師遠, ja. kakuan shion, ~1150), được lưu lại trong bản sao của hoạ sĩ người Nhật tên Châu Văn (周文, ja. shūbun, ?-1460).
Một bộ khác với sáu bức tranh cũng thường được nhắc đến. Ban đầu, Thiền sư Thanh Cư (zh. qīngjū 清居, ja. seikyo) chỉ vẽ có năm bức nhưng sau, Thiền sư Tự Đắc (zh. zìdé 自得, ja. jitoku, tk. 12) vẽ thêm bức tranh thứ sáu. Trong bộ này, con trâu dần dần trắng ra và cuối cùng thì trắng hoàn toàn, một biểu tượng cho chân tâm thanh tịnh, vô cấu.
Mười bức tranh sau được xem là của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn. Những bức tranh này cũng được chú thích rất rõ, rất hay trong Thiền luận của Daisetz Teitaro Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên và Tuệ Sĩ. Bài tụng của Thiền sư Khuếch Am được Thích Thanh Từ dịch.
Thập mục ngưu đồ
Tìm trâu
尋牛① 
茫茫撥草去追尋。 
水闊山遙路更深。 
力盡神疲無處覓。 
但聞風樹晩蟬吟。 
Mang mang bát thảo khứ truy tầm 
Thuỷ khoát sơn dao lộ cánh thâm 
Lực tận thần bì vô xứ mịch 
Đãn văn phong thụ vãn thiền ngâm 
Tầm ngưu 尋牛 
Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu 
Núi thẳm đường xa nước lại sâu 
Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy 
Chỉ nghe réo rắt giọng ve sầu. 
Thấy dấu
見跡② 
水邊林下跡偏多。 
芳草離披見也麼。 
縱是深山更深處。 
遼天鼻孔怎藏他。 
Thuỷ biên lâm hạ tích thiên đa 
Phương thảo li phi kiến dã ma 
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ 
Liêu thiên tị khổng chẩm tàng tha 
Kiến tích 見跡 
Ven rừng bến nước dấu liên hồi 
Vạch cỏ ruồng cây thấy được thôi 
Ví phải non sâu lại sâu thẳm 
Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi. 
Thấy trâu
見牛③ 
黄鶯枝上一聲聲。 
日暖風和岸柳青。 
只此更無廻避處。 
森森頭角畫難成。 
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh 
Nhật noãn phong hoà ngạn liễu thanh 
Chỉ thử cánh vô hồi tị xứ 
Sâm sâm đầu giác hoạch nan thành 
Kiến ngưu 見牛 
Hoàng anh cất tiếng hót trên cành 
Nắng ấm gió hoà bờ liễu xanh 
Chỉ thế không nơi xoay trở lại 
Đầu sừng rành rõ vẽ khôn thành 
Bắt trâu
得牛④ 
竭盡神通獲得渠, 
心强力壯卒難除。 
有時才到高原上, 
又入煙雲深處居。 
Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ 
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ 
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng 
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư 
Đắc ngưu 得牛
Dùng hết thần công bắt được y 
Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghì 
Có khi vừa hướng cao nguyên tiến 
Lại xuống khói mây mãi nằm ì 
Chăn trâu
牧牛⑤ 
鞭索時時不離身。 
恐伊縱歩惹埃塵。 
相將牧得純和也。 
羈鎖無拘自逐人。 
Tiên sách thời thời bất li thân 
Khủng y túng bộ nhạ ai trần 
Tướng tương mục đắc thuần hoà dã 
Ki toả vô câu tự trục nhân 
Mục ngưu 牧牛 
Nắm chặt dây roi chẳng lìa thân 
Ngại y chạy sổng vào bụi trần 
Chăm chăm chăn dữ thuần hoà dã 
Dây mũi buông rồi vẫn theo gần 
Cưỡi trâu về nhà
騎牛歸家⑥ 
騎牛沫汁欲還家。 
霞笛聲聲送晩霞。     
一拍一歌無限意。 
知音何必鼓唇牙。    
Kị ngưu mạt trấp dục hoàn gia 
Hà địch thanh thanh tống vãn hà 
Nhất phách nhất ca vô hạn ý 
Tri âm hà tất cổ thần nha 
Kị ngưu quy gia 騎牛歸家 
Cưỡi trâu thong thả trở về nhà 
Tiếng sáo vi vu tiễn vãn hà 
Một nhịp một ca vô hạn ý 
Tri âm nào phải động môi à 
Quên trâu còn người
忘牛存人⑦ 
騎牛已得到家山。 
牛也空兮人也閑。 
紅日三竿猶作夢。 
鞭繩空頓草堂間。 
Kị ngưu dĩ đắc đáo gia san 
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn 
Hồng nhật tam can do tác mộng 
Tiên thằng không đốn thảo đường gian 
Vong ngưu tồn nhân 忘牛存人 
Cưỡi trâu về thẳng đến gia san 
Trâu đã không rồi người cũng nhàn 
Mặt nhật ba sào vẫn say mộng 
Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng 
Người, trâu đều quên
人牛俱忘⑧ 
鞭索人牛盡屬空。 
碧天遼闊信難通。 
紅爐焰上爭容雪。 
到此方能合祖宗。 
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không 
Bích thiên liêu khoát tín nan thông 
Hồng lô diễm thượng tranh dung tuyết 
Đáo thử phương năng hợp tổ tông 
Nhân ngưu câu vong 人牛俱忘 
Roi gậy, người trâu thảy đều không 
Trời xanh thăm thẳm tin chẳng thông 
Lò hồng rừng rực nào dung tuyết 
Đến đó mới hay hiệp Tổ Tông 
Trở về nguồn cội
返本還源⑨ 
返本還源已費功, 
爭如直下若盲聾。 
庵中不見庵前物, 
水自茫茫花自紅。 
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công 
Tranh như trực hạ nhược manh lung 
Am trung bất kiến am tiền vật 
Thuỷ tự mang mang hoa tự hồng 
Phản bản hoàn nguyên 返本還源 
Phản bản hoàn nguyên đã phí công 
Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm 
Trong am chẳng thấy ngoài vật khác 
Nước tự mênh mông hoa tự hồng 
Thõng tay vào chợ
入廛垂手⑩ 
露胸跣足入鄽來, 
抹土涂灰笑滿腮。 
不用神仙真秘訣, 
直教枯木放花開。 
Lộ hung tiển túc nhập triền lai 
Mạt thổ đồ khôi tiếu mãn tai 
Bất dụng thần tiên chân bí quyết 
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai 
Nhập triền thuỳ thủ 入廛垂手 
Chân trần bày ngực thẳng vào thành 
Tô đất trét bùn nụ cười thanh 
Bí quyết thần tiên đâu cần đến 
Cây khô cũng khiến nở hoa lành 
... Lúc còn trụ tại Quy Sơn, Thiền sư Trường Khánh Đại An dạy chúng: "... Sở dĩ, Đại An này ở tại Quy Sơn ba mươi năm, ăn cơm Quy Sơn, đại tiện Quy Sơn mà không học thiền Quy Sơn, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập điều phục nó… Bây giờ nó đã trở thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi...".
Mã Tổ hỏi đệ tử mình là Thạch Củng Huệ Tạng: "Làm việc gì?" Thạch Củng thưa: "Chăn trâu." Tổ hỏi: "Làm sao chăn?" Thạch Củng đáp: "Một khi vào cỏ thì nắm mũi kéo lại." Tổ nghe bảo: "Con thật là khéo chăn trâu."
mở Wikipedia