Mar 29, 2024

Trường thiên lục bát

Thanh Hiên Thi Tập - từ # 70 - # 99
Băng Ðình * đăng lúc 11:43:03 AM, Jul 01, 2008 * Số lần xem: 3842
70
Thu Chí


Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu hình đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu

Thu Đến

Một mảnh trăng trên sông Hương.
Xưa nay gợi bao nhiêu mối sầu.
Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh,
Thu mới đến trên đầu tóc bạc.
Có thân hình chỉ vất vả,
Không bệnh mà lưng lom khom.
Ngoảnh về bến sông Lam,
Lòng muốn nhàn đành phải tạ từ cùng chim âu trắng

Chú Thích:
Năm 1805 (Ất Sửu) Nguyễn Du được thăng Đông Các Học Sĩ, tước Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh Đô Huế.


Thu Tới


Hương Giang một mảnh trăng treo
Xưa nay gợi biết bao nhiêu mối sầu
Chuyện xưa cỏ mộ xanh mầu
Một mùa thu mới mái đầu bạc phơ
Hữu thân hữu khổ ai trừ
Vốn không bệnh hoạn sao giờ lưng khom
Ngoảnh nhìn về phía sông Lam
Thua chim âu một chữ nhàn hỡi ơi

71
Điệu Khuyển


Tuấn mã bất lão tử
Liệt nữ vô thiện chung
Phàm sinh phụ kỳ khí
Thiên địa phi sở dung
Niệm nhĩ thuộc thổ súc
Dữ thân mao cốt đồng
Tham tiến bất chi chỉ
Vẫn thân hàn sơn trung
Vẫn thân vật thán uyển
Sổ thí vô toàn công

Thương Con Chó

Ngựa hay không chết già,
Gái trinh liệt không chết được yên lành.
Phàm sinh ra mang khí phách khác thường,
Thì trời đất không có chỗ dung.
Nghĩ mày thuộc giống gia súc,
Lông xương cũng giống như người.
Ham tiến không biết dừng,
Bỏ mình trong núi lạnh.
Bỏ mình chớ oán than,
Bao lần thử sức mà không thành công.

Chú thích:
Có lẽ là con chó săn được nói trong câu “Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ”. Đây là một con chó quý, chó hay, chết vì ham tiến, không biết dừng - Nguyễn Du gợi lên một triết lý: tri túc tri chỉ (biết đủ biết dừng). Cũng vẫn là ý không nên ham tiến thủ trên đường công danh.

Thương Chó

Ngựa hay chẳng sống tới già
Gái trinh liệt cũng khó mà chết yên
Chót sinh phẩm chất siêu nhiên
Đất trời chẳng hẹn một miền dung thân
Xót mi chó ngựa sống gần
Lông xương cũng khá giống phần người ta
Ham chi tiến mạnh tiến xa
Chẳng ngừng đến nỗi làm ma góc rừng
Bỏ mình thôi chớ oán thương
Bao phen thử sức thiếu đường thành công

72
Ngẫu Thư Công Quán Bích

I
Triêu xan nhất vu phạn
Mộ dục nhất bồn thủy
Bế môn tạ tri giao
Khai song kiến kinh kỷ
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường
Mỹ nhân du du cách cao tường (1)
Đỗ Vũ (nhất) thanh (xuân) khứ hĩ (2)
Hồn hề qui lai bi cố hương

II
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan
Cách giang dao đối Ngự Bình san (3)
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan
Mạn địa phồn thanh văn dạ vũ
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn
Đào hoa mạc trượng đông quân ý (4)
Bàng hữu phong di (5) tính tối toan


III
Đông vọng giang đầu vọng cố giao
Phù vân vô định thủy thao thao
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa chiến cốt cao
Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi
Nham thê cốc ẩm bất từ lao
Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng (6)
Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao

Tình Cờ Đề Thơ Trên Vách Công Quán

I
Sáng sớm ăn một bát cơm,
Chiều tắm một chậu nước
Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn thân,
Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ.
Ngoài cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan và dài
Người đẹp vời vợi cách tường cao
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã qua,
Hồn ơi về đi thương cố hương.

II
Trước cửa Hoàng Thành sắc xuân đang tàn,
Cách sông xa nhìn núi Ngự Bình.
Xuân theo dòng sông đến nơi nào?
Người nương chốn chân trời, một chức quan cột chặt.
Đêm mưa nghe tiếng mưa sầm sập khắp mặt đất,
Trên một chiếc giường, nỗi buồn đơn côi chọi lại cái rét đêm xuân.
Hoa đào chớ cậy chúa xuân yêu,
Bên cạnh có dì gió rất chua ngoa.

III
Hướng về bến sông ở phía đông trông về quê cũ,
Mây nổi trôi vô định nước chẩy cuồn cuộn.
Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết,
Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao.
Trăng núi gió sông dường như có ý đợi chờ,
Sống trong núi uống nước khe chẳng nề gian lao.
Bình sinh đã dứt giấc mộng bay lên mây xanh,
Chỉ e người bên cạnh hỏi đến lông cánh.


Chú thích:
(1) Mỹ nhân: Người đẹp. “Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” ám chỉ vua.. Nhưng mỹ nhân cũng có thể chỉ là người đẹp thôi. “Mỹ nhân quyển châu liêm” (Oán Tình – Lý Bạch). Chưa biết Nguyễn Du nói đến “mỹ nhân” nào. Cũng có thể là một người đẹp ở cách tường cao nhà công quán.
(2) Có thể tác giả dùng cả câu thơ cổ “Đỗ Vũ nhất thanh xuân khứ hĩ”. Và bớt hai chữ “nhất”, “xuân”.
(3) Ngự Bình san: Núi Ngự Bình, phía nam sông Hương, cách kinh thành chừng 5 km, như một tấm bình phong che trước hoàng thành, nơi vua ngự, nên gọi là Ngự Bình.
(4) Đông Quân: Thần mùa xuân. Ở đây chỉ vua.
(5) Phong di: Dì gió tức thần gió. Ở đây ám chỉ các quan trong triều
(6) Vân tiêu mộng: Mộng mây xanh, tức là mộng công danh phú quý. Câu này có ý chua chát. Mình làm gì có “lông cánh” (vũ mao) mà bay lên “vân tiêu” (mây xanh).

Nguyễn Du được Gia Long biết tài, trọng dụng, nhưng ông là kẻ mới theo về, “hàng thần lơ láo”, nên hết sức giữ mình “xảo toàn” như chữ của Nguyễn Hành (1771-1824) trong bài thơ làm khi nghe ông mất: “Văn thúc phụ Lễ Bộ Tham Tri phó âm cảm tác”


Tình Cờ Đề Thơ Trên Vách Công Quán


I
Điểm tâm một bát cơm đầy
Chiều về tắm một chậu này cũng xong
Cài then từ tạ bạn lòng
Cỏ hoa tươi tốt hé song ngắm hoài
Cây bò lan ngọn vươn dài
Cách tường người đẹp gót hài gần xa
Cuốc kêu xuân lặng trôi qua
Về thôi hồn hỡi quê nhà xót thương


II
Trước hoàng môn sắc xuân tàn
Cách sông nhìn Ngự Bình San hững hờ
Về đâu nước cuốn xuân mơ
Chân trời cột chặt ai ngờ chức quan
Đêm mưa sầm sập nhân gian
Giường đơn nỗi nhớ nỗi hàn ở chung
Hoa đào chớ cậy xuân nưng
Đừng quên dì gió vô cùng chua ngoa


III
Hướng đông bến ấy vọng quê
Mây trôi nước chẩy lê thê dạt dào
Mồ xưa phú quý chiêm bao
Bóng tà xương trận đã cao bằng đầu
Gió sông trăng núi bạn bầu
Ở hang tắm suối có đâu nhọc nhằn
Bình sinh dứt mộng mây xanh
E người lối xóm hỏi mình cánh lông


73
Tống Nhân


Hương Cần (1) quan đạo liễu thanh thanh
Giang bắc giang nam vô hạn tình
Thượng uyển (2) oanh kiều đa đố sắc
Cố hương thuần (3) lão thượng kham canh
Triều đình hữu đạo thành quân hiếu
Trúc thạnh đa tàm phụ nhĩ minh
Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh

Tiễn Người Đi

Trên đường cái quan Hương Cần, liễu xanh xanh.
Kẻ đi về phía bắc sông, người ở lại phía nam sông, tình vô hạn.
Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển ghen nhau vì sắc đẹp,
Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh được,
Triều đình có đạo khiến anh tròn được đạo hiếu,
Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề với nó.
Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng,
Nghe mưa dầm đầy giường không sao chịu nổi.
Chú thich:
(1) Hương Cần: Làng cách Huế 4 km về phía bắc, nổi tiếng vì trồng quit. Đường thiên lý chạy ngang qua đấy.
(2) Thượng uyển: Ngự uyển, vườn vua. Câu này nói lên tình cảnh Nguyễn Du vì có tài mà bị ganh ghét trong triều.
(3) Thuần: Loài thủy quỳ, tức một loài sen, lá non có thể ăn được. Trương Hàn ở đất Ngô quận đời Tấn, làm quan tại đất Lạc, một buổi gió thu bắt đầu thổi, nhớ nhà bèn treo ấn từ quan. Bạch Cư Dị có thơ rằng:
Thu phong nhất trợ lô ngư khoái
Trương Hàn dao đầu hoán bất hồi
(Gió thu thổi, nhớ tới gắp đũa gỏi cá lô, Trương Hàn lắc đầu, gọi cũng không quay trở lại)



Tiễn Người Đi

Hương Cần đường liễu thanh thanh
Bờ nam bến bắc hữu tình biết bao
Ngự Viên oanh yến ồn ào
ghen tuông
Quê cũ rau nào cũng ngon
Vua hiền tôi hiếu vuông tròn
Thẹn cùng trúc đá người khôn vẹn thề
Đèn khuya đối bóng não nề
Mưa dầm giăng mắc khó bề khuây khoa





74
Ngẫu Hứng


I
Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu
Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu
Chủ nhân tại lữ bất quy khứ
Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều


II
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt
Lục âm trùng diệp bất di quang


III
Nhất đái ba tiêu lục phú giai
Bán gian yên hỏa tạp trần ai
Khả liên đình thảo sam trừ tận
Tha nhật xuân phong hà xứ lai

IV
Cố hương cang hạn cửu phương nông
Thập khẩu hài nhi (1) thái sắc đồng
Thí tự thuần lô tối quan thiết
Hoài quy nguyên bất đãi thu phong


V
Hữu nhất nhân yên lương khả ai (2)
Phá y tàn lạp sắc như khôi
Tị nhân đãn mịch đạo bang tẩu
Tri thị Thăng Long thành lý lai


Ngẫu Hứng

I
Tháng ba xuân, đậu và lúa lớn
Cáo vàng béo múp, cáo trắng kiêu căng.
Chủ nhân ở nơi đất khách không về,
Đáng tiếc cho Hồng Sơn thuộc về ông tiều hái củi chiều hôm.

II
Hoa lau vừa bạc hoa cúc vừa vàng
Lòng nhớ quê nơi ngàn dặm xa cùng dài với đêm dài,
Gượng dậy đẩy song cửa ngắm trăng sáng
Bóng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng không lọt qua được.

III
Một dãy cây chuối màu xanh che trùm thềm nhà,
Nửa gian nhà lửa khói bếp đầy bụi,
Đáng thương cỏ trên sân đã bị dẫy sạch,
Mai mốt gió xuân biết từ nơi nào đến?

IV
Quê hương nắng hạn lâu làm hại việc nông,
Mười miệng trẻ đói mặt cùng xanh như rau.
Giá như rất tha thiết canh rau thuần gỏi cá lô,
Thì lòng muốn về vốn chẳng cần đợi gió thu nổi

V
Có một người kia thật đáng thương,
Áo rách nón xơ sắc mặt xám như tro.
Tránh người chỉ tìm ven đường mà bước,
Biết là người trong thành Thăng Long đến.

Chú thích:
(1) Thập khẩu hài nhi: Mười miệng trẻ thơ. Nguyễn Du có ba vợ. Vợ cả là con Đoàn Nguyễn Thục và là em Đoàn Nguyễn Tuấn, sinh một con: Nguyễn Tứ. Bà vợ kế họ Võ sinh một trai là Nguyễn Ngũ. Vợ thiếp sinh được mười trai sáu gái và ở lại quê nhà.

(Bài số V) Học giả Đào Duy Anh cho rằng đây chính là Nguyễn Du. Dịch giả e rằng không đúng. Khi mới theo Gia Long, Nguyễn Du đã được ban một quan chức (Tri huyện Phù Cừ (Phù Hoa), Hưng Yên). Vả lại con người tài tử hoa gấm Tố Như đâu có thể bệ rạc như vậy.

(2) Nguyễn Du từng sống thời vàng son ở Thăng Long, rồi sau đó gia đình tan tác đên nỗi cháu là Nguyễn Hành phải than:
“Tha niên hải nội tri danh sĩ
Kim nhật thành trung khất thực nhân”
(Minh Quyên thi tập)
(Năm xưa cả nước đều biết tiếng danh sĩ, mà nay là người ăn xin ở trong thành Thăng Long). Có thể nhà thơ Nguyễn Hành đã dùng thể thậm xưng cực tả cái nghèo của chú.


Ngẫu Hứng

I
Tháng ba lúa đậu lớn mau
Cáo vàng cáo trắng đua nhau mập phì
Quê người ông chủ còn đi
Tiếc thay Hồng Lĩnh thuộc về tiều phu

II
Sơ sơ lau bạc cúc vàng
Nhớ quê muôn dặm đêm càng dài thêm
Gượng kề song ngắm trăng êm
Cây cao bóng cả khó xuyên ánh ngà

III
Tầu tiêu che phủ thềm nhà
Nửa căn bếp lửa khói pha bụi mù
Đáng thương cỏ dẫy sân trơ
Mai kia xuân đến biết nhờ lối ai

IV
Quê nhà đồng áng hạn khô
Mười con miệng đói xanh như lá chè
Ví mê canh nhút gỏi mè
Gió thu chẳng đợi mới về cố hương

V
Có người thật đáng xót thương
Nón mê áo rách mặt dường xám tro
Tránh quen mé lộ lò dò
Biết ngay khách ở cố đô mới vào

75
Ngẫu Đề


Bạch địa đình trì dạ sắc không
Thâm đường tiễu tiễu há liêm lung
Đinh đông châm chử thiên gia nguyệt
Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung

Ngẫu Đề

Sân thềm trống trơn, màn đêm tĩnh lặng,
Nhà sâu lặng lẽ, rèm buông xuống.
Tiếng chày đập vải thình thịch dưới bóng trăng soi nghìn nhà,
Gió đầy cả phòng, tàu chuối tiêu điều xào xạc,
Mười miệng kêu đói ở phía bắc Hoành Sơn.
Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng Thành,
Bạn bè thân thiết, lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng
Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng?


Ngẫu Đề


Thềm trơ canh vắng tịch liêu
Thâm nghiêm lặng lẽ trướng điều rủ buông
Tiếng chầy nện vải trăng suông
Chiếu soi ánh nguyệt trăm muôn nóc nhà
Gió đầy phòng viện bao la
Tầu tiêu xào xạc âm ba lạnh hồn
Đói mười miệng bắc Hoành Sơn
Đông Hoàng Thành một người ôm bệnh nằm
Lạ lùng thân hữu hỏi thăm
Rằng sao sầu mộng tháng năm rã rời
Xin thưa đã chót vào đời
Là vô cõi mộng ai người chẳng mơ


76
Thủy Liên (1) Đạo Trung Tảo Hành


Bi mạc bi hề hành đạo nan
Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan
Bách niên cổ đạo giai thành hác
Nhất đái bình lâm bất kiến san
Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ
Ngũ canh tàn mộng tục hương quan
Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại
Tạc tuế triều thiên sạ phóng hoàn


Đi Sớm Trên Đường Thủy Liên

Không gì buồn bằng đường đi khó,
Đêm ngủ trên sương đầu ngọn cỏ làm mặt mày hốc hác thêm.
Đường xưa trải trăm năm biến thành khe ngòi,
Một dải rừng bằng phẳng không thấy núi non.
Tấm thân nhiều bệnh giao phó cho đường sá
Trong giấc mộng tàn canh nằm vẫn còn mơ về quê hương.
Tình cờ gặp người khách trên đường về nhà nói chuyện cùng ta:
Năm ngoái vào chầu vua bỗng lại được cho về!

Chú thích:
(1) Thủy Liên, chưa rõ. Ở Lệ Thủy, Quảng Bình có tổng Thủy Liên (nhưng viết “liên” là sen, khác với “liên” trong bài là liền. Nếu Nguyễn Du đi qua đấy, thì đây có thể là bài thơ làm lúc đến Quảng Bình nhận chức Cai Bạ (1809) chăng?


Sáng Sớm Ra Đi Trên Đường Thủy Liên


Buồn chi hơn nỗi gay go
đường dài
Ngọn cỏ ngủ nhờ đêm sương
Sáng ra mặt mũi lươm nhươm
Trăm năm lối cũ thành mương thành ngòi
Rừng xanh che khuất núi đồi
Tấm thân bệnh hoạn gửi nơi lộ trình
Mơ quê thoáng mộng tàn canh
Tình cờ gặp khách đồng hành chuyện nghe
Năm qua bệ kiến triều nghi
May sao Ngài Ngự cho về điền viên


77
Tân Thu Ngẫu Hứng


Giang Thành (1) nhất ngọa duyệt tam chu
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu
Lệ Thủy (2) Cẩm Sơn (3) giai thị khách
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu
Thử nhân dĩ tác phàn lung vật
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du
Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc
Hà nam (4) kim thị đế vương chu

Ngẫu Hứng Thu Mới

Nằm ở thành bên sông chốc đã ba năm,
Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời.
Ở Lệ Thủy ở Cẩm Sơn mình vẫn chỉ là khách;
Màu mây trắng màu cây hồng đượm biết bao vẻ thu.
Thân này đã làm chim trong lồng,
Biết tìm đâu lại cuộc chơi phóng lãng?
Chớ nhìn cuối trời mà than luân lạc,
Vì phía nam sông nay là đất nhà vua rồi.

Chú thích:
(1) Giang Thành: Thành Động Hải (Đồng Hới) bên sông Nhật Lệ, Quảng Bình, nơi Nguyễn Du làm Cai Bạ tù 1809 đến 1813.
(2) Lệ Thủy: Tên sông.
(3) Cấm Sơn: Núi Cẩm Thúy, nơi sản sinh ra bạc trắng, nên còn gọi là Ngân Sơn.
(4) Hà nam: Phía nam sông, tính từ sông Nhật Lệ vào nam ( kể cả Gia Định ) nay thuộc nhà Nguyễn cả rồi. Có về vườn cũng vẫn trong đất nhà vua.


Tân Thu Ngẫu Hứng


Giang Thành thấm thoắt ba năm
Trông quê nẻo bắc xa xăm cuối trời
Cẩm Sơn Lệ Thủy xứ người
Cây hồng mây trắng bời bời dáng thu
Đem thân sống kiếp chim tù
Tìm đâu phiêu lãng phiếm du những ngày
Đừng than luân lạc đọa đầy
Nam hà cũng đã vào tay vua rồi


78
Dạ Tọa


Tứ bích cùng thanh náo dạ miên
Ải sàng di hướng khúc lan biên
Vi phong bất động sương thùy địa
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên
Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu
Thuần lô hương tứ tại thu tiên
Bạch đầu sở kế duy y thực
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên


Đêm Ngồi

Ban đêm dế kêu quanh bốn vách làm rộn giấc ngủ,
Dời chiếc giường thấp đến bên cạnh lan can.
Gió nhẹ không lay động, màn sương rũ xuống mặt đất,
Trăng tà không sáng, sao đầy trời.
Nỗi buồn man mác về xưa nay, lại đến sau khi say.
Nhớ đến hương vị rau thuần cá vược ở quê nhà lúc đầu thu.
Đầu bạc chỉ lo chuyện cơm áo.
Làm thế nào được hát ngông như thời niên thiếu?

Dạ Tọa

Quanh tường dế rúc trêu ngươi
Dời giường tới tận đầu hồi lan can
Gió im sương nhẹ rủ màn
Trăng mờ sao hiện vô vàn cõi đêm
Buồn man mác phút say quên
Món quê vị thuộc mùi quen thu đầu
Tóc sương cơm áo dãi dầu
Hát ngao thèm được vài câu thiếu thời

79
Tặng Nhân


Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn
Trung hữu cao nhân bất xuất môn
Tiêu lộc mộng (1) trường tâm bất cạnh
Tần Tùy vãng sự (2) khẩu năng ngôn
Xuân vân mãn kính quần mi lộc
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn
Ngã dục quải quan tòng thử thệ
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn

Tặng Người

Một dòng nước đầy ngăn một xóm hẻo lánh,
Trong xóm có một cao sĩ không hề ra khỏi cửa.
Giấc mộng “lấy lá chuối dấu hươu” lòng không ganh đua,
Chuyện cũ đời Tần Tùy có thể nói được.
Mây xuân đầy đường nhỏ làm bạn cùng hươu nai
Mùa thu gặt lúa, ra đốc thúc con cháu.
Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi,
Cùng ông hưởng thọ vui với đàn với rượu.

Chú thích:
(1) Tiêu lộc mộng: “Giấc mộng lá chuối dấu hươu”. Liệt Tử: Có người hái củi, thấy hươu chạy, đón đánh chết, sợ người ta thấy, đem dấu vào hang, lấy lá chuối phủ kín, sau quên không biết dấu nơi nào, ngỡ là mình chiêm bao.
(2) Tần, Tùy vãng sự: Chuyện cũ đời Tần, Tùy. Có lẽ tác giả nhắc đến “Đào Hoa Nguyên Ký” của Đào Tiềm: Những người tránh loạn ẩn cư trong núi không biết đên chuyện đời nay, nhưng nhớ chuyện đời xưa.


Tặng Người


Ngòi sâu ngăn cách cô thôn
Vị cao sĩ chẳng lìa cồn tre xanh
Dấu hươu không ý đua tranh
Luận bàn riêng chỉ đời Tần Tùy thôi
Mây xuân lối nhỏ chơi vơi
Hươu nai bạn với con người ẩn cư
Đốc con cháu gặt lúa thu
Ta thèm mũ áo tạ từ cáo quan
Cùng nhau an hưởng tuổi nhàn
Chung vui chén rượu tiếng đàn xóm quê


80
Tái Thứ Nguyên Vận


Trạm (1) nguyên lưu thủy phát sơn thôn
Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất tức (2)
Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn (3)
Tuế thu truật mễ kham cung khách
Thiền giả tùng niên cập bão tôn
Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến
Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn

Lại Họa Nguyên Vận Bài Trước

Nguồn sông Trạm bắt nguồn từ xóm núi,
Ở cửa biển Nhật Lệ sóng triều cường vỗ mạnh.
Sông Vị trong sông Kinh đục đều chảy không ngừng,
Hoa vàng và trúc xanh cả hai đều quên nói.
Hàng năm thu hoạch nếp đủ để đãi khách
Trời cho tuổi thọ như cây tùng để kịp bế cháu,
Cuộc đời phù sinh đã trải qua bao phen ruộng dâu biến thành ruộng muối.
Đầu giường luôn có nậm rượu đầy như cũ.

Chú thích:
(1) Trạm: Sông Trạm, tức Bình Giang, chảy từ núi Bang Môn, qua 18 thác và vực Yên Sinh rồi vào phía Hạt Hải, có một chi qua xã Cẩm La mà vào sông Nhật Lệ để ra biển ở phía đông thành Quảng Bình (chú theo Đào Duy Anh).
(2) Kinh, Vị: Sông Kinh và Sông Vị, hai nhánh của Hoàng Hà, nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong, khi hai sông hợp lưu thì trong đục thấy rõ. Ở đây muốn nói dòng đời trong đục.
(3) Hoàng hoa lục trúc: Cúc vàng trúc xanh.
Vong ngôn: Quên nói. “Vong thân vong thế dĩ đô vong”(Thơ Huyền Quang đời Trần) (Quên thân quên đời quên tất cả). “Dục ngữ hốt hoàn vong” (thơ Nguyễn Trãi): “Muốn nói bỗng lại quên”. Lấy tâm truyền tâm, ngộ đạo bằng trực giác, không dùng ngôn ngữ và văn tự… Đó là những yếu chỉ của Thiền Tông. Ở đây ý nói cả hai người, Nguyễn Du và bạn đều muốn “thiền”.


Lại Họa Nguyên Vận Bài Trước

Núi nguồn sông Trạm chẩy ra
Hải quan Nhật Lệ phong ba chập trùng
Vị trong Kinh đục chẳng ngừng
Cúc vàng trúc biếc đã ngưng mạn đàm
Nếp thu hoạch đủ đãi đằng
Kịp bồng bế cháu tuổi bằng tùng cao
Đời dâu biển giấc chiêm bao
Nậm đầu giường chẳng khi nào rượu vơi


81
Tạp Ngâm

Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành (1)
Thử khí tài thu thiên khí thanh
Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc
Giang đầu thụ thụ các thu thanh
Tha hương bạch phát lão bất tử
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh
Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch
Tái vô diện mục kiến đồng minh

Tạp Ngâm

Mặt trăng vừa nổi trên thành sông Nhật Lệ
Khí nóng vừa hết khí trời trong.
Các ngọn núi ngoài thành đều nhuốm sắc hoàng hôn,
Hàng cây đầu sông đều vang vọng tiếng thu.
Bạc đầu nơi đất khách, già nhưng chưa chết.
Cúc vàng năm ngoái năm nay lại nở.
Vì ta hãy tạ từ với cây tùng tảng đá ở Hồng Sơn,
Ta không còn mặt mũi nào trông thấy các bạn đồng minh nữa.


Chú thích:
(1) Lệ Giang thành: Thành bên sông Nhật Lệ tức tỉnh thành Quảng Bình, còn gọi là Lũy Thày, do Đào Duy Từ ( thế kỷ XVIII ) xây trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, chạy dọc theo bờ sông Nhật Lệ lên chân núi Đâu Mâu, tức lũy Trường Dục.


Tạp Ngâm


Giang Thành mây trắng nổi lên
Nóng nung vừa hết trời thêm trong lành
Núi đồi nhuộm sắc chiều xanh
Cây đầu bến bãi vọng thanh mùa buồn
Bạc đầu đất khách chưa chôn
Cúc vàng năm ngoái vẫn còn nở hoa
Cội tùng đá núi Hồng xa
Tạ từ thôi nhé lòng ta thẹn thùng


82
Giang Đầu Tản Bộ


I
Tản phát cuồng ca tứ sở chi
Lục tần phong khởi tịch dương vi
Bạch vân lưu thủy đồng vô tận
Ngư phủ phù âu lưỡng bất nghi
Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách (1)
Bất tài đa khủng tốc quan phi (2)
Niên niên thu sắc hồn như thử
Nhân tại tha hương bất tự tri


II
Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng
Tế giản thủy thanh lưu tích vũ
Bình sa nhân ảnh tại tà dương
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ
Nhi nữ thành quần tử bất phương
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn
Hoành Sơn vân thụ chính thương thương


Dạo bước Bên Sông

I
Xõa tóc hát ngâm đi khắp nơi,
Gió thổi trên đám rau tần xanh, bóng chiều nhạt.
Mây trắng nước trôi đều vô tận,
Ông chài chim âu không nghi ngờ nhau.
Không lụy nên chưa chuốc lấy sự trách móc của quỷ,
Bất tài nên hay sợ rước lấy sự sai lầm trong việc quan.
Năm này qua năm khác sắc thu vẫn như thế,
Người ở đất khách chẳng tự biết mà thôi.

II
Hát mau tiếng ngân ngắn, hát chậm tiếng ngân dài.
Tóc bạc phơ bên con đường xưa.
Lạch nhỏ mưa nhiều tiếng nước reo,
Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà.
Ơn nước chưa báo được mảy may sống ích gì.
Ngoảnh đầu nhìn quê nhà, màu thu xa
Khói mây cây cối trên Hoành Sơn đương một màu xanh xanh.

Chú thích:
(1) Không lụy vì danh lợi, nên chưa rước lấy sự trách móc của ma quỷ ( có thể ám chỉ bọn người xấu ).
(2) Đại Nam Thực Lục Chính Biên chép: “ Khi ra làm quan ông thường bị quan trên quở trách, nên lấy làm uất ức, bực chí”. Nhưng cũng theo sách này chép, khi làm quan ở Quảng Bình, Nguyễn Du “ chính sự giản dị” được lòng dân, có “ chính tích “.



Tản Bộ Bên Sông


I
Nghêu ngao xõa tóc dạo chơi
Rau tần gió thổi chiều trời nhạt phai
Nước mây vô tận trôi hoài
Chim âu cùng với bác chài tương tri
Lụy không nên quỷ chưa chê
Bất tài luống sợ lỗi nghề làm quan
Sắc thu muôn thủa hanh vàng
Sống lâu đất khách nên chàng không hay


II
Hát mau cho ngắn lời ca
Càng chầm chậm tiếng ngân nga càng dài
Đường xưa tóc bạc u hoài
Nước dâng lạch nhỏ mưa dai tiếng đều
Bóng ai trên bãi cát chiều
Ân chưa báo đáp thọ nhiều ích chi
Con đông chết chẳng tiếc gì
Ngoảnh đầu nhìn lại sắc quê thu mờ
Hoành Sơn mây khói tiêu sơ
Đó đây rải rác cây bờ xanh xanh

83
Ngẫu Đắc

Cô thành nhật mộ khởi âm vân
Thanh thảo man man đáo hải tần
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt
Thù phương độc thác hữu quan thân
Sự lai đồ lệ giai kiều ngã
Lão khứ văn chương diệc tị nhân
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lý
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân

Ngẫu Nhiên Nẩy Ý Thơ

Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi,
Cỏ xanh rờn lan tận bờ bể.
Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ,
Phương xa một mình gửi cái thân làm quan.
Khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta,
Gìa đến rồi, văn chương cũng xa lánh người.
Trông ra Hồng Sơn cách ngoài ba trăm dặm.
Biết chốn nào hỏi thăm láng giềng cũ?


Ngẫu Đắc

Mây đen nổi mặt cô thành
Cỏ lan bãi biển cỏ xanh ruộng đồng
Xương tàn vô chủ vùi nông
Miền xa hạt nhỏ một ông quan nghèo
Công sai nha lại ra điều
Già nua thơ cũng có chiều lánh ta
Hồng Sơn dặm cách xa xa
Biết đâu mà hỏi cho ra láng giềng


84
Pháo Đài


Nam Bắc xa thư khánh đại đồng (1)
Pháo đài hư thiết thổ thành đông
Sơn băng thạch liệt thành do tráng
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không (2)
Tạc giả đại khuy sinh vật đức
Nhĩ lai bất quý sát nhân công
Thanh bình thời tiết vô tranh chiến
Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông

Pháo Đài

Xe và chữ viết Nam và Bắc mừng đã cùng một thể thức,
Pháo đài đã thành vật bỏ không ở phía đông thành đất.
Núi lở đá tan, thành vẫn còn vững,
Chuyện Hán cướp Tần tranh đã thành không,
Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hóa,
Từ nay không quý cái công giết người nữa.
Trong buổi thanh bình không có chiến tranh,
Trâu bò cày bừa, chính là lúc coi trọng nhà nông.

Chú thích:
(1) Xa thư đại đồng: “Xa đồng quỹ, thư đồng văn” (Trung Dung) xe cùng khoảng cách đôi bánh (trục xe), chữ viết cùng kiểu chữ; nói lên sự thống nhất của Trung Quốc thời xưa. Ở đây ý nói dưới thời Nguyễn, Nam Bắc đã không còn phân tranh, đã thống nhất.
(2) Hán, Tần: chỉ Trịnh Nguyễn.


Pháo Đài


Bắc Nam một mối đã gom
Pháo đài vô dụng mỏi mòn lũy đông
Đá tan núi lở mịt mùng
Thành trơ trơ đứng thị hùng ích chi
Hiếu sinh thương tổn gớm ghê
Bây giờ ai nữa chuộng nghề sát nhân
Bình ca quốc thái dân an
Trâu cầy thôn xóm yên hàn ruộng nương


85
Thành Hạ Khí Mã


Thùy gia lão mã khí thành âm
Mao ám bì can sấu bất câm
Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản
Sa trường nhật mộ trận vân thâm
Cơ lai bất tác cầu nhân thái
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm
Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính
Mạc giao ky trấp (1) tái tương xâm

Con Ngựa Thải Dưới Chân Thành

Con ngựa già nhà ai thải bỏ dưới chân thành?
Lông sạm da khô gầy quá thể,
Trên lũy đá hơi thu lạnh cỏ ở đường ngắn,
Chốn bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc.
Bụng đói nhưng không tỏ ý cầu xin người,
Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nước.
Chịu được gió sương giữ trọn tính tự nhiên của mày,
Chớ để cho dàm và bịt móng lại phạm vào thân.

Chú thích:
(1) Ky trấp: Ky là dàm buộc mõm ngựa. Trấp là vật bịt chân ngựa.


Con Ngựa Thải Dưới Chân Thành


Ngựa hoang ai bỏ dưới thành
Lông tro da xạm thân hình trơ xương
Lạnh hơi thu ngắn cỏ đường
Hoàng hôn mây kéo tà dương bãi chiều
Đói lòng miệng chẳng kêu rêu
Tuổi già vẫn nặng tình yêu sơn hà
Gió sương âu cũng chỉ là
Móng dàm xin chớ phạm ta hai lần



86
Vọng Thiên Thai Tự


Thiên Thai sơn tại đế thành đông (1)
Cách nhất điều giang tự bất thông
Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung (2)

Trông Chùa Thiên Thai

Núi Thiên Thai ở phía đông Hoàng Thành,
Cách một dòng sông dường như không đến được.
Mùa thu, chùa cổ như vùi trong lá vàng,
Vị sư triều trước già trong mây trắng.
Khá thương mình đầu bạc rồi vẫn phải chịu để người sai khiến,
Không cùng với núi xanh giữ được thủy chung.
Nhớ năm trước ta từng một lần đến đây,
Còn thấy có treo quả chuông đá thời Cảnh Hưng ngày xưa.

Chú thích:
(1) Thiên Thai: Tên một ngôi chùa ở phía đông nam Nam Giao, Huế.
(2) Cảnh Hưng: Niên hiệu của Lê Hiển Tông (1740 – 1786).


Ngắm Chùa Thiên Thai


Thiên Thai dựng phía đông thành
Cách sông tưởng khó du hành thiền môn
Thu về chùa lá vàng ôm
Tiền triều sư cụ sớm hôm mây trời
Thương ôi mái tóc bạc rồi
Trào ca mình vẫn cuộc đời tay sai
Thủy chung lỗi hẹn núi này
Nhớ năm trước đã qua đây một lần
Tiếng chuông ngày cũ còn ngân
Cảnh Hưng niên hiệu ân cần nhắc nhau



87
Giản Công Bộ Thiêm sự Trần (1)

I
Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân (2)
Sơn bắc sơn nam tẫn bạch vân
Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn
Thiên nhai không đái lão tùy thân
Bách niên cổ lũy yên hà hợp (3)
Nhất đái hàn sa thảo thụ phân
Ỷ biến lan can vô dữ ngữ
Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân (4)

II
Thanh phong niểu niểu tự giang tân
Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần
Nan đắc tương phùng như thử dạ
Khả liên đồng thị vị quy nhân
Âm phù tuế vãn sinh tiên đố (5)
U thất thu hàn hiện quỷ lân
Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn phú (6)
Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn vân

Gửi Ông Thiêm Sự Bộ Công Họ Trần

I
Ngoài dẫy núi xanh có người chưa trở về,
Phiá bắc núi phía nam núi thẩy đều đầy mây trắng.
Tháng bẩy lại gặp mùa thu đến trong tầm mắt,
Nơi chân trời chỉ đeo cái già theo mình.
Trên lũy xưa trăm năm khói ráng tụ lại,
Một dải cát lạnh chia cách cỏ cây.
Tựa khắp lan can không cùng ai trò chuyện,
Bao lần tưởng nhớ Kinh Tọa Trần Tuân.

II
Gió mát hiu hiu từ bến sông thổi đến,
Trăng sáng núi xanh hiện trên bãi bể.
Khó được gặp nhau như đêm nay,
Đáng thương hai ta đều là người chưa về được.
Kinh Âm Phù đến cuối năm không xem sinh mọt tiên,
Ngôi nhà tối mùa thu lạnh sẽ hiện đom đóm ma.
Đêm đọc rõ bài phú Chiêu Ẩn,
Thẹn mình đã phụ làn mây núi Hồng.

Chú thích:
(1) Theo câu cuối bai I thì ông Thiêm Sự họ Trần này có lẽ là Trần Văn Tuân, làm Tham Tri bộ Lại dưới triều Gia Long đồng thời với Nguyễn Du.
(2) Tự nói về mình.
(3) Bài này làm lúc ở Quảng Bình nên nói đến “bách niên cổ lũy” (lũy cũ trăm năm), chỉ Lũy Thầy.
(4) Trần Tuân: Người đời Hán, tự Mạnh Công, tính mến khách, thường tháo chốt xe của khách ném xuống giếng để lưu khách lại. Ông người cao lớn, vạm vỡ, đi đến đâu, ai cũng trọng vọng. Hồi đó có một người trùng tên họ với ông, mỗi khi đến nhà ai, xưng là Trần Mạnh Công, mọi người đều kinh động, nhưng khi vào đến nơi thì không phải, do đó có người đặt cho cái tên là “kinh tọa” (làm mọi người kinh động). Câu này ý nói: Người mình nhớ trùng tên với Trần Tuân, người đời Hán.
(5) Âm (âm) Phù: Tức Âm (âm) Phù kinh , một bộ sách cổ của Trung Quốc nói về Đạo Giáo.
(6) Chiêu Ẩn phú: Bài Chiêu ẩn sĩ của Hoài Nam Tiểu Sơn chép trong phần sáu của Sở Từ, đại ý kêu gọi các bạn cao sĩ ở ẩn để nhớ Khuất Nguyên mà họ ví như người còn ở ẩn trong chằm núi. Dụng ý kêu gọi các cao sĩ ra theo giúp Hoài Nam Vương Lưu An.

Ý Nguyễn Du cho mình đã nghe theo lời “chiêu ẩn” mà ra làm quan nhà Nguyễn, phụ cái chí nguyện ở ẩn non Hồng.


Gửi Ông Thiêm Sự Bộ Công Họ Trần


I
Núi xanh người vẫn chưa về
Phía nam phía bắc mây che trắng trời
Gặp mùa tháng bẩy thu rơi
Cái già lại buộc theo người chân mây
Lũy xưa khói ráng phủ đầy
Bình sa một dải cỏ cây chia lìa
Tựa lan can chẳng nói gì
Nhớ thương thương nhớ ai kia họ Trần


II
Hắt hiu gió tự sông lên
Núi xanh trăng sáng bãi liền bờ sâu
Đêm nay mình khó gặp nhau
Hai ta tội nghiệp còn lâu mới về
Âm Phù Kinh chẳng kịp nghe
Cuối năm mọt sách gặm bìa thành tiên
Thu buồn nhà tối nhá nhem
Từng đàn đom đóm soi đêm mịt mùng
Chiêu Ẩn Phú tai đã từng
Nước non đành phụ núi Hồng mây bay



88
Thu Nhật Ký Hứng


Tây phong tái đáo bất quy nhân
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật
Tha hương thân thế thác phù vân
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân

Ngày Thu Gởi Hứng

Gió thu mới vừa thổi đến người chưa được trở về nhà,
Chợt cảm thấy trời đã rất lạnh.
Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn,
Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi.
Sáng nay chợt kinh sợ cho cảnh già,
Đêm qua nghe tiếng thu ở chốn nào.
Tự cười đầu bạc vụng thu xếp,
Đầy sân lá vàng rụng tơi bời.


Ngày Thu Gởi Hứng


Gió tây nổi vẫn chưa về
Trời thu đã thấy lạnh tê tái rồi
Quê nhà trong ánh chiều rơi
Thân ngoài đất khách mây trời phiêu du
Sáng nay cám cảnh già nua
Đêm qua nghe vẳng tiếng thu chốn nào
Cười ta đầu bạc vụng sao
Đầy sân lá rụng ào ào như mưa



89
Sơn Trung Tức Sự


Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi
Yên la bố địa mật nan khai (1)
Hốt phùng hãi thú thụ gian xuất
Tri hữu tiều phu lâm hạ lai
Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận
Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi
Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ (2)
Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai

Tả Cảnh Trong Núi

Núi trùng điệp, đá chất thành đống,
Dây leo bò khắp đất chật chội khó mở lối đi.
Bỗng gặp con thú sợ hãi trong lùm cây chạy ra,
Biết là người hái củi ở dưới rừng đi đến.
Đồng cháy, vết cháy còn mới, cỏ xanh cháy hết,
Lối đi cũ ven núi, mây trắng đùn lên.
Thần núi cố ý dứt tuyệt con đường người đi tìm phú quý.
Bày khắp nơi gò cao và vách đá hiểm.

Chú thích:
(1) Yên la: Tên một loài dây leo, bò lan trên mặt đất.
(2) Khinh phì: (Khinh cừu phì mã), mặc áo cừu nhẹ , cưỡi ngựa béo, ý nói đời sống phong lưu


Tả Cảnh Trong Núi


Điệp trùng núi đá nhấp nhô
Lối mòn mất hút bụi bờ kín bưng
Thú hoang khiếp sợ tách vùng
Biết người hái củi dưới rừng ghé đây
Đồng khô vệt cháy còn đầy
Lối men vách núi mây bay trên đầu
Sơn Thần cố ý chọc nhau
Con đường phú quý vực sâu hiểm nghèo


90
Độ Linh Giang (1)


Bình sa tận xứ thủy thiên phù
Hạo hạo yên ba cổ độ thu
Nhất vọng tân nhai thông cự hải
Lịch triều cương giới tại trung lưu
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp (2)
Bách chiến tàn hài ngọa lục vu
Bắc thượng thổ dân mạc tương tị (3)
Táp niên tiền thị ngã đồng chu (châu)

Qua Đò Sông Gianh

Cuối bãi cát phẳng là chỗ trời và nước nổi bập bềnh,
Khói sóng mênh mang, vẻ thu trên bến đò xưa.
Ngước trông bến sông thông ra biển lớn,
Cương giới các triều đại phân chia ở giữa dòng sông.
Trên lũy cũ ba quân lá vàng bay lả tả,
Xương tàn trăm trận đánh nằm trong bãi cỏ xanh
Thổ dân vùng Bắc chớ nên xa lánh nhau,
Ba mươi năm trước cũng là người đồng châu với ta.

Chú thích:
(1) Linh Giang: Là tên chữ của sông Gianh, thuộc Quảng Bình, là con sông Đàng Trong – Đàng Ngoài chia ranh giới thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
(2) Cựu bích: Lũy cũ, chỉ Lũy Thầy.
(3) Trước khi Tây Sơn khởi nghĩa thì miền bắc sông Gianh thuộc châu Bắc Bố Chính, về địa phận Đàng Ngoài, tức dân ở đây còn là cùng một châu với người miền Bắc người Nghệ Tĩnh, cho nên thấy người về Bắc dân miền này đừng có tránh.


Qua Đò Sông Gianh


Nước trời cuối bãi liền nhau
Khói mênh mông vẻ thu đầu bến xưa
Sông tìm biển lớn sóng xô
Giữa dòng triều cũ cõi bờ Bắc Nam
Ba quân cổ lũy lá vàng
Hàng trăm trận đánh xương tàn vùi nông
Thổ dân bờ bắc biết không
Ba mươi năm trước ta cùng một châu


91
Nễ Giang (1) Khẩu Hương Vọng


Vọng vọng gia hương tự nhật biên
Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên
Khả lân quy lộ tài tam nhật
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên
Yến Đảo (2) thu hàn thanh nhập hải
Nễ Giang trào trướng bạch hàm thiên
Ngoại châu (3) kim dữ ngô châu biệt
Khán khán nhân phong bất tự tiền

Ở Cửa Sông Ròn Nhìn về Quê

Trông ngóng quê nhà xa tựa như ở bên mặt trời
Nhưng chỉ cách một ngọn núi trong dẫy Hoành Sơn.
Khá thương đường về nhà chỉ mất có ba ngày,
Mà riêng ôm lòng nhớ nhà đã bốn năm,
Hòn Yến hơi thu lạnh, sắc xanh chiếu xuống biển
Cửa sông Ròn nước triều lên, sóng trắng xóa như ôm lấy trời,
Châu ngoài này khác với châu ta,
Nhìn xem phong tục người dân không giống trước.


Chú thích:
(1) Nễ Giang khẩu: Cửa sông Nễ, một con sông phía bắc tỉnh Quảng Bình, còn gọi là cửa Ròn, cũng gọi là cửa Cảnh Dương. Hán tự chữ Nễ còn đọc là Di.
(2) Yến Đảo: Hòn Én, một đảo nhỏ ngoài cửa Ròn, có nhiều tổ én.
(3) Ngoại châu: Châu Ngoài tức là Bố Chính Ngoại Châu. Từ thời đầu Nguyễn thì miền này thuộc về tỉnh Quảng Bình khác với miền Nghệ An là quê của Nguyễn Du.


Từ Cửa Sông Ròn Nhìn Về Quê


Quê xa xa tựa mặt trời
Hoành Sơn chỉ một ngọn đồi cách ngăn
Ba ngày đường mấy xa xăm
Mà ôm sầu nhớ bốn năm quê nhà
Hơi thu lạnh nét thu già
Chiều xanh Hòn Yến trời pha biển chiều
Cửa Ròn sóng bạc ầm reo
Châu ngoài này cũng khác nhiều châu quê
Nhìn xem phong tục thói lề
Người dân nay đã khác đi quá chừng


92
Y Nguyên Vận Ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên (1)


Nhất dạ tây phong đáo hải mi
Đồng niên giao nghị thượng y y
Đại canh hữu thiệt sinh thường túc
Khứ quốc hà tâm lão bất quy
Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh (2)
Mộng hồn dã nhập Thiếu Lăng thi (3)
Lâm Giang vị cảm đề Anh Vũ (4)
Hoàn hữu Trung Nguyên nhất đại nhi

Y Theo Nguyên Vận Gửi Ông Ngô Tứ Nguyên Ở Thanh Oai

Một đêm gió tây thổi đến bờ biển,
Tình bạn thủa còn thơ vẫn y như cũ.
Thay cái cầy bằng cái lưỡi, sinh kế thường đủ,
Xa quê hương lòng nào già không muốn về?
Bệnh đái đường của Tư Mã Tương Như của anh ngày một thêm nặng,
Hồn mộng tôi đêm đêm nhập vào thơ Đỗ Thiếu Lăng.
Đứng trên bờ sông chưa dám đề thơ Anh Vũ
Bởi vì đất Trung Nguyên có một nhà thơ lão luyện

Chú thích:
(1) Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên: Chưa rõ là ai. Thanh Oai là tên làng quê Ngô Thì Nhậm, vậy vị họ Ngô này hẳn có quan hệ với Ngô Thì Nhậm. Xét trong gia phả họ Ngô chỉ có ông Ngô Thì Hoàng (1768 – 1814) tục gọi là ông Tú Chùa, em ruột Ngô Thì Nhậm là cỡ tuổi Nguyễn Du, có thể hồi nhỏ hai gia đình họ Ngô và họ Nguyễn Tiên Điền lúc đó ở Thăng Long có đi lại , nên thân thiết với nhau (đồng niên giao nghị). Nhưng ông này chỉ đậu Tú Tài, có làm thơ văn, nhưng không phải là người đỗ đầu bốn khoa (đầu xứ, giải nguyên, hội nguyên, đình nguyên) được. Vậy chữ tứ nguyên còn có vấn đề. Ông Tú Chùa cũng không ra làm quan, sống gắn bó với làng quê, nên câu “đại canh hữu thiệt”(thay cái cầy bằng cái lưỡi) hiểu là làm ông đồ dạy học.
(2) Tiêu khát: Bệnh đái đường, Tư Mã Tương Như mắc bệnh này.
(3) Thiếu Lăng: Bút hiệu Đỗ Phủ , đại thi hào đời Đường.
(4) Anh Vũ: Tức Anh Vũ Châu trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. “Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu” (cỏ thơm xanh rờn trên bãi Anh Vũ). Bãi Anh Vũ ở giữa sông Trường Giang, tây nam thành phố Vũ Xương.

Vì Lý Bạch thấy Thôi Hiệu đề thơ Hoàng Hạc Lâu hay quá, gác bút, nên đây nhắc lại “không dám đề Anh Vũ”, để nói ý đã có thơ hay.

Không có bài nguyên xướng của ông Ngô Tứ Nguyên



Y Theo Nguyên Vận Gửi Ông Ngô Tứ Nguyên Ở Thanh Oai


Gió tây đêm thổi lay bờ
Tình thơ tình vẫn đẹp như thủa nào
Lưỡi thay cầy kiếm cháo rau
Ly hương tóc bạc nao nao ngày về
Tương Như bệnh bác nặng nề
Hồn tôi mộng nhập tựa đề Thiếu Lăng
Thơ Anh Vũ quả khó khăn
Bởi Trung Nguyên đại thi nhân có rồi


93
Tống Ngô Nhữ Sơn (1) Công Xuất Trấn Nghệ An


Cẩm La (2) giang thượng khấu chinh an
Bái hội phi nan tích biệt nan
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc (3)
Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan (4)
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính (5)
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn
Bắc vọng Hồng Sơn khai Đức diệu (6)
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan

Tiễn Ông Ngô Nhữ Sơn Ra Trấn Thủ Nghệ An

Trên cửa sông Cẩm Giang tôi gò yên ngựa của người đi xa lại,
Gặp nhau không khó nhưng khó là luyến tiếc khi chia biệt nhau.
Văn của ông hay như văn của tám nhà văn lớn đời Đường Tống làm đẹp cho cả hai nước,
Mưa móc theo xe của ông thấm nhuần châu Hoan.
Tánh tình ông đạm bạc, ông sẽ đem nó vào chính sự,
Trời vì dân nên chưa cho ông hưởng nhàn,
Trông về Hồng Lĩnh ở phía bắc thấy ngôi sao đức mọc lên,
Ở nơi chân trời tôi nâng chén rượu mừng cho quê hương tôi.




Chú thích:
(1) Ngô Nhữ Sơn tức Ngô Nhân Tĩnh (? - 1816). Ông tự là Nhữ Sơn, gốc người Trung Quốc, sang ở Gia Định, học trò xử sĩ Võ Trường Toản, cùng với Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định nổi tiếng là “Gia Định tam gia”. Thơ ông thâm trầm, nhiều ẩn ý, nhiều trăn trở trước những nghịch cảnh của xã hội và con người đời Nguyễn. Ông có đi sứ Trung Quốc (1802 và 1807) được nhân sĩ Trung Quốc ngợi khen tài văn chương. Tháng giêng năm Gia Long thứ 10 (1811) ông từ Tham Tri bộ Hộ được bổ Hiệp Trấn Nghệ An. Lúc đó Nguyễn Du đang làm Cai Bạ Quảng Bình, có bài thơ này tặng Ngô Nhân Tĩnh. Năm 1816, bị Gia Long nghi kỵ, lo buồn thành bệnh, ông mất trong sự ghẻ lạnh của triều đình.
(2) Cẩm La: Bến Cẩm La tức bến đò Hàn trên sông Nhật Lệ ở phía nam thành Quảng Bình.
(3) Bát Đại Kỳ Văn: Tám nhà văn lớn đời Đường Tống gồm: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng, Vương An Thạch

Ít thấy trong thơ Nguyễn Du những lời tán tụng thù tạc, nên sự đánh giá này cũng chứng tỏ tài năng của Ngô Nhân Tịnh.

(4) Hoan Châu: Tức Nghệ An
Ngô Nhân Tịnh đem mưa đến cho dân Nghệ An. Năm ấy, dân Nghệ Tĩnh đói kém, thuế tô, thuế điền thiếu kể đến mười vạn. Khi Nhân Tĩnh đến nơi có tâu về triều đình hoãn thu thuế.
(5) Người xưa thích chính sự giản dị, đạm bạc, không thích phiền hà..
(6) Ví Ngô Nhân Tĩnh như ngôi sao Đức trên bầu trời Hồng Lĩnh.


Tiễn Ông Ngô Nhữ Sơn Ra Trấn Thủ Nghệ An


Cẩm La gò ngựa khách đi
Gặp nào khó chỉ khó khi chia đường
Một tay Đường Tống văn chương
Móc mưa nhuần gội ruộng vườn châu Hoan
Tính trời đạm bạc vỗ an
Vì dân chưa hưởng chữ nhàn trời cho
Hồng Sơn sao Đức mới nhô
Xa quê hương chén rượu nho chúc mừng


94
Đại Tác Cửu Thú Tư Quy


I
Quan ngoại thu phong tống địch xuy
Ban Siêu đầu bạch vị thành quy (1)
Thập niên khứ quốc quân ân trọng
Thiên lý ly gia lữ mộng trì
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục (2)
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ


II
Thiên Nhẫn Hoành Sơn nhất đái hà
Bạch vân hồi thủ cách thiên nha
Tân thu khí hậu thôi hàn chử
Cố quốc quan sơn ký dạ già
Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu
Phong trần vạn lý quốc vong gia
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại
Bán dạ Giang Thành xuy “Lạc Hoa” (3)

Làm Thay Người Đi Thú Lâu Năm, Nhớ Nhà

I
Gió thu ngoài cửa ải đưa tiếng sáo đi xa,
Ban Siêu bạc đầu mà chưa được về.
Mười năm dâng mình cho nước vì ơn vua nặng,
Xa nhà ngoài ngàn dặm, giấc mộng đất khách dài.
Vinh hoa như mặc áo gấm đi đêm, chỉ là ảo mộng ngoài thân,
Danh lợi như mây buổi sớm, đổi khác ngay trước mặt.
Năm này qua năm khác ruộng dưa lại chín,
Hết khổ đến sướng còn có ngày về.

II
Hoành Sơn và Thiên Nhẫn cùng trên một dải sông,
Ngoảnh nhìn mây trắng xa cách tận bên trời.
Thu mới sang khí lạnh thúc dục người ta nên giặt vải may áo,
Tình sông núi quê hương gửi vào tiếng kèn ban đêm.
Một thân trong trời đất lấy trung đổi hiếu,
Muôn dặm gió bụi, vì nước quên nhà.
Cầm ngay chiếc sáo thổi dưới trăng, buồn thiu,
Nửa đêm bên giang thành, thổi khúc “Hoa Mai Rụng”.


Chú thích:
(1) Ban Siêu: Tướng đời Đông Hán, đời Hán Minh Đế đi sứ Tây Vực được phong Định Viễn Hầu, vì có công thu phục 50 nước, giữ chức Đô Hộ ở Tây Vực, khi về tính ra xa nhà đã 31 năm.
(2) Qua điền thục: Ruộng dưa chín. Tả Truyện: Liên Xưng và Quản Chi Phủ đi thú đất Quỳ Khâu, khi đi là mùa dưa chín, hẹn đến mùa dưa chín năm sau sẽ được về. Đây nói: Năm nào cũng thấy dưa chín nhưng chưa được về.
(3) Lạc Hoa: Tức Mai Hoa Lạc, tên một khúc địch do Lý Diên Niên đời Hán sáng tác, diễn tả nỗi sầu cảm nhớ quê hương của chinh phu, lữ khách.



Làm Thay Người Đi Thú Lâu Năm, Nhớ Nhà


I
Gió thu quan ngoại sáo ngân
Ban Siêu chưa được một lần về quê
Mười năm đầu bạc nguyện thề
Xa ngàn muôn dặm giấc ly hương buồn
Vinh hoa áo gấm đêm trường
Lợi danh mây sớm trên đường mau qua
Năm nay năm tới dưa già
Cam lai khổ tận về nhà có khi


II
Hoành Sơn Thiên Nhẫn cùng bên
Ngó sông mây trắng tận trên đỉnh trời
Thu sang thu lạnh thu ngời
Dục nhau nện vải cho người áo may
Tình quê gửi tiếng kèn bay
Một thân đổi chữ hiếu này thành trung
Quên nhà vì nước muôn trùng
Sáo nâng thổi dưới trăng trong điệu buồn
Nửa đêm réo rắt bi thương
Giang Thành “Hoa Rụng” sầu vương bốn bề



















Nguyễn Du

















BẮC HÀNH TẠP LỤC
(1813 – 1814)
Băng Đình Lược Dịch










95
Long Thành Cầm Giả Ca
(Phụng sứ thời tác)


Tiểu Dẫn:

Long Thành cầm giả, bất tri tính thị. Văn kỳ ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kỳ nhân lưu lạc thị triền, hiệp kỹ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai Ngự tiền Cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kỹ. Dư thiếu thời, thám huynh đế kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kỳ bang Tây Sơn chư thần, đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kỳ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường, phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo, xác thưởng dĩ đại bạch, triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy mãn địa. Dư thời nạc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân, khoát hiểm, ngạch đột, diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hý lăng hước, nhãn hoắc hoắc, khuôn trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi, bất tuất dã. Hậu sổ tải, dư tỷ gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược can niên hỹ. Kim xuân, tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành, chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy ư cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, nhất chi nhạc nhân, tức kỳ nhân dã. Ta hồ! thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thăng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ khả lượng da! Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.


Long thành giai nhân
Tính thị bất ký thanh
Độc thiện Nguyễn cầm (1)
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến (2)
Kỳ thời tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch (3)
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm (4)
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa đại nội âm (5)
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ Lăng (6) thiếu niên bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ (7) sứ quân vị dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bàn hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà (8) quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trùng trùng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri


Long Thành Cầm Giả Ca

Người đẹp thành Thăng Long,
Họ tên không được rõ.
Riêng thạo ngón đàn Nguyễn Cầm
Người trong thành lấy chữ “Cầm” gọi tên nàng
Nàng học được khúc “Cung Phụng” trong cung vua triều trước.
Đó là khúc nhạc hay nhất tưởng chừng như từ trên trời đưa xuống trần gian.
Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần,
Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến
Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mốt,
Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào.
Má hồng men rượu, dáng ngây thơ, rất đáng yêu,
Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya.
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau.
Người nghe mê mệt không biết mỏi,
Đó là khúc nhạc trong đại điện Trung Hòa
.Các quan Tây Sơn trong tiệc thẩy đều nghiêng ngả,
Suốt đêm vui chơi không biết chán.
Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí hào hoa của họ lấn lướt cả bậc vương hầu,
Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể!
Tưởng đem ba mươi sáu cung xuân,
Tạo thành một vật báu vô giá của kinh đô Trường An.
Tiệc ấy nhớ lại đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi dời vào Nam.
Long Thành trong gang tấc, không được thấy lại,
Huống gì tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ vì tôi lại bầy cuộc mua vui,
Trong tiệc các cô đào hát thẩy đều trẻ.
Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm,
Nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ,
Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm.
Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa.
Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi
Tôi lắng nghe, lòng đau xót
Chợt nhớ lại chuyện hai mươi năm trước,
Từng gặp nàng trong tiệc bên hồ Giám.
Thành quách đổi dời, việc người đã khác,
Biết bao nơi ruộng dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi,
Chỉ còn sót lại một người ca múa!
Trăm năm như chớp mắt có là bao,
Đau lòng việc cũ lệ thấm áo.
Tôi từ Nam Hà trở về đầu bạc trắng hết,
Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai.
Đôi mắt mở trừng trừng luống tưởng chuyện ngày xưa,
Thương thay giáp mặt mà chẳng nhận ra nhau!



Chú thích:
(1) Nguyễn cầm: Cây đàn nguyệt. Đàn này do Nguyễn Hàm đời Tấn chế, nên gọi Nguyễn cầm.
(2) Nguyễn Du viết bài này năm 1813 và cho biết tiệc bên hồ Giám ( hồ trước nhà Giám , Văn Miếu, Hà Nội) hai mươi năm về trước, 1793. Năm ấy Nguyễn Du đến thăm anh là Nguyễn Đề lúc ấy làm quan với Tây Sơn.
(3) Tiến Phúc Bi: Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tây, chữ đẹp nổi tiếng. Đời Tống, Phạm Trọng Yêm làm Thứ Sử Nhiêu Châu, một hôm có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho dập một ngàn bản văn bia bán lấy tiền. Chưa dập xong thì một đêm kia bia bị sét đánh vỡ.
(4) Trang Tích: Xem chú thích ở bài My Trung Mạn Hứng, tập Thanh Hiên.
(5) Trung Hòa: Điện của Triều Lê ở Thăng Long.
(6) Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm đế vương đời Hán tại Trường An, nơi bọn quý tộc cư ngụ. Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu “Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu” (Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau gieo thưởng).
(7) Nha Tuyên Phủ: Tức Dinh Tổng Trấn Bắc Thành thời Nguyễn.
(8) Nam Hà: Phía nam sông Gianh.



Bài Ca Người Gẩy Đàn Ở Thành Thăng Long
(Làm Trên Đường Đi Sứ).


Tiểu dẫn:
Người gẩy đàn ấy không rõ tên họ là gì, chỉ nghe thủa nhỏ nàng đã theo học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn đều là những khúc gẩy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời.
Tôi, hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ Giám. Cạnh đấy các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát; con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng riêng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô số kể, chất đầy mặt đất.
Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, trán dô, mặt gẫy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nàng hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam, và từ đó không trở lại Thăng Long nữa.
Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Thăng Long, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên khúc đàn Cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỷ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá. Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gẩy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn nên làm bài ca để gửi mối cảm hứng.

(Theo Mai Quốc Liên, Nguyễn Du toàn tập)



Cố Nhân


Em kiều mị đào tơ sen ngó
Khắp Long Thành ai rõ tên em
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Tiếng đàn thay tiếng gọi riêng nàng Cầm
Triều xưa lảnh lót huyền âm
Cung xưa Phượng Khúc nhập tâm những ngày
Ngón đàn đệ nhất nhường ai
Lòng ta nhớ thủa trẻ trai năm nào
Giám hồ dạ tiệc đêm nao
Tuổi em mơn mởn hoa đào hoa lê
Má hồng men rượu đê mê
Năm cung một biến tràn trề đầu tay
Tiếng khoan gió thoảng rừng cây
Tiếng trong cánh hạc vương đầy quãng đêm
Tiếng ầm sét đánh bia nghiêng
Tiếng thương giọng Việt rỉ rên tuổi già
Càng nghe càng quẩn đường hoa
Dẫn về cõi nhạc Trung Hòa điện xưa
Tây Sơn thực khách tửu đồ
Nghiêng say suốt sáng chưa vừa cuộc vui
Đua nhau ngọc chiếc vàng đôi
Bạc tiền rẻ rúng đất trời vãi vung
Hào hoa vượt bực vương tôn
Ngũ Lăng chàng trẻ thôi còn kể chi
Cung xuân ăm ắp xuân thì
Kết tinh báu vật dâng về Trường An
Tiệc tàn kể hai mươi năm
Tây Sơn nghiệp tận miền Nam ta vào
Long Thành hun hút chiêm bao
Huống chi dạ vũ độ nào hoa hương
Phủ Tuyên hoan tống lên đường
Tiễn nhau tiệc rượu Bắc Phương sứ trình
Ca nhi muôn vẻ đẹp xinh
Tóc sương ai đó một mình chiếu xa
Võ vàng gầy guộc phôi pha
Mày thô má kệch nhạt nhòa phấn son
Đâu ngờ một thủa hoa thơm
Cố đô đệ nhất tay đờn cung vua
Khúc xưa điệu mới lệ mưa
Tai nghe lòng tưởng lòng như muối chà
Hai mươi năm thoảng trôi qua
Giám hồ tiệc cũ đôi ta tuổi hồng
Thành đô thế cuộc mịt mùng
Nương dâu phút chốc chập chùng biển xanh
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
Còn trơ lại một tài danh về chiều
Trăm năm chớp mắt bao nhiêu
Càng đau chuyện cũ càng nhiều lệ rơi
Biệt phương Nam tóc bạc rồi
Trách chi nhan sắc em tôi héo tàn
Mắt trừng dõi mộng vừa tan
Thương ôi người cũ tấc gang lạ lùng


96
Thăng Long (1)


I
Tản Lĩnh Lô Giang (2) tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành (3) một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung


II
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh


Thăng Long

I
Núi Tản sông Lô hằng năm vẫn thế,
Đầu bạc rồi còn được thấy Thăng Long.
Những ngôi nhà lớn nghìn xưa nay thành đường cái quan,
Một tòa thành mới xóa đi cung điện cũ.
Những cô gái xinh đẹp mà ta quen biết trước kia nay đã thành những bà mẹ ẵm con,
Những bạn trẻ hào hiệp cùng chơi với nhau nay đã thành bố cả rồi.
Suốt đêm bận lòng khổ tâm không ngủ được,
Tiếng sáo vẳng từng hồi trong ánh trăng sáng.

II
Mảnh trăng sáng ngày xưa chiếu xuống tòa thành mới,
Đây vẫn còn là Thăng Long kinh đô cũ
Đường phố mở khắp bốn bề làm lạc dấu vết cũ,
Tiếng đàn sáo nhất loạt thay đổi chen vào những âm điệu mới.
Giàu sang tự nghìn xưa chỉ để cung cấp cho sự tranh đoạt,
Bà con bạn bè thời trẻ nay kẻ mất người còn.
Việc đời nổi chìm, thôi đừng than thở,
Chính mình đầu cũng đã bạc lốm đốm


Chú thích:
(1) Bài này làm trên đường đi sứ qua Thăng Long 1813 nên xếp vào Bắc Hành. Nguyễn Du cũng chỉ xa Thăng Long khoảng mười năm, nhưng ông thấy dường như tất cả đều đã biến đổi, tất cả đều tàn lụi và buồn. Chỉ có một niềm vui chua chát:”Bạc đầu còn được thấy Thăng Long”.
(2) Tản Lĩnh: Núi Tản Viên.
Lô Giang: Sông Lô. Vào thời Lý Trần, sông Lô chỉ khúc sông Hồng.
(3) Tân thành: Thành mới. Gia Long năm thứ tư (1805) hạ lệnh phá thành Thăng Long cũ để xây một thành mới nhỏ hơn.


Thăng Long

I
Bạc đầu trở lại Thăng Long
Ngàn năm núi Tản soi dòng sông Lô
Cung Vua phủ Chúa ngày xưa
Thành cao lộ thẳng bây giờ đổi thay
Nàng thơ ẵm trẻ trên tay
Bạn thơ con cái đông đầy trước sau
Đêm dài thao thức đớn đau
Sáo khuya réo rắt cung sầu thổi trăng



II
Bâng khuâng cổ nguyệt tân thành
Còn soi muôn thủa bóng hình cố đô
Khuất chìm lối cũ đường xưa
Nhạc thiều trầm bổng tiếng mùa biển dâu
Giầu sang đua trước tranh sau
Thân bằng quá nửa kéo nhau lìa đời
Nín đi thân phận con người
Mái đầu sương sớm nhuộm rồi còn chi


97
Ngô Gia Đệ Cựu Ca Cơ (1)


Phồn hoa nhân vật loạn lai phi
Huyền hạc (2) quy lai kỷ cá tri
Hồng tụ (3) tằng văn ca uyển chuyển
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly
Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử
Khả liên do trước khứ thời y

Gặp Nàng Hầu Cũ Của Em

Nhân vật phồn hoa từ khi loạn lạc đã khác trước,
Chim hạc đen về chốn xưa mấy người biết.
Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi nàng mặc áo hồng,
Đầu bạc gặp nhau khóc nỗi lưu ly.
Thôi rồi, chậu nước đã đổ, khó mà thu lại được,
Thương ôi, ngó sen tuy gẫy, nhưng tơ vẫn chưa dứt.
Nghe nói nàng lấy người khác đã có ba con,
Đáng ái ngại là vẫn còn mặc chiếc áo ngày ra đi.

Chú thích:
(1) Nguyễn Du có một người em cùng mẹ là Nguyễn Ức (1767 – 1823), được tập ấm chức Hoàng Tín Đại Phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông về ở quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1811 dưới triều Gia Long được bổ Thiêm Sự bộ Công, tước hầu. Năm 1822 (Minh Mệnh) được bổ Giám Đốc coi việc ở Nội Tào Phủ, phàm các miếu điện xây ở kinh thành đều do ông thiết kế. Sau ông mất ở quê vợ năm 1823, thọ 57 tuổi.
(2) Huyền hạc: Hạc đen. Hạc sống 1000 tuổi, lông đổi sắc xanh; 2000 tuổi đổi sắc đen gọi là huyền hạc. Điển Đinh Linh Uy hóa làm chim hạc, đỗ trên cột hoa biểu than: “Có con chim tên là Đinh Linh Uy, đã ba ngàn năm mới trở về”. Ý câu thơ nói: Mình như con chim hạc đen xa Thăng Long lâu, nay mới trở lại.
(3) Hồng tụ: Tay áo mầu hồng, chỉ áo đào nương thường mặc.


Gặp Em Dâu Cũ


Khách phồn hoa thủa loạn ly
Ngó phong cách quả khác đi ít nhiều
Hạc xưa về lại trời yêu
Hạc tìm chốn cũ chẳng nhiều người hay
Từng nghe giọng mật ngọt này
Lời ca uyên ảo rộng tay áo hồng
Bạc đầu ta lại trùng phùng
Khóc cho nhau nỗi đường cùng thảm thê
Thôi rồi chén nước đổ đi
Gom sao lại được thôi thì đành thôi
Ngó sen lìa ngó sen rồi
Mà tơ vương vấn ngậm ngùi vấn vương
Theo chồng nay đã ba con
Ngày đi mầu áo lên đường chưa phai


98
Giáp Thành (1) Mã Phục Ba Miếu


Lục thập lão nhân cân lực suy
Cứ an bị giáp tật như phi (2)
Điện đình chỉ bác quân vương tiếu (3)
Hương lý ninh tri huynh đệ bi (4)
Đồng trụ cận năng khi Việt Nữ (5)
Châu xa tất cánh lụy gia nhi (6)
Tính danh hợp thướng Vân Đài họa (7)
Do hướng Nam trung sách tuế thì (8)

Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành

Người già sáu mươi tuổi thì gân sức suy,
Mà ông mặc áo giáp nhẩy lên yên nhanh như bay.
Chỉ chuốc được nụ cười nhà vua ở sân điện,
Đâu biết nỗi buồn của anh em ở xóm làng.
Cột đồng trụ chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt,
Xe ngọc châu rốt cuộc làm lụy con cái trong nhà.
Họ tên chỉ đáng được ghi ở gác Vân Đài,
Sao còn ngoảnh về nước Nam đòi hỏi việc cúng tế hàng năm?



Chú thích:
(1) Giáp thành: Thành Kép, chỉ thành lũy ở khoảng Giáp Đông thuộc châu Lạng Giang ở phía nam ải Chi Lăng. Địa điểm quân sự quan trọng ở miền này phải là ở khoảng Kép ngày nay. Kép, Giáp và Giáp là phe giáp là đồng âm. Nếu ở đây có đền thờ Mã Viện (Phục Ba tướng quân) thì là do người đời sau tưởng lầm rằng Mã Viện đã tiến quân theo đường Lạng Sơn.
(2) Mã Viện đã ngoài 60 tuổi, mà còn xin đi đánh dẹp ở Man Động Ngũ Khê tỉnh Hồ Nam.
(3) Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhẩy ngựa tỏ mình còn khỏe. Vua cười khen: “Quắc thước tai thị ông!” (Ông này quắc thước lắm!).
(4) Em họ của Mã Viện là Thiếu Du đã từng nói với ông ta rằng:”Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, làm người tốt trong làng mà giữ mồ mả vườn tược, không cần phải vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân, ngoài cơm áo ra là thừa cả.
(5) Truyền thuyết nói rằng Mã Viện dẹp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thì dựng cột đồng để đánh dấu cương giới và ghi rằng nếu cột đồng này gẫy thì Giao Chỉ sẽ diệt vong.
(6) Mã Viện ở Giao Chỉ hay ăn hạt ý dĩ (bo bo) để chống chướng khí, khi trở về nước có chở về một xe ý dĩ để dùng. Người ta đồn đó là hạt trai (châu) ở phương Nam. Sau khi Mã Viện chết có người tố cáo là Viện đã chở về nhà một xe hạt trai. Vua Hán nổi giận. Vợ con Viện phải chôn cất ông ở phía tây thành chỗ Mã Viện đang đóng quân ở Hồ Nam, không dám đem xác về.
(7) Hán Quang Vũ cho vẽ hình 28 công thần ở Vân Đài, Vì Mã Viện có con gái làm Hoàng Hậu nên vua không cho vẽ tượng Mã Viện Để tránh tiếng.
(8) Sau khi Mã Viện chết, bọn quan lại Trung Quốc cai trị nước ta bắt nhân dân ta lập đền thờ hắn nhiều nơi. Câu này chỉ Mã Viện chết rồi mà còn muốn bòn cúng tế của nhân dân phuơng Nam.


Miếu Mã Viện Ở Giáp Thành


Sáu mươi thể lực suy rồi
Lên yên mặc giáp vút trời tên bay
Vua cười quắc thước kém ai
Xót em quê cũ đêm ngày nhớ thương
Cột đồng lòe gái Nam Phương
Hạt trai để lụy cho phường hậu sinh
Đài Mây đáng mặt vẽ hình
Sao đòi dân Việt cúng mình xuân thu


99
Quỷ Môn Quan (1)


Liên phong cao sáp nhập thanh vân
Nam Bắc quan đầu tựu thử phân
Như thử hữu danh sinh tử địa
Khả liên vô số khứ lai nhân
Tắc đồ tùng mãng tang xà hổ
Bố dã yên lam tụ quỷ thần
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt
Kỳ công hà thủ Hán Tướng Quân (2)

Ải Quỷ Môn

Núi liền nhau đỉnh cao vút tận mây xanh,
Đầu cửa ải này là nơi phân ranh giới Nam Bắc.
Nơi đây có tiếng là đất hiểm nguy,
Đáng thương cho vô số người đã từng qua lại.
Bụi rậm lấp đường, rắn cọp ẩn nấp,
Khí lam chướng đầy đồng, quỷ thần tụ tập.
Suốt từ xưa nay gió lạnh thổi vào xương trắng,
Tướng nhà Hán lấy gì để được tiếng kỳ công?

Chú thích:
(1) Quỷ Môn Quan: Ải thuộc tỉnh Lạng Sơn. Xem thêm chú thích ở bài Quỷ Môn Đạo Trung, Thanh Hiên thi tập.
(2) Hán Tướng Quân: Chỉ Mã Viện. Xưa nay, theo sử sách Trung Quốc, chiến công của Mã Viện đánh Giao Chỉ là “Kỳ công”. Nhưng Nguyễn Du cho rằng rốt lại chỉ còn có “Gió lạnh thổi vào xương trắng” nơi chiến trường xưa, thì có gì là “Kỳ công”.


Quỷ Môn Quan


Núi liền núi ngọn tiếp mây
Bắc nam cương giới là đây ải đầu
Tiếng đồn hiểm địa từ lâu
Đáng thương bao kẻ dãi dầu vãng lai
Lấp đường bờ bụi chông gai
Cọp beo rắn rết nhắc ai coi chừng
Lam sơn chướng khí đầy đồng
Quỷ thần tụ tập mịt mùng suối khe
Xương khô gió lạnh thổi về
Thưa rằng Hán Tướng công kỳ nơi nao


Kim Trong gap Thuy Kieu - Hong Oanh

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.