Apr 19, 2024

Trường thiên song thất lục bát

Ðại Việt Sử Thi 1 - 7
Hồ Ðắc Duy * đăng lúc 01:08:43 PM, Jan 18, 2015 * Số lần xem: 4748
Hình ảnh
#1

ÐẠI VIỆT SỬ THI
     Hồ Đắc Duy  



Ðại Việt Sử Thi 8 & 9 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử Thi 26 - 30 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử Thi 20 - 23 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử Thi 24 & 25 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử Thi 16 - 19 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử THi 12 - 15 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008
Ðại Việt Sử Thi 10 & 11 - Trường thiên song thất lục bát - Jun 24, 2008

    
 

 

QUYỂN I
CHƯƠNG MỞ ÐẦU

Dân tộc ta từ ngày dựng nước
Giòng sử thiêng đã được viết ra
Hằng nghìn năm trước trôi qua
Ðất đây đã có quốc gia Việt Thường

THỜI ÐẠI HỒNG BÀNG
(2879 - 257 TCN)

Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
Cháu : Ðế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên

KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ

Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
Ðặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng

Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
Ðất nước dài một giải mênh mông
Kết hôn con gái Thần Long
Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia

LẠC LONG QUÂN

Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
Bà sinh một bọc trứng ngà
Một trăm trứng nở thành ra trăm người

Ði theo cha, năm mươi về tới
Bỏ núi rừng ra mãi Biển Ðông
Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
Như rừng với biển khó lòng cùng nhau

HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG

Mãi về sau, Long Quân chọn được
Ðất Phong Châu khí vượng kinh đô
Văn Lang lập quốc bấy giờ
Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra

Nước Văn Lang, nhìn ra Ðông Hải
Ðộng Ðình Hồ ở mãi Bắc phương
Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm


Chia đất nước ra làm mấy bộ
Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền

Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Ðức
Miềạn Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
Ngoài xa Lục Hải mấy thành
Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài

Người Bách Việt chen vai sát cánh
Sống quây quần bên nhánh sông Lô
Ðất, rừng trù phú trời cho
Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung

Nền Văn Hóa Ðông Sơn rực rỡ
Chế Trống Ðồng dùng ở khắp nơi
Khai sinh tục vẽ trên người
Xâm mình để tránh các loài dưới sông

Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
Phù Ðổng hương có cậu con trai
Lên ba chẳng nói chẳng cười
Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô

Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
Xin đúc ngựa sắt roi thần
Ðể làm vũ khí đánh quân bạo tàn

Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
Xong quay về đến đất Sóc Sơn
Áo nhung bỏ lại bên đường
Dấu chân Phù Ðổng Thiên Vương nay còn

Ðời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
Mở đầu hai nước bang giao
Chu công đáp lại , xe trao đưa về

Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
Vua Hùng hỏi ý quần thần
Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ

Việc hôn nhân chẳng qua là tính
Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
Vua Hùng đã biết ý gian
Lựa lời từ chối Thục Vương việc này

Lại treo bảng kén tài phò mã
Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm

Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
Ra oai thần mưa trút nước dâng
Thục Vương xấu hổ còn hơn
Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù


THỜI ÐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC

Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
Tự xưng hiệu An Dương Vương
Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê

Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
Ðổi ra thành Âu Lạc từ đây
Tính theo năm tháng đến rày
Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng

Ðời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
Tính ra là mười tám Hùng Vương
Trải bao điền hải tang thương
Ðến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình

Chọn được chỗ lương điền đất tốt
Vua cho người động thổ khởi công
Cổ Loa thành gọi Tư Long
Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài

Thành Tư Long xây hoài chẳng được
Thần Kim Quy bày chước trừ ma
Dặn rằng dù có can qua
Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người


Cổ Loa thành bời bời dũng khí
Tường thì cao, hào rộng lại sâu
Giang sơn Vua Thục từ sau
Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa

Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
Triệu Ðà giữ trấn Long Xuyên
Phía Nam Thiên Ðức thuộc quyền Thục Vương

Ðất Nam phương lăm le muốn lấy
Ðã mấy lần thất bại mưu sâu
Sai con Trọng Thủy sang hầu
Làm quan Túc Vệ, bắc cầu thông gia

Chàng Trọng Thủy nghe cha đánh cắp
Lấy nỏ thần bẻ gập làm đôi
Âm thầm để tạm một nơi
Ðánh lừa vua Thục và người chung quanh

Cuộc chiến tranh về sau xảy đến
Cứ tưởng rằng nỏ vẫn chỗ xưa
Ðến khi lâm trận nhà vua
Mới hay kẻ cắp đã đưa đi rồi

Giặc đuổi gấp, bén sau chân ngựa
Tới đường cùng núi Dạ chắn ngang
Thục Vương ngửa mặt mà than
“Nỏ thần vô dụng, Rùa thần cứu ta”

Rùa hiện ra, nhìn vua rối gắt :
“Kẻ ngồi sau là giặc biết không ?”
Mị Châu tình đã nặng lòng
Rắc đường lông ngỗng để chồng tìm theo

Vua quay lại, chém vèo một nhát
Nàng đã ra cái xác không hồn
Từ đây triều Thục mất luôn
Năm mươi năm chẵn chỉ còn vết lông (257-208TCN)

Ðất Phiên Ngung vốn giòng Chân Ðịnh
Vua Triệu Ðà thôn tính Lĩnh Nam
Là người quỷ quyệt, mưu thâm
Ðã từng hỏi thử : “Ta bằng Lưu Bang ?”


THỜI ÐẠI NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN)
ÂU LẠC TRIỆU ÐÀ (VŨ ÐẾ) 207 - 137 TCN
ở ngôi 71 năm

Nam Việt Vương Triệu Ðà xưng đế (207TCN)
Năm Mậu Ngọ làm lễ lên ngôi
Giang sơn hùng cứ một thời
Cất quân chiếm lấy đất ngoài Trường Sa

Ðánh Ngô Nhuế chạy xa khỏi đảo
Nơi biên thùy tiến thảo viễn chinh
Quyền uy riêng một triều đình
Dùng cờ Tả đạo xưng quyền đế quân

Triệu Vũ Ðế thâu dần đất nước
Ở phía Nam tới được Việt Thường
Bắc Phương thì đến biên cương
Cùng người Trung Quốc vạch đường phân ranh

Hán Văn Ðế trị bình cường thịnh (179 TCN)
Sai người vào Chân Ðịnh tìm ra
Mộ phần, gia tộc Triệu Ðà
Sửa sang miếu mạo mấy tòa cung lăng

Kể từ đó, hai phương giao hảo
Hán và Ðế xếp giáo lui binh
Bàng dân thiên hạ yên tình
Nước nhà thịnh trị thanh bình cả hai


VĂN VƯƠNG (137 - 125 TCN)
ở ngôi 12 năm

Cháu là Hồ, con trai Trọng Thủy
Nối ngôi vua, Vũ Ðế trao cho
Văn Vương học đạo Thuấn Nghiêu
Lấy nhân lễ nghĩa làm điều trị dân

Mân Việt Vương cho quân xâm lấn
Nam Việt xưa thuộc Hán từ lâu
Kiến Nguyên sai tướng vào chầu
Giúp giùm Nam Việt, kết nhau lúc này


Lời giao ước chung tay chống giặc
Giữa hai miền Nam Việt - Trung Hoa
Nếu khi gặp việc can qua
Thì cùng hợp sức để mà cứu nhau

Vì Văn Vương ơn sâu cầu cạnh
Cho nên Vua bàn tính thiệt hơn
Sai người sắm sưả đưa con
Ðem qua nhà Hán để làm con tin

Triệu Văn Vương ngồi trên gần được
Mười hai năm nối nghiệp Triệu Ðà (137 - 125 TCN)
Anh Tề lúc trước cho qua
Nay quay trở lại thay cha trị vì


MINH VƯƠNG 125 - 113 TCN)
ở ngôi 12 năm

Mới vừa về, lên ngôi Thiên tử (124 TCN)
Triệu Minh Vương đã phụ lòng tin
Bỏ trưởng, lập thứ lòng riêng
Phong Cù Hoàng hậu gây thêm bất hòa

Mất kỷ cương quốc gia phân hóa
Phép nước suy mối họa gần bên
Vợ thì dâm loạn chuyên quyền (112 TCN)
Con còn bé bỏng đưa lên trị vì


Hán Nguyên Ðỉnh tính bề xâm lược
Sai Ngụy Thần dùng chước gián ly
Khi dụ dỗ, lúc răn đe
Khuyên vua phiên thuộc theo về Bắc Phương


AI VƯƠNG (113 - 112 TCN)
ở ngôi 1 năm

Triệu Ai Vương sức hèn tuổi trẻ
Thái hậu là một kẻ trăng hoa
Giữa triều Tể Tướng Lữ Gia
Vì dân can gián nhưng bà chẳng nghe

THUẬT DƯƠNG VƯƠNG (112 - 111 TCN)
ở ngôi 1 năm

Lữ Gia vì nước nhà họ Triệu
Vung thước gươm kết liễu Ai Vương
Lập con trưởng của Minh Vương
Tên là Kiến Ðức, Thuật Dương Vương hầu

Không bao lâu, biết vua bị giết
Nguyên Ðỉnh bèn thừa dịp ra tay
Phiên Ngung sắp đặt mấy ngày
Mùa Ðông Canh Ngọ bao vây thành trì (111 TCN)


THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ TÂY HÁN
(110 - 39 SCN)

Nước suy vi, dân tình ta thán
Tổ quốc chừ quân Hán cướp đi
Ðất phân chín quận , giặc chia
Ðặt quan cai quản, sau khi giết người

Ðất Lĩnh Nam từ thời lập quốc
Ðến bây giờ lại mất vào tay
Nước ta Bắc thuộc từ rày (110 TCN)
Giặc gây thảm cảnh đọa đày nhân dân

Ðặt đất Nam làm đô hộ phủ
Thạch Ðái là thứ sử Giao Châu
Tích Quang văn hóa thâm sâu
Tiếp theo Tô Ðịnh tham giàu bạo quan (110 TCN - 39)

Ở Giao Chỉ người dân còn nhớ
Công của người Thái Thú Nhâm Diên
Dạy ta cày cấy canh điền
Tỏ lòng tưởng niệm lập đền khói nhang

Thời Tây Hán lầm than khốn đốn
Suốt thời gian trăm bốn chín năm (149)
Bao nhiêu uất hận hờn căm
Thêm tên Tô Ðịnh tham tàn hại dân


THỜI ÐẠI TRƯNG NỮ VƯƠNG - TRƯNG VƯƠNG 40 - 43 ở ngôi 3 năm

Hai Bà Trưng con quan Lạc tướng
Quê Phong Châu thuộc huyện Mê Linh
Trưng Trắc đến tuổi trưởng thành
Cùng chàng Thi Sách, kết tình phu thê

Thù Tô Ðịnh lắm bề hà khắc
Lại giết chàng Thi Sách tướng quân
Tham tàn một lũ bất nhân
Ðọa đày thiên hạ muôn phần đớn đau

Thù Tô Ðịnh không sao kể xiết
Cùng với em thề quyết một lòng
Nam nhi đánh với quần hồng
Ðể coi nhi nữ vẫy vùng thử xem

Bà Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị
Phất cờ đào quyết chí trừ gian
Thù chồng không trả nào cam
Nước còn nô lệ chẳng kham lao tù

Vua nhà Hán, khởi từ năm Sửu (41)
Cho Phục Ba sang cứu Phong Châu
Lưu Long, Phù Lạc phong hầu
Ðặt làm phó tướng dẫn đầu tiến binh

Ở Mê Linh, cùng dân cả nước
Ðể sẵn sàng chặn bước xâm lăng
Cửu Châu , Hợp Phố , Nhật Nam
Thanh Trì , Nam Hải , Lĩnh Nam theo về

Lệnh phát đi, đánh nhanh rút gọn
Dụ giặc vào chia mỏng địch quân
Kẻ thù như nước đang dâng
Ào ào tiến đến đã gần Tây Nhai

Trước thế giặc như loài lang sói
Sợ quân mình khó nổi đánh nhau
Vua bà ra lệnh lùi sâu
Vào vùng cứ địa, đào hào cắm chông

Trận khởi đầu giết xong Hàn Vũ
Giết tên này ở chỗ Tây Nhai
Trăm quân giặc chết trận này
Khiến cho Mã Viện phải thay ý đồ

Vượt sông Hồng thừa cơ đánh úp
Lịnh Hai Bà : Tạm chớ giao tranh
Bảo toàn lực lượng để dành
Cấm Khê đợi lịnh, đánh nhanh bất kỳ

Giặc biết ý cho đi từng đội
Lấn chiếm dần không vội ra quân
Binh ta đánh chậm, cầm chân
Ðiều quân đại chiến ở gần Hát Giang

Dưới lọng vàng, trên đầu voi chiến
Bóng hai bà ẩn hiện trong sương
Cờ đào phấp phới hiên ngang
Quần thoa nhi nữ mỡ đường tiến quân

Sau một trận giao tranh ác liệt
Sa cơ đành tuẫn tiết hy sinh
Hát Giang nước biếc gieo mình
Ơn đền nợ nước, tình riêng với chồng

Hai Bà Trưng một lòng với nước
Vì cơ đồ vị quốc vong thân
Trăm năm nước chảy đá mòn
Vẫn còn in lại dấu chân vua Bà

Năm Quý Mão hai bà tuẫn tiết
Trước mười năm ở tít Trung Ðông (43)
Chiên con là chúa Hài Ðồng
Chết trên thánh giá vì lòng độ nhân

Rút về Nam, Ðô Dương vào núi
Cố tìm đường đánh đuổi Hán quân
Nghĩa binh Chu Bá theo chân
Mấy năm kháng chiến yếu dần tiêu hao

“Cột Ðồng gãy thì Giao Châu diệt”
Là lời thề tướng giặc ghi đây
Phục Ba đúc, dựng cột này
Cổ Lâm dấu tích đến nay khó tìm


THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG HÁN
(43 -226)

Quân Ðông Hán gọng kềm siết chặt
Trị dân Nam mặc sức giam cầm
Tha hồ vơ vét, tham lam
Cướp theo của cải bạc vàng mang đi

Những Thái Thú người Di, người Hán
Rất nhiều tên tán tận lương tâm
Làm quan đâu được vài năm
Vén thu lông trĩ, kỳ nam đem về

Năm Canh Tuất (190) Man Di Nam Chiếu
Quy tụ người ở đạo Nhật Nam
Cũng như dân ở Tượng Lâm
Lập nên nước mới là Chàm hiện nay

Nước Lâm Ấp tôn ngay thủ lĩnh
Là Khu Liên thống lĩnh toàn dân
Về sau đổi lại Hoàng Vương
Ðất đai khai phá mở mang xuống dần

Hán Trung Bình vào năm Giáp Tý (184)
Giao Lý Tiến quản lý Giao Châu
Rồi sai Sĩ Nhiếp về sau
Phong chức Thái Thú cầm đầu từ đây


THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG NGÔ 226 - 280

Sĩ Nhiếp người Vấn Dương, nước Lỗ
Cuối năm Dần đầu với Ngô Vương
Tôn Quyền cho gửi thư sang
Giữ nguyên chức tước, phong hàm Tướng Quân

Quân xâm lược dần dần áp đặt
Lấy luật Tàu ép bắt dân ta
Ðổi thay phong tục đã qua
Lâu ngày đồng hóa, dần dà diệt luôn

Năm Bính Dần nữ vương Triệu Ẩu (246)
Dấy dân quân chiến đấu diệt Ngô
Núi Nưa tụ nghĩa dựng cờ
Giết viên thứ sử nhà Ngô đương thời


THỜI ÐẠI TRIỆU THỊ TRINH
248 - 248 ở ngôi 1 năm

Triệu Thị Trinh là người nhan sắc
Cùng anh là Quốc Ðạt cầm quân
Lệnh Bà sức khỏe đang xuân
Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn


Trong Núi Nưa, nuôi quân dạy tướng
Cờ mao dùng khiển tướng điều binh
Khiến cho giặc phải rùng mình
Tôn Quyền biệt phái sai Hành Dương sang

Triệu Trinh nương linh hồn chiến đấu
Trước ba quân tả hữu giáp vàng
Dân tôn “Lệ Hải Bà Vương”
Tên Bà nghe đến kinh hoàng giặc Ngô

Chúa Ðông Ngô mưu mô quỷ quyệt
Nhưng lệnh bà quyết diệt ngoại bang
Ðánh cho Lục Dận kinh hoàng
Ðánh cho quân giặc hết đường rút lui

Ðất Mỹ Hóa là nơi tử chiến
Giặc xếp hàng Phú Ðiếu chôn thây
Ngô vương chiến thuật đổi ngay
Dằng dai phản kích đêm ngày cầm chân

Lũ Giặc Ngô lâu dần trụ vững
Chiếm từ từ dân chúng chung quanh
Bà Triệu rút bỏ khỏi thành
Nghĩa quân kiệt sức nên đành bại vong (248)

Dòng sông Lương binh không thấy bóng
Dáng Nhụy Kiều nữ tướng năm nao
Phất phơ một ngọn cờ đào
Sơn hà phút chốc lọt vào ngoại bang

QUYỂN HAI

THỜI ÐẠI BẮC THUỘC 227 - 540
NHÀ NGÔ - TẤN, TỐNG TỀ LƯƠNG

Ðất Giao Châu tách làm hai phía (264)
Phần phương Nam Giao Chỉ đặt tên
Tấn - Ngô , nhị quốc tranh quyền
Ðất vùng thuộc địa rối ren tơi bời

Lúc Ðông Ngô, lúc đời nhà Tấn
Lũ cầm quyền, tán tận lương tâm
Dân ta đói rách lầm than
Dưới ách nô lệ ngoại bang bấy giờ

Ông Ðào Hoàng phong cho hầu tước
Khi Tấn triều cướp được Giao Châu (271)
Cầm quyền cũng được khá lâu
Bốn đời thứ sử nối nhau kế thừa

Quân xâm lược dù Ngô hay Tấn
Tống Lương Tề cũng vẫn ác ôn
Ngày càng bóc lột nhiều hơn
Thu gom của cải để làm của riêng

Bọn quan lại tranh quyền giành chức
Giết lẫn nhau cưỡng bức nhân dân
Như tên Lương Thạc, Lư Tuần (322)
Như tên Lý Tốn, Trường Nhân bấy giờ (380)

Phạm Hồ Ðạt làm vua Lâm Ấp (399)
Cất quân vào đánh đất Nhật Nam
Tràn qua tiến chiếm Cửu Chân
Giao Châu thôn tính bàn hoàn Tấn Vương (413)

Hai năm sau Hoàn Vương đánh tiếp (415)
Vào Giao Châu cướp giết dã man
Bắt theo vô số dân thường
Ðem về Phật Thệ để làm tù binh

Chúng đốt thành phá tan nhà cửa
Hủy kho tàng phóng lửa đốt dinh
Cửu Chân thiên hạ rùng mình
Dã man tàn bạo, dân lành ngả nghiêng

Viên thứ sử đương quyền tráo trở
Dụ Hoàng Vương vào chỗ nghi binh
Ra tay tốc chiến thình lình
Giết ngay Hồ Ðạt đuổi binh khỏi thành

Phạm Dương Mại nhân danh Lâm Aãp (432)
Xin cai quản phần đất Giao Châu
Tống vương xuống chiếu phê vào
Rằng không chấp thuận yêu cầu của y

Năm Bính Tý (436) Hòa Chi khởi đánh
Giết Phù Long tướng lãnh Chiêm Thành
Tấn công tiến chiếm thật nhanh
Tiến vào Tượng Phố là kinh đô Chàm

Ở Nhật Nam giặc không quấy rối
Thời Hoàng Vương suy thoái dần dần
Lâm Aãp, Nam Chiếu là dân
Không còn đáng sợ như lần trước đây

Bọn quan lại lũ người gian ác
Lo làm giàu đi cướp của dân
Như tên Lưu Bột , Trường Nhân
Như là Lưu Khải tham quan đương quyền

Bọn Phương Bắc triền miên cướp bóc
Hại dân lành xúi dục man di
Ðiêu tàn non nước suy vi
Long dân mong ngóng những vì cứu tinh


NHÀ TIỀN LÝ (541 - 547)
LÝ NAM ÐẾ ở ngôi 7 năm

Ở Thái Bình tháng hai Tân Dậu (541)
Có một người hiểu thấu lòng dân
Ðó là Lý Bí tướng quân
Gióng cờ tống cổ giặc Lương bạo tàn

Ðặt quốc hiệu Vạn Xuân cho nước (544)
Dời đô về ở trước Long Biên
Người xưng Nam Ðế nguyên niên
Xây cung Vạn Thọ đặt nền móng cho...

Ðất Việt Thường cũng từ dạo đó
Có vương triều (544) phủ bộ trăm quan
Ðặt ra tướng võ, tướng văn
Ðịnh thêm luật lệ để ngăn lạm quyền

Cho Triệu Túc được làm Thái phó
Lấy Tinh Thiều vào chỗ tướng Văn
Phạm Tu đã có công ngăn
Giặc người Lâm Ấp, võ quan uy quyền

Nhà Lương sai Bá Tiên tư mã
Làm tiên phong đánh trả Giao Châu
Chu Diên, vua đánh phủ đầu
Dằng dai chống cự, năm sau vỡ thành (545)

Trận Gia Ninh , trận sông Tô Lịch
Cả hai bên truy kích lẫn nhau
Ðịch dùng mưu kế đánh mau
Lệnh vua cho rút ngỏ hầu dưỡng quân

Ðất Khuất Lạo, Tân Xương đóng tạm
Quân số còn hai vạn binh nguyên
Lại thêm ngàn lẻ ghe thuyền
Bổ sung binh lính dành riêng dự phòng

Hồ Ðiễn Triệt dàn quân phục kích
Ðánh cầm chân đợi địch hết lương
Nhằm khi chúng sắp cùng đường
Tốc thần vua sẽ đánh tràn một phen

Trần Bá Tiên, tướng quân của giặc
Khích quân mình đánh thật cho hay
Thời cơ nay đã đến tay
Lúc đầm ngập nước đánh ngay tức thì

Quân ta vỡ, rút về Khuất Lạo
Ðể sửa binh, gươm giáo quân lương
Tổ chức quân ngũ đàng hoàng
Chọn thêm tướng giỏi, bổ sung nhân tài

Vua cho vời Triệu Quang Phục đến (546)
Trao cho người ấn triện thay vua
Dân quân đất nước đang chờ
Dặn người giữ vũng cơ đồ cha ông

Triệu Quang Phục anh hùng dũng liệt
Ðiều khiển quân hiểu biết mọi đàn
Thế vua, ông nhận ngai vàng
Sửa sang binh mã chọn đường ra tay


THỜI ÐẠI TRIỆU VIỆT VƯƠNG -
TRIỆU QUANG PHỤC (548 - 570)
ở ngôi 30 năm

Triệu Việt Vương lên thay Nam Ðế
Ðất Vũ Ninh được kể lắm người
Anh hùng hào kiệt khắp nơi
Tụ về dưới trướng chen vai diệt thù
Ðầm Dạ Trạch ở Chu Diên huyện
Chọn gò cao huấn luyện dân binh
Bùn lầy bụi rậm vây quanh
Um tùm cây cỏ rừng xanh bạt ngàn

Dạ Trạch Vương đánh tan tướng giặc
Là Dương Sàn lấy đất Giao Châu
Năm trăm năm , lệ thuộc Tàu
Từ đây độc lập, nêu cao ngọn cờ

Kể từ giờ dân yên nước mạnh
Vùng cư dân ở cạnh Long Biên
Ðược mùa thóc lúa nhiều thêm
Diệt tan xâm lược chưa yên nội tình

Lý Thiên Bảo là anh Nam Ðế
Cùng một người họ Lý bôn ba
Trong khi giặc mới tràn qua
Vào đất Di Lạc xưng là Ðào Lang

Ðào Lang vương sau khi tạ thế
Lý Phật Tử kế vị chúa công
Tử xua quân xuống miền Ðông
Giành nhau với Triệu Việt Vương đất này

Tử là tay gian manh quỷ quyệt
Ðã năm lần chỉ biết thua đau
Nay dùng chước quỷ mưu sâu
Tìm ra diệu kế dắt nhau trá hàng

Xin cho con Nhã Lang gởi rể
Cài vào nhà để dễ đoạt ngôi
Việt Vương vốn tính thương người
Vô tình để hắn vào nơi thăm dò

Triệu Quang Phục chẳng lo chú ý (570)
Bị Phật Tử tìm kế giết đi
Cảo Nương vì quá đam mê
Nên cha phải chết bởi nghe lời chồng

HẬU LÝ NAM ÐẾ (571 - 602)
ở ngôi 32 năm

Lý Phật Tử tiếm xưng Nam Ðế
Lấy họ xưa là để lừa dân
Ô Diên, đô đóng mấy năm
Sau dời đô đến ở gần Phong Châu

Năm Nhâm Tuất vua Tàu sai tướng (602)
Là Lưu Phương Tổng Quản Quân Doanh
Ðưa quân uy hiếp kinh thành
Phật Tử quá sợ, trói mình hàng ngay

Tướng nhà Tùy cho người áp giải
Ðưa vua về giam tại Bắc Kinh
Nước ta nay lại trở thành
Là đất thuộc địa dưới quyền ngoại bang


THỜI ÐẠI BẮC THUỘC
NHÀ TÙY ÐƯỜNG (603 - 938)

Ðất Việt Thường , vào tròng lệ thuộc (603)
Quân Tùy Ðường lần lượt kéo sang
Dưới giày xâm lược ngoại bang
Nước non xơ xác hoang tàn thảm thương

Bọn Bắc phương đánh hơi thấy lửa
Nghe Lâm Aãp vàng quả thật nhiều
Lưu Phương được phái đem theo
Quân hơn một vạn vượt đèo đánh sang

Vua Phạm Chí chận đường đánh trả
Quân nhà Tùy bèn giả chạy thua
Ðột nhiên quay lại đánh vào
Trung quân phản kích làm vua chạy dài

Nhà Tùy mất, Ðường sai Ðạo Hựu
Sang Giao Châu phủ dụ Khâm Hòa
Là người khét tiếng điêu ngoa
Khâm Hòa Thái Thú xin qua chầu hầu (618)

Y cướp bóc trân châu ngọc quý
Khi về Tàu, làm lễ dâng lên
Ðịa đồ, sổ bộ tịch điền
Của dân Nam Việt không quên một vùng


Ðường Thái Tông đổi tên thành Phủ (622)
Xứ Việt Thường xưa gọi Giao Châu
Nay thì được gọi như sau
An Nam Ðộ Hộ thuộc Tàu từ đây


LÝ TỰ TIÊN ( 687 )

Quan cai trị mặc tay vơ vét
Của trong dân thu hết làm riêng
Có người tên Lý Tự Tiên
Hưng binh khởi nghĩa đứng lên diệt thù (687)

Vì lực ít, khó cơ chiến thắng
Bị giặc Tàu vây hãm đó đây
Về sau bị bắt, lưu đày
Quân tan, binh vỡ tiếc thay anh hùng

ÐINH KIẾN ( 687 )

Tướng của người là ông Ðinh Kiến (687)
Gom tàm quân quyết chiến tới cùng
Ðánh thành vây phủ tấn công
Giết tên Ðô hộ dẹp xong lũ này

Vua nhà Ðường cử ngay Tư mã
Tào Trực Tỉnh qua ngã Quế Châu
Phục binh giết Kiến trả thù
Cho tên Ðô Hộ bấy giờ tham lam

MAI HẮC ÐẾ (722)

Mấy trăm năm , mấy đời Bắc thuộc
Toàn dân ta trói buộc triền miên
Bọn quan nha lại đương quyền
Làm điều thất đức đảo điên lòng người

Khắp mọi nơi dân tình ta thán
Mong có người báo hận cho dân
May thay có bậc thánh nhân
Quê làng Mai Phụ, Thúc Loan tên ngài

Cả toàn dân đến nơi Can Lộc (713)
Một lòng trừ ngoại tộc Bắc Phương
Thề nay đánh đuổi giặc Ðường
Trừ quân xâm lược nhiễu nhương giống nòi

Năm Quý Sửu lên ngôi Cửu Ngũ (713)
Ngài là người đất cũ Hoan Châu
Thu về đất nước đã lâu
Bị Tàu đô hộ cất đầu không lên

Năm Giáp Dần (714) đuổi tên Ðô Hộ
Là Sở Khách ra khỏi Giao Châu
Từ đây sạch bóng quân thù
Toàn dâm mỡ hội khởi đầu kỷ nguyên

32 châu thu liền một mối
Một Vương quyền phục vụ cho dân
Ngoại giao các nước ở gần
Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân để cùng

Lập thế chung : Tìm đường giữ nước
Khai sinh ra chiến lược liên hoàn
Họp cùng các nước lân bang
Tạo thành sức mạnh sẵn sàng đấu tranh

Bốn mươi vạn dân binh các nước
Làm kinh hồn lũ cướp Bắc phương
Mười năm ròng rã vua Ðường
Vạch xong kế hoạch lên đường xuất quân

Dương Tư Húc làm quan Vệ Tướng (722)
Tiến quân vào theo hướng Phục Ba
Húc theo đường cũ đi qua
Từ Khâm Châu đến chỉ vừa một đêm

Trong thoáng chốc đã lềnh quân giặc
Ùa vào theo lối tắt đường sông
Quân ta bối rối vô cùng
Những nơi xung yếu lọt vòng bao vây

Mai Hắc Ðế rời ngay khỏi phủ
Rút vào rừng đánh trả địch quân
Binh lương , khí giới hao dần
Quân cùng lực cạn mười phần còn hai

Nước độc lập đã mười năm chẵn (712 - 722)
Ngài mất rồi nhưng vẫn còn đây.
Tiếc thuong không nói nên lời
Ðền Mai Hắc Ðế nơi người mệnh chung


BỐ CÁI ÐẠI VƯƠNG (761 - 802)

Ba quý tử con Phùng Hạp Khánh (767)
Vị tướng tài bên cạnh Thúc Loan
Những trang văn võ song toàn
Phùng Hưng anh cả lại càng oai phong

Vật ngã trâu, tay không bắt hổ
Uy danh kia sấm nổ gần xa
Hưng binh vì nước, vì nhà (766 - 780)
Anh hùng hào kiệt nghe qua theo về

Cờ khởi nghĩa lời thề vì nước
Quyết tâm giành cho được non sông
Giúp dân giải thoát khỏi vòng
Ðã từng nô lệ ở trong tay Tàu

Vì nô lệ phất cờ đại nghĩa
Ðánh tan tành khiếp vía ngoại xâm
Ðánh cho tướng giặc bàng hoàng
Ðánh cho tơi tả đầu hàng mới thôi

Cao Chính Bình sợ oai mà chết (791)
Giặc nhà Ðường kế hết cạn lương
Vẫn còn ngoan cố không hàng
Về sau dùng kế Anh Hàng mới xong

Dẹp giặc xong, làm vua trị nước
Ở trên ngôi vừa được bảy năm (782)
Một lòng vì nước vì dân
Khi ngài tạ thế nhân tâm sụt sùi

Ngài đã vì mệnh trời , quốc tổ
Dâng tôn ngai Bố Cái Ðại Vương
Cầm quyền giữ mối kỷ cương
Giúp dân bẻ gãy gông cùm ngoại bang

Con Phùng An thay cha kế nghiệp
Bị nhà Ðường uy hiếp đánh tan
Triệu Xương cai trị cử sang
Làm quan Ðô Hộ An Nam lúc này (791)

Nửa thế kỷ từ ngày mất nước (790 - 840)
Cứ mỗi lần, kẻ trước kẻ sau
Sang làm Thứ Sử Giao Châu
Tên nào cũng trở thành giàu có thêm

Tội cho dân lên rừng xuống biển
Mò ngọc trai, tìm kiếm ngà voi
Cong lưng tôi mọi cho loài
Ngoại bang xâm lược tác oai dân mình

DƯƠNG THANH ( 819 )

Năm Kỷ Hợi (819) Dương Thanh thứ sử
Người Giao Châu chiêu dụ dân quân
Phất cờ khởi nghĩa đánh tan
Giết Lý Tượng Cổ tham tàn hiếp dân

Mấy năm sau Dương Thanh tử trận
Người Nam Chiếu Hoàn Ðộạng kéo sang
Cùng đi có cả Hoàn Vương
Là vua Lâm ấp lên đường xâm lăng


NAM CHIẾU XÂM LĂNG ( 858 )

Năm Mậu dần, An Nam loạn lạc (858)
Khắp mọi nơi đói khát triền miên
Bên trong xã hội không yên
Cõi ngoài Nam Chiếu chiếm nguyên mấy vùng

Quân Nam Chiếu hung hăng xâm lấn
Ðuổi quân Ðường đến tận biên cương
Thành mất, tướng chết thảm thương
Giết ngay Sái Tập nhà Ðường năm sau (863)

Quân Nam Chiếu cầm đầu một cõi
Ðuổi giặc Ðường ra khỏi Giao Châu (863)
Ðặt viên Tư Tấn ngôi cao
Từ đây đất Việt thuộc vào người Man

Quân Nam Chiếu hai lần lấy đất
Ðường binh thua mất mật Hải Môn
Quan dân thất đảm kinh hồn
Vừa bắt vừa giết dễ hơn vạn người

Nhà Ðường sai Cao Biền sang đánh (846)
Với mưu đồ bình định Giao Châu
Chủ trương trấn áp làm đầu
Xây thành khẩn đất làm cầu giao thông

Năm Bính Tuất (866) xem xong dự án
Cao Biền cho đào móng sửa sang
La Thành xây mới khang trang
Nhà hơn bốn chục vạn gian để dùng

Ði một vòng gần hai nghìn trượng
Ðắp quanh thành một đoạn đê cao
Vọng lâu liên kết cùng nhau
Châu mai bốn mặt thêm vào phía trên

Lại đào kênh Thiên Vy lấy lối (867)
Ðể ghe thuyền lui tới thông thương
Về sau dân gọi Cao Vương
Cao Biền đã ở đất Nam mấy đời

Ðến năm Tý (880) lòng người không thuận
Bèn dấy lên tổng tấn công ngay
Ðuổi tên Tăng Cổn chạy dài
Lại thêm Nam Chiếu tác oai bên ngoài

Quân Nhà Ðường không ai cai quản
Chạy xô nhau kinh mạn bỏ thành
Nhắm đường Ung Quảng cho nhanh
Sau lưng để lại vô vàn binh lương

Thuở bấy giờ dân đang khổ ải
Một là do quan lại nhà Ðường
Hai là Nam Chiếu nhiễu nhương
Chúng cùng cướp bóc phá tan nước mình

Giặc hai bên mặc tình vơ vét (905)
Chúng tha hồ càn quét nhân dân
Núi sông mấy bận qua phân
Lòng người uất hận chỉ mong có ngày


KHÚC THỪA DỤ (906 -907)

Khúc Thừa Dụ vừa ngay khi ấy
Với danh gia nổi dậy cơ đồ
Một lòng vì nước mà lo
Cùng dân khởi nghĩa, đắp mô chiếm thành

Giặc giả phong “Ðồng Bình Chương Sự”
Kèm theo chức Tiết Ðộ Sứ quân
Dụ người mong được lòng dân
Dịu cơn phẫn uất của dân Việt mình(906)

Giặc biết đâu, người anh hùng ấy
Xoay thế cờ đoạt lấy thời cơ
Cùng dân giữ vững cõi bờ
Dễ dàng bẻ gãy ý đồ mưu thâm


KHÚC HẠO (907 - 917)

Mới ba năm mà người vội thác
Con : Khúc Hạo gánh vác lên thay (907)
Một trang anh kiệt nhân tài
Lấy dân làm gốc vạch ngay tỏ tường

Nhà cải cách kiếm đường phát triển
Từ nghèo nàn sẽ biến ấm no
Tổ chức quản lý phân cho
Từng châu, từng phủ phải lo chu toàn

Ðừng đầu Tỉnh là viên Quản Giáp
Giáp, chia thành từng xã nhỏ hơn
Lựa người lệnh trưởng khôn ngoan
Bình quân thế ruộng vuông tròn cho dân

Lấy an lạc, khoan dung, giản dị
Làm phương châm cai trị nhân dân
Cải cách hành chính dần dần
Quốc gia đổi mặt ngày càng thắm tươi

Khi tạ thế chọn người kế vị
Suốt đời vua chỉ nghĩ đến dân
Giữ cho đất nước hùng cường
Dân thêm giàu mạnh ngày càng mở mang

Ðể giang sơn ngày càng vững chắc
Phải đối đầu với giặc Bắc phương
Ngoại giao khôn khéo nhún nhường,
Sứ thần trao đổi bình thường với nhau

Nơi địa đầu giữ yên biên giáp
Với Chiêm Thành, Chân Lạp phương Nam
Phân chia ranh giới rõ ràng
Ðặt quân canh giữ sẵn sàng chặn ngay

KHÚC THỪA MỸ (917 - 923)
Khúc Thừa Mỹ lên thay Khúc Hạo (917)
Sai sứ thần sang báo vua Lương
Giữ tình giao hảo bình thường
Nhận cờ Tiết Việt tượng trưng Phiên thần (919)

Quân Nam Hán manh tâm chiếm đoạt
Lý Khắc Chính được cắt đem qua
Binh hùng tướng mạnh quân xa
Manh tâm chiếm lại nước ta bấy giờ

Năm Canh Dần kẻ thù Nam Hán (930)
Lấy đất đai ở quận Giao Châu
Ðại La, Hoan , Ái thu vào
Cất quân mấy vạn đánh vào Champa

Thứ sử mới tên là Lý Tiến
Ðược điều sang trợ giúp việc quân
Nhưng mà thế giặc đã tàn
Ðại La giữ được mấy phần chung quanh

Ở Dương Xávang danh Bộ Tướng
Người họ Dương hào trưởng năm xưa
Ba ngàn quân sẵn phòng ngừa
Phất cờ khởi nghĩa diệt chừa ngoại xâm

Dương Ðình Nghệ phá tan bọn giặc
Ðuổi thứ sử vây bắt tàn quân
Giết thêm Trần Bảo hung thần
Tự xưng Tiết Ðộ Sứ Quân cầm quyền


DƯƠNG ÐÌNH ( Diên) NGHỆ (931 - 938)

Dương Ðình Nghệ giữ yên đất nước
Coi binh quyền mới được bảy năm
Thì tên Nha Tướng gian thâm
Là Kiều Công Tiễn manh tâm hại người (937)

Ham địa vị giết ngay chủ cũ
Công Tiễn kia dạ thú lòng lang
Cũng vì ham chức, làm càng
Rước quân ngoại tộc phá tan cơ đồ


QUYỂN BA

NGÔ QUYỀN (938-944 )

Tính kể từ đầu năm Mậu Tuất (938)
Ðất nước ta quả thật rối bời
Lăm le Nam Hán bên ngoài
Bên trong nội loạn lòng người oán than

Ðất nước chìm trong cơn nguy biến
Vua Nam Hán muốn chiếm nước ta
Sai con Hoằng Tháo đem qua
Binh hùng tướng mạnh để mà xâm lăng

Chúa Nam Hán chiếu ban mũ áo
Cho Vạn Vương Hoằng Tháo tiên phuông
Cử thêm binh mã lên đường
Chiến thuyền theo hướng Bạch Ðằng tiến vô

Còn riêng y, đóng đô Bác Bạch
Ở Hải Môn ứng trực sẵn sàng
Nghe tin quân giặc tràn sang
Ngô Quyền gấp rút chặn đường , đánh ngay

Trước giết Tiễn , sau bày thế trận
Sông Bạch Ðằng dụ chúng tiến sâu
Cọc ngầm từng khoảng cách nhau
Ðợi khi nước lớn trên bàu đổ ra

Thuyền của ta nhấp nhô mặt sóng
Tháo tức mình nổi trống tiến quân
Ðuổi theo sát khí đằng đằng
Quân ta giả chạy, theo giòng nước xuôi

Rồi đột nhiên ta quay phản kích
Khi nước triều vừa kịp rút nhanh
Ðánh cho một trận tan tành
Quan quân tướng giặc thất kinh rụng rời

Thuyền của địch đâm lòi cọc sắt
Nát lủng sườn khiến giặc thất kinh
Nhác trông lại thấy Ngô Quyền
Oai phong lẫm liệt trên thuyền chỉ huy

Ta chẻ đôi, phân ly đội ngũ
Giặc bỏ thuyền lố nhố lên bờ
Hán quân đâu thể nào ngờ
Lọt vòng mai phục ta chờ từ lâu

Ðịch khiếp vía đâm đầu tháo chạy
Còn quân ta thấy vậy đánh luôn
Dồn cho chúng đến cùng đường
Bắt ngay Hoằng Tháo, trước quân chém liền

Chúa Nam Hán vật mình đau đớn
Biết con đà tử trận , phanh thây
Xác con để lại đất này
Giận mình không đủ sức tài cứu con

Bạch Ðằng Giang, sông xưa hùng dũng
Tiếng sóng rền còn vọng đâu đây
Hồn thiêng chót vót chân mây
Ngọn cờ độc lập tung bay trên thành

Người ta bảo có vành áng sáng (898 - 944)
Khi vua sinh tỏa rạng khắp nơi
Khí thiêng un đúc nên người
Tướng đi tựa hổ, nốt ruồi ngang lưng

Có trí dũng, sức nâng được vạc
Lúc trẻ thơ mẹ đặt Ngô Quyền
Cùng con Dương Nghệ kết duyên
Ðược phong Nha tướng cầm quyền Ái Châu

Ðất Ðường Lâm ơn sâu vũ lộ
Chọn Loa Thành làm chỗ đóng quân
Lập Dương hoàng hậu , chiêu đàn
Ðặt ra chức tước cho hàng thân vương

Chế nghi lễ, đai cân phẩm phục
Thiết triều đình theo bậc đế vương
Ngài vừa bốn bảy thì băng
Ở ngôi cửu ngũ Việt Thường sáu năm (941)

Một chiến thắng ngàn năm để lại
Sông Bạch Ðằng mãi mãi thiên thu
Ðường Lâm xây dựng cơ đồ
Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ

DƯƠNG BÌNH VƯƠNG ( 945-950 )

Ngô Xương Ngập kế thừa ngôi báu
Có Tam Kha là cậu của mình
Di thư Vua viết phân minh
Giao Kha giúp rập con mình lên ngôi

Nhưng Tam Kha nuốt lời di chúc (945)
Tên gian thần thừa lúc ấu vương
Mon men trở dạ bất lương
Cướp ngôi của cháu , Bình Vương xưng càn

Dương Tam Kha mưu gian hại cháu
Bọn cận thần cho dẫu đa mưu
Cũng không giấu được ý đồ
Soán ngôi phản nghịch dở trò mị dân


HẬU NGÔ VƯƠNG ( 951-965 )

Ngô xương Văn nhân danh triều cũ
Cùng hai người họ Ðỗ, họ Dương
Dùng mưu bắt được Bình Vương
Bảo toàn cơ nghiệp nối giòng họ Ngô

Văn cùng anh cùng lo việc nước
Sau Xương Ngập lấn lướt chuyên quyền
Muốn giành tất cả làm riêng
Gây nên chia rẽ anh em trong nhà

LOẠN SỨ QUÂN ( 966 )
Loạn sứ quân tạo ra thảm cảnh (966)
Mười hai phe tranh đánh lẫn nhau
Sứ quân tên họ như sau :
Lý Khuê, Bạch Hổ, Ðằng Châu chiếm thành

Ðất Thái Bình Nguyễn Khoan hùng cứ
Ðỗ Cảnh Thạc, Xương Xí, Nguyễn Siêu
Lã Ðường, Kiều Thuận tiếp theo
Rồi Ngô Nhật Khánh lại gieo kinh hoàng

Kiều Công Hãn giành dân với Tiệp
Loạn sứ quân chém giết lẫn nhau
Chiến tranh mãi đến năm sau
Cuối cùng Bộ Lĩnh tóm thâu nước nhà (968)


ÐINH BỘ LĨNH ( 968 -980 )

Ðinh Bộ Lĩnh vốn là bộ tướng
Của sứ quân Trần Lãm Minh Công
Châu Hoan thứ sữ : cha ông
Quê người ở đất Ðại Hoàn Hoa Lư

Mồ côi cha kể từ thuở bé
Mẹ họ Ðàm quạnh quẽ nuôi con
Ngày thường với trẻ cùng thôn
Tréo tay làm kiệu suy tôn mà đùa

Cầm cờ lau, tay khua nghi trượng
Chơi như là điều tướng, khiển binh
Người già thấy thế làm kinh
Trẻ này sau lớn ắc thành đế vương

Quả nhiên sau, khương cường khôn lớn
Ðầu quân về dưới trướng Minh Công
Cùng dân dấy nghĩa xưng hùng
Sứ quân hàng phục cuối cùng tôn lên

Vạn Thắng Vương thành tên người gọi
Bởi mỗi lần trống nỗi xuất quân
Ðiều binh tốc thắng như thần
Khiến cho hùng trưởng quy hàng dưới tay

Năm Mậu Thìn lên ngai Hoàng Ðế (968)
Dời đô về kinh ấp Hoa Lư
Ðắp thành, bảo vệ kinh đô
Sáu quân binh mã để lo giữ gìn

Ðại Cồ Việt đặt tên cho nước
Dùng kinh tế liệu trước cho dân
Nghiêm minh trái lệnh bất tuân
Vạc dầu củi sắt để răn mọi người

Vua lại sai phân chia nhiệm vụ
Chọn nhân tài để bổ làm quan
Biên niên, lịch sử rõ ràng
Ghi từng sự kiện để làm tàng thơ

Chia binh ra quân cơ mười đạo
Cấp quân trang, mũ áo chỉnh tề
Ðịnh phân cấp bậc uy nghi
Ðạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ ghi rõ ràng

Ðinh Tiên Hoàng lập năm hoàng hậu
Quá yêu con thơ ấu Hạng Lang
Phong làm Thái Tử thay vương
Buộc con Ðinh Liễn phải nhường cho em

Năm Bính Tý thương thuyền các nước (976)
Lần đầu tiên dừng bước đất ta
Ðem dâng phẩm vật lụa, ngà
Cống triều cốt để làm quà giao thương

Cuộc ngoại thương đầu tiên từ đấy
Của nước ngoài muốn cậy nhờ ta
Bán buôn trao đổi lại qua
Giữa dân các nước diễn ra trong vùng

Liễn mất quyền, sinh lòng chiếm đoạt
Giết Hạng Lang tội ác Việt Vương
Vì ngôi làm việc bất lương
Nhẫn tâm đến nỗi coi thường tình thâm (797)

Việc như thế nẩy mầm bạo loạn
Tên Ðỗ Thích thí mạng nhà vua
Khi ngài an uống say sưa
Trong sân cung cấm bấy giờ nữa đêm

Hắn giết thêm Việt Vương Ðinh Liễn
Rồi trèo tường lén ẩn trong cung
Bị quan Nguyễn Bặc truy lùng
Tìm ra hung thủ bên trong lổ vò

Tên Ðỗ Thích bấy giờ bị bắt
Thân thể y băm nát thịt xương
Ðáng đời răn kẻ làm gương
Âm mưu thoán đoạt ngôi vương của người

Việc hại người chung quy là thế
Chuyện quốc gia phải để vô tư
Bỏ trưởng mà lấy con thơ
Lập năm hoàng hậu cơ đồ e hư

Rước linh cửu vua rồi đem táng
Mã Yên Sơn thuộc huyện Trường Yên
Quần thần đưa trẻ cầm quyền
Vừa tròn sáu tuổi đã lên ngai vàng

ÐINH PHẾ ÐẾ (979 - 980 )
Quan đại thần Lê Hoàn nhiếp chánh (980)
Mưu thông gian với cánh họ Dương
Vân Nga thái hậu tôn vương
Cùng quan Cự Lạng dọn đường đoạt ngôi

Vở hài kịch đến hồi ngoạn mục
Trong triều đình gặp lúc lao đao
Ngang nhiên nội phủ đi vào
Quan quân áo trận ào ào nói năng

ÐẠI HÀNH HOÀNG ÐẾ ( 980 - 1005 )

Tôn Thập Ðạo nối chân Thiên Tử
Năm Canh Thìn khai thái tân quân (980)
Tung hô vạn tuế mấy lần
Vân Nga thái hậu cúi dâng áo bào

Lẽ đương nhiên nhân nào quả ấy
Bôỳ Lĩnh xưa từng lấy vợ người
Trớ trêu cho cái sự đời
Vợ mình kẻ khác cướp rồi biết chăng ?

Quê Ái Châu Lê Hoàn xưng đế
Lấy vợ vua : Dương thị phu nhân
Lên ngôi Hoàng hậu để gần
Mười hai trai lớn lần lần phong vương

Năm Canh Thìn Tống vương hạ chiếu (980)
Sai Ða Tốn mang biểu thư sang
Vừa đe, vừa dọa, vừa nương
Tung đòn tâm lý dọn đường xuất quân

Tống chia quân ra làm bốn mũi
Hướng Bạch Ðằng đường thủy tiến qua
Hội quân ở đất Ðại La
Lạng Sơn binh bộ chia ba kéo vào

Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu sứ (980)
Tôn Hoàng Hưng, Khâm Tộ theo chân
Lưu Trừng đốc thúc thủy quân
Hơn ba vạn đứa lên đường vượt sang

Hầu Nhân Bảo dương dương tự đắc
Kéo quân vào đi tắt lối sông
Vừa qua gần tới Chi Lăng
Bị ta phục kích giết phăng ngay liền

Giặc khiếp đảm thất điên, bát đảo (981)
Lê Ðại Hành vũ bão tiến công
Giặc phơi thây chết đầy đồng
Ðánh tan ba vạn quét xong giặc thù

Bắt Phụng Huân, trói gô Quân Biện
Giải giặc Tàu về đến Hoa Lư
Bộ binh Khâm Tộ thua to
Tống Vương xuống chiếu truyền thu quân về

Vua nước Tống suy đi tính lại
Dùng chiến tranh không khỏi thương vong
Chi bằng đưa chế sách phong
Giử cho thông hiếu được lòng hai bên

Lê Ðại Hành nắm quyền quân lữ
Sai Tử An mở lộ Bắc Nam (992)
Thân hành đánh chiếm Nam Man
Chém Bê Mi Thuế kinh hoàng dân Chiêm

Vì trước đó người Chiêm bắt giữ
Quan Từ Mục , Ngô Tử Canh sang
Ðưa thư hỏi tội Hoàn Vương
Lâu nay không thấy đưa sang cống triều

Trăm cung nữ bắt theo về nước (982)
Lẫn bạc vàng lấy được trong cung
Nhà sư Thiên Trúc bị cùm
Theo quân chiến thắng đi cùng di quan

Vua ra lệnh phá tan tông miếu
Hủy thành trì quốc bửu thu gom
Ðánh Chiêm một trận thất hồn
Rửa xong cái nhục dám giam sứ thần

Ðối với Tống dần dần thông hiếu
Sai sứ thần dâng biểu Ung Hy
Xin làm tiết trấn biên thùy (985)
Ðến năm Thuần Hóa phong vì Quận Vương (995)

Khéo ngoại giao khi cường, khi nhược
Lúc sứ thần Lý Giác sang thăm (987)
Vua sai Sư Thuận giả làm
Chèo đò đưa sứ , đối ngâm thơ rằng :

“Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”
Hai người ứng đối ngâm nga
Giác càng kính phục về nhà tấu lên

Vua cho trả bọn Quách Quân biện
Là tù binh trong trận Chi Lăng
Nhân khi Sứ Tống sang thăm
Tỏ tình hòa hiếu nhún nhường của ta

Vua cầm quyền, trông xa thấy rộng
Là một người lương đống tài cao
Giỏi tài nội trị ngoại giao
Giỏi tài khai khẩn vét đào kênh mương

Năm Quý Mão ( 1003) trên đường thị sát
Kênh Ða Cái hết nước cạn khô
Vua liền ra lệnh truyền cho
Quân dân nạo vét để đưa nước vào

Giặc Cử Long lâu lâu quấy rối
Vua đích thân di tới Cùng Giang
Ðiều quân , bày trận dọn đường
Kêu trời ba tiếng đánh tràn , giặc tan

Nam Bình Vương tước phong của Tống
Vì bãi binh ở Trấn Như Hồng
Vua Tàu cũng muốn đẹp lòng
Nên sai sứ đến tâng công cho ngài

Việc Ất Mùi (995) quan quân Giao Chỉ
Trăm chiến thuyền trực chỉ Trung Hoa
Hành quân tốc chiến từ xa
Như Hồng thị trấn vòng qua đánh vào

Châu Tô Mậu , Ung Châu nước Tống
Cũng bị ta chiếm đóng mấy ngày
Chiếm rồi cho rút ra ngay
Ðể mà nhắc nhỡ cho người biết ta

Sai quan nha đúc tiền Thiên Phúc (984)
Xây thêm lầu Long Lộc, Trường Xuân
Dựng nhà trên núi Ðại Vân
Ðiện vàng, Ðiện bạc sức dân đổ vào

Ðối với nước tài cao trông thấy
Nhưng việc nhà chẳng mấy kỷ cương
Anh em không biết nhún nhường
Mưu giành ngôi báu tranh vương đoạt quyền


TRUNG TÔNG HOÀNG ÐẾ (1005 )

Ðiện Trường Xuân vào năm Ất Tỵ
Vua băng hà chiếu chỉ truyền ngôi
Anh em giành giật ghế ngồi
Cuối cùng Long Việt là người được may

NGỌA TRIỀU HOÀNG ÐẾ (1005 -1009)

Lê Long Ðỉnh sai người hạ sát
Giết anh mình để đoạt ngôi vua
Sửa quan chế đổi triều vua
Rập khuôn theo đúng kiểu như bên Tàu (1006)
Mẹ Long Ðỉnh tên Hầu Di Nữ ?
Là một người gốc ở Champa
Hai vua bà đã sinh ra
Nữa mang máu Việt , nữa là Champa

Long Ðỉnh có : bốn bà hoàng hậu
Xin Tàu cho mũ áo dát vàng (1009)
Tống triều chấp thuận gởi sang
Vua mang ngưu trắng đem dâng Bắc Triều (1007)

Theo Sử ký lắm điều quái đản
Ðược gán cho Long Ðĩnh - Minh vương
Một là dâm đãng bạo tàn
Hai là ác đức coi thường mạng dân ?

Như chuyện lấy : thằng lằn làm gỏi
Bắt trẻ thơ ra gọi cho ăn
Bắt người trấn nước sủi tâm
Bắt người xẻo thịt, bắt nằm chuồng heo

Bắt trèo cây cheo leo cao vút
Ðốn gốc để cho rớt xuống chơi
Lấy cỏ tranh quấn vào người
Rồi đem đốt lửa vua tôi giải sầu

Lại róc mía trên đầu sư trọc
Rồi giả vờ như sóc nhằm gai
Thả tay vua để dao rơi
Ðầu sư gội máu, vua cười vỗ tay

Vua lại sai cho người bắt rắn
Bỏ vào quần để đặng dọa chơi
Lão bà hoảng vía la trời
Vỗ tay thích chí vua cười bò lăn

Lúc thiết triều vua nằm nghiêng ngả
Bởi vì người đã quá ham mê
Tửu sắc, dâm dật ê chề
Mắc thêm bệnh trĩ khó bề ngồi lâu

Tên “Ngọa triều” bắt đầu từ đó
Tẩm điện lâu là chỗ vua băng
Ðồng dao lên tiếng hát rằng :
“Ngọa triều hoàng đế” là thằng quái thai

Có một điều mà đời chẳng hiểu
Tại sao vua dâng biểu xin kinh ? (1007)
Ðắp đường, dựng cột, đào kênh ?
Ðóng thuyền để chở bộ hành sang sông ? (1009)

Trong bốn năm coi trông việc nước
Ðã năm lần chinh phạt phiến quân
Nếu vua là kẽ hôn quân
E rằng phải xét cân phân mọi bề

Nhà Tiền Lê tuyệt dòng từ đấy
Kỷ Dậu niên triều ấy mất ngôi (1009)
Cầm quyền hăm chín năm trời
Thay vua họ khác hai ngày lạ chưa ? !

Ðã mấy lần cơ đồ nguy biến
Cảnh sơn hà lâm nạn chiến tranh
Quốc gia chìm nỗi gập ghềnh
Cuối cùng vẫn thắng xích xiềng ngoại bang


QUYỂN BỐN

LÝ THÁI TỔ ( 1010 - 1028 )

Lý Công Uẩn vốn dân Cổ Pháp
Sinh ra đời đúng bậc minh vương
Lên ngôi hoàng đế Việt Thường
Là n gười khoan thứ tinh tường việc dân

Cha không có, mẹ người họ Phạm
Chùa Tiêu Sơn giao hợp thần nhân
Sinh vua tuấn tú bội phần (974)
Năm lên ba tuổi cho làm con nuôi

Lý Khánh Văn nhận nuôi đứa bé
Trẻ thông minh đủ vẻ lương tường
Sư chùa Lục Tố rất thương
Nói rằng : Không phải người thường thế đâu

Mãi về sau lời sư Vạn Hạnh
Ðã trở thành định mệnh quốc gia
Nhiều năm ròng rã trôi qua
Tiên tri lúc trước quả là đúng ngay
Sau hai ngày vua Lê Long Ðĩnh
Chết chưa chôn thì chuyện xãy ra
Trong triều nỗi cuộc phong ba
Nguyễn Ðê , Cam Mộc đứng ra nói rằng :

“à Bọn ta không nhân lúc này cùng nhau
sách lập Thân vệ ( Lý Công Uẩn ) làm thiên tử ,
lở bối rối có xãy ra tai biến gì ,
liệu chúng ta có còn giữ đựơc cái đầu hay không ? “

Cuộc chính biến tôn vương chớp nhoáng
Kế hoặch xong chỉ đúng hai ngày
Cho dù ai muốn trở tay
Cũng không xoay được đổi thay cuộc cờ

Lý Công Uẩn , cơ đồ có sẳn
Kẻ khôn ngoan dưới trướng khá nhiều
Thiền sư Vạn Hạnh phò theo
Thái sư Khuôn Việt đem điều nghĩa nhân

Gốc là dân mối giềng trị nước
Việc khởi đầu làm trước lên ngôi
Bỏ giềng lưới, bỏ giam người
Ðại xá thiên hạ đổi đời từ đây

Vua xuống chiếu từ rày có việc
Không thuận lòng giải quyết với nhau
Ðược quyền diện kiến trình tâu
Vua thân phán quyết ngỏ hầu minh oan

Lại hạ lệnh : người đang trốn tránh
Cho phép về lại cảnh quê hương
Áo cơm giúp kẻ cùng đường
Tha người Nam Chiếu cấp lương đưa về

Vua lại phê, ba năm tha thuế
Sửa đình chùa đổ nát hư hao
Công, hầu, khanh tướng ban trao
Chọn người xứng đáng để giao trọng quyền

Viết chiếu truyền, dời đô đến chỗ (1010)
Thành Ðại La đất cổ Cao Vương
Vùng này đất phẳng mười phương
Long chầu, hổ phục dị thường địa linh

Nhìn địa hình, đông, tây, nam, bắc
Thế đất này nét sắc mà oai
Vì dân lập kế lâu dài
Tính theo vận nước nhân tài hội đây

Lạ lùng thay, thuyền vua vừa đến
Có rồng vàng xuất hiện trên sông
Ðổi tên thành gọi Thăng Long
Mùa thu tháng bảy khởi công dựng nền (1010)

Ðiện Càn Nguyên nơi coi triều chính
Ðiện Tập Hiền hướng định chánh Nam
Nằm sau là Ðiện Long An
Phía đông Giảng Võ Thư Tàng kế bên

Bốn cửa thành : Tương Phù, Quản Phúc
Cửa phía Bắc Diệu Ðức mở ra
Ðại Hùng theo hướng Tây qua
Tường cao hào chắn phía xa ngoại thành

Cửa Ðan Phượng thông liền Uy Viễn
Bậc thềm rồng trước Ðiện Cao Minh
Thăng Long quang cảnh hữu tình
Nghênh Xuân cung cấm, ngoại thành chùa Nghiêm

Ðổi niên hiệu Thuận thiên để tính (1010)
Chức đặt ra phân định rõ ràng
Sắc phong cho sáu bà hoàng
Các con đều được tước vương , tước hầu

Lấy kinh tế làm đầu trị quốc (1013)
Ðịnh lệ ra luật nước rõ ràng
Sáu tên sưu thuế đàng hoàng
Năm lần giảm thuế nước càng phồn vinh (1017)

Nơi Phiên trấn (1020), tình hình không ổn
Giặc xâm lăng khốn đốn dân binh
Cất quân chinh phạt tự mình
Ðánh cho mấy trận tan tành Cử Long

Vua một lòng tôn sùng đạo Phật
Xuống chiếu truyền khuyên tập chép kinh
Ðể lầu bát giác tôn vinh (1021)
Ðúc chuông, xây tháp, linh đình làm chay

Với Bắc triều vua sai thông hiếu
Nhà Tống phong Giao Chỉ quận vương
Năm lăm tuổi thọ hưởng dương (1028)
Hiệu là Thái Tổ, Thọ Lăng táng ngài

Lý Công Uẩn , nhân thời mỡ vận
Vốn là người khí tượng đế vương
Song ưa nghe việc dị thường
Nên chi bị lụy đoạn trường mà thôi


LÝ THÁI TÔNG ( 1028 -1054 )

Lý Phật Mã vâng lời di chiếu
Ðến cấm thành mới hiểu ra rằng
Ba em mai phục thân quân
Giết mình để đoạt ngai vàng về tay

Xác vua cha còn đây chưa liệm
Sao ba em toan chiếm ngai vàng
Ðông Chinh, Thánh Dực, Võ Vương
Rõ là cốt nhục tương tàn buồn thay

Cuộc chính biến, ba tay vương tử
Khiến triều đình phải xử cho nghiêm
Có quan Phụng Hiểu điện tiền
Rút gươm thẳng đến chém liền Võ Vương

Lý Phật Mã trong cơn bối rối
Lên ngôi vua hiệu đổi Thiên Thành
Tôn cha, Thái Tổ thần danh
Quốc tang bố cáo trong thành, ngoài biên

Vua tha cho bọn em dấy loạn
Lấy tình người đổi oán bằng ân
Ðem tiền, gạo phát cho dân
Gọi là bố thí ngay lần lên ngôi

Vua lại sai đặt ra thứ bậc
Ðể trao quyền cho thật phân minh
Lựa người tài giỏi nghề binh
Phong làm Thượng Tướng giữ gìn quốc gia

Vua lập ra bảy bà hoàng hậu
Là một điều nhiên hậu không ai
Sách phong thái tử truyền ngai
Nhật Tôn hoàng tử được ngài ban cho

Là một người nhân từ sáng suốt
Lại hiểu thông thao lược kinh luân
Sáu nghề lễ nhạc luật âm
Ngự văn, thư số cũng trang anh tài

Suốt một đời trên ngai hoàng đế
Bước trường chinh tế thế đông, tây
Ở ngôi hăm bảy năm đầy
Tám lần chinh phạt dạn dày phong sương

Ðánh Trệ Nguyên chặn đường Tồn Phúc (1033)
Phạt Chiêm Thành qui phục nhân tâm (1039)
Dải dầu chín tháng hành quân
Chém đầu Sạ Ðẩu, giết gần vạn binh (1044)

Vua xuống chiếu soạn thành bộ Luật
Ghi rõ ràng cho thật phân minh
Chia ra môn loại rành rành
Ðâu là dân luật, luật hình, luật quân

Bộ Hình Thư được dân mong muốn (1042)
Bởi vì là thích ứng mọi nơi
Luật nghiêm lại hợp tình người
Công bằng đúng lẽ thuận trời, an dân

Tội gian dâm, tội đồ, hối lộ
Soạn thành văn lý số rõ ràng
Những ai làm việc lâu năm
Mà không có lỗi được thăng chức liền

Vua lại sai đóng thuyền cỡ lớn
Hạ thủy đầu chiến hạm Vạn An (1034)
Vinh Xuân, rồi chiếc Nhật Quang (1037)
Thủy quân cũng đóng vài trăm tiểu thuyền (1043)

Vua hạ lệnh đào kênh Ðãn Nãi (1029)
Rồi lại sai vét đãi Lẫm Kênh (1050)
Ðặt mốc, cắm biển đề tên
Chỉ đường, hướng lối kế bên vệ đường

Trạm Hoài Viễn để giường khách nghỉ
Xây trên bờ bên mé Gia Lâm (1035)
Tây Nhai mở chợ cho dân
Trên sông Tộ Lịch bắt ngang chiếc cầu

Lệ từ lâu, năm nào cũng thế
Vua thân hành tế lễ Thần Nông
Tịch điền ruộng đã cày xong
Nêu gương thiên hạ dốc lòng làm ăn

Vua lại dạy cung nhân dệt gấm (1040)
Phát trống kho gấm Tống làm quà
Từ đây sử dụng lụa nhà
Trong dân sản xuất ; của ta, ta dùng

Dạy Hoàn Vương chấp cung xét hỏi
Việc kiện thưa xử tội rồi tâu
Lại cho Thái tử coi chầu
Ðể nghe chính sự ngõ hầu ngày sau (1054)

Thuật dạy con bắt đầu như thế
Cho muôn đời lấy để làm gương
Tính vua đôi lúc bất thường
Thích nghe sấm ký khoa trương việc mình

Trong Cấm Thành buồn tình giải trí
Lập đoàn ca nhạc kỷ trăm người
Vào rừng Kha Lãm tìm voi
Dựng chùa Diên Hựu, xây đài chứa Kinh (1049)

Khắp đất nước thanh bình an lạc
Vua là người trầm mặc tinh thông
Tháng mười Giáp Ngọ, tiết đông (1054)
Trường Xuân vua mất đau lòng con dân

Là một người bội phần cơ trí
Việc quốc gia chăm chỉ sớm hôm
Tiếc rằng hay nói khoe khoang
Là người khai sáng mối nguồn về sau


LÝ THÁNH TÔNG (1054 - 1072)
ÐẠI VIỆT

Ðược ngôi cao : Thái Tông Hoàng Ðế
Là Ðông Cung thừa kế Nhật Tôn
Một người tâm tính ôn tồn
Thương dân, trọng việc lại còn lo xa

Ðổi quốc hiệu thành ra Ðại Việt (1054)
Lập lịch triều, kỷ yếu định danh
Gọi tên : Long Thụy Thái Bình
Sửa sang chính sự, dân tình an sinh

Lập Văn Miếu , nặn hình Tứ Phối
Những người hiền : Khổng Tử, Chu Công
Bẩy hai trò giỏi thờ chung
Là đất văn vật, tấn phong nhân tài

Ngoài cấm thành xây đài cao nhất
Ðặt tên là Bảo tháp Báo Thiên (1054)
Mươi hai tầng đứng dính liền
Vươn cao chục trượng oai nghiêm vô cùng

Gặp tiết đông lúc trời lạnh giá
Thương người tù thiếu cả chiếu chăn
Gian, ngay chưa biết tỏ tường
Truyền cho ngục lại phát chăn để nằm (1055)

Xót dân tình phải chăng không biết (1064)
Nên nhiều khi làm việc lỡ lầm
Xử người như với người thân
Lấy điều khoan giảm gia ân cho người

Dân thiếu ăn, đức trời thừa thiếu (1075)
Tha thuế tô, một kiểu khuyến nông
Vua, Quan, Dân, lính một lòng
Giữ yên bờ cõi chẳng mòng riêng tây

Năm Kỷ Hợi lựa ngày Bắc phạt (1059)
Ðánh Khâm Châu cả nước kinh hoàng
Biểu dương lực lượng vài hôm
Rồi cho triệt thoái truyền gom quân về

Ðánh nước Tàu thị uy cho biết
Cũng bởi vì vua ghét Tống vương
Phản phúc dối trá dị thường
Nuốt lời binh viện đánh Nùng Trí Cao

Ðánh Chiêm Thành răn vua Phiên trấn
Chúa Chămpa thất trận đầu hàng
Thế cùng Chế Củ xin dâng
Ba châu cắt đất xin nhường Thánh Tông

Vua bằng lòng tha cho Chế Củ
Cõi biên thùy uy vũ vang danh
Thu về Ðịa Lý, Ma Linh (1069)
Cùng châu Bố Chính trở thành đất ta

Tuổi bốn mươi, sinh ra con nhỏ (1066)
Vua rất mừng, trăm họ hân hoan
Có người nối dõi ngai vàng
Phong ngay thái tử , đăng quang sau này

Lý Thánh Tông có tài văn học (1056)
Làm minh văn cho đục trên bia
Cung thương sáng tác nghề kia
Phỏng theo nhạc khúc chẳng lìa âm Chiêm

Tiếng trống Chiêm vô cùng hấp dẫn
Ðiệu Pì dền khi bổng, lúc khoan
Tám mươi điệu trống Kỳ Nằng
Ri Nai khúc hát nhẹ nhàng vui thay

Nhân một hôm gặp ngày xuân nhựt (1063)
Dân hiếu kỳ nô nức tranh đua
Nhân ngài đi vãn cảnh chùa
Cố nhìn được mặt đức vua một lần

Chỉ riêng một, giai nhân tuyệt sắc
Không nhìn vua, nép mặt bên lan
Khiến vua làm lạ vô vàn
Vua cho võng kiệu để mang nàng về

Tên Ỷ Lan cũng vì tích đó
Là một người sắc sảo thông minh
Thay vua việc nước điều hành
Khi chồng sang đánh Chiêm Thành năm sau

Lý Thánh Tông tài cao nhân hậu
Coi việc dân , đạt thấu lẽ trời
Cơ đồ gánh vác trên vai
Bình Chiêm, phạt Tống trong ngoài vỗ yên


QUYỂN NĂM

LÝ NHÂN TÔNG HOÀNG ÐẾ (1072 - 1127)

Vua băng hà, con lên bẩy tuổi (1072)
Húy Càn Ðức, miếu hiệu Nhân Tông
Lý Ðạo Thành được sắc phong
Thái sự phụ chính để trông triều đình

Ðổi niên hiệu Thái Ninh năm Tý (1072)
Bà buông rèm chính sự cùng nghe
Tranh quyền bức tử Hoàng Phi
Là Hoàng thái hậu đương thì họ Dương
Lý Ðạo Thành lên đường biên trấn (1073)
Cũng chỉ vì can gián Linh Nhân
Giết người nào có ăn năn
Một rừng, hai hổ thiệt rằng khó thay

Việc triều chính trong tay Thái hậu (1072)
Nhân tiết xuân xuống chiếu tuyển sinh (1075)
Lựa người bác học minh kinh
Tam trường lều chỏng cho lưu danh với đời

Lê Văn Thịnh tên ngời bảng hổ
Ðược vời vào dạy dỗ cho vua
Thăng dần lên chức thái sư (1085)
Về sau tạo phản mưu đồ thí quân (1096)

Gia nô Thịnh là dân Ðại Lý
Có thuật riêng kỳ bí quái chiêu
Tưởng rằng áp đảo làm liều
Nên chi suýt chết vì theo lũ này

Lý Nhân Tông một tay thư pháp (1118)
Nét rồng bay chữ khắc trên bia
Minh Văn mấy vận Ðường thi
“Lãm sơn dạ yến” vườn khuya gảy đàn (1120)

Nước thanh bình thắt bông kết tụi
Khắp kinh thành mở hội hoa đăng
Ðàm thi, giữa buổi xuân quang
Trong trời trắng xóa một màn tuyết rơi (1102)

Ðể có người xiển dương văn hiến
Lựa nhân tài hội tuyển chiêu sinh (1086)
Học theo Khổng Mạnh thánh hiền
Chuyên văn, luyện võ rạng danh nước nhà

Quốc tử giám mở ra luật mới
Cho những người biết chữ vào thêm
So tài giỏi, kém phân minh
Môn thi : Tính toán, luật hình học riêng (1086)

Mạc Hiễn Tích đề tên bảng yết
Bổ làm quan học sĩ hàn lâm (1086)
Về sau đi sứ mấy lần (1094)
Thay vua yên vổ quan quân Chiêm Thành

Cho lão thần được quyền ngồi tấu
Trời vào thu, ban áo các quan
Mùa xuân lập yến đãi đằng (1123)
Vua quan cùng sống thân bằng với nhau

Vua ra lệnh : giết trâu phạt trượng
Ðến mùa xuân không đốn chặt cây (1126)
Cấm dùng gậy nhọn cầm tay
Cùng đồ sắt thép kết bầy đánh nhau

Ðể giao thông xây cầu, đắp lộ
Sửa kinh thành những chỗ hư hao (1078)
Ðắp đê Cơ Xá thêm cao
Ðể ngăn nước lụt tràn vào kinh đô

Trong xây cất truyền cho nung ngói
Ðể lợp nhà tránh khỏi thiên tai
Hội đàm với sứ nước ngoài
Ðịnh xong cương giới đất đai rõ ràng (1084)

Vương An Thạch nghĩ rằng Ðại Việt (1075)
Bị Chiêm Thành đánh giết hết quân
Bây giờ công phá một lần
Chắc rằng chiến thắng sẽ nằm trong tay

Vua Tống sai Lưu Di - Thẫm Khởi
Ngầm dấy binh yễm tại Quế Châu
Thuyền bè , quân dụng đưa vào
Cấm dân buôn bán ra vào nước ta

Biết ý đồ của nhà Bắc Tống
Thường Kiệt cho làm tướng điều quân (1075)
Tiến sang đánh trước Châu Khâm
Châu Liêm cô thế đầu hàng quân ta

Tướng Ung Châu tên là Tô Giám
Cố thủ thành, không dám động quân
Bốn mươi ngày cố cầm chân
Cuối cùng lương cạn phải dâng nộp thành

Ta bắt sống dân binh mười vạn
Phá chiến hào san phẳng môn quan
Làm cho dân Tống bàng hoàng
Trước sức công phá dễ dàng của ta

Vào tháng ba (1076), Tống cho Phủ Sứ
Ðến Chiêm Thành phủ dụ Nam Man
Tống quân , Chân Lạp họp bàn
Bao vây Ðại Việt dọn đường tiến quân

Chúng liên minh tạo xong thế trận (1076)
Hai gọng kìm , dưới tấn đánh ngang
Quách Quỳ Chiêu Thảo sứ quân
Ðem theo chín tướng , vài trăm chiến thuyền

Lại cho thêm viên quan Triệu Tiết
Làm Phó Tướng dồn hết quân sang
Khí tài, lương thực sẵn sàng
Lựa ngày xuất phát lên đường tấn công

Lý Thường Kiệt chận sông Như Nguyệt (1076)
Rải phục binh thề quyết tới cùng
Ðánh tan lũ giặc tàn hung
Tả tơi vó ngựa, cong lưng chạy dài

Tương truyền rằng lúc xây rào chắn
Dọc theo sông để chống đại binh
Thì nghe có tiếng trong đền
Thần nhân Khiếu - Hát lời truyền như sau :

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Quả nhiên ứng nhiệm thiên cơ
Dân ta đã đuổi kẻ thù bắc phương

Lý Thường Kiệt giám quan trong Nội
Lại là người danh nổi ngoài biên (1076)
Nức tài người phá Tống bình Chiêm
Chính người viết bản văn tuyên để đời

Năm Giáp Thân ở nơi biên trấn (1104)
Quân Chiêm Thành xâm lấn nước ta
Vua Chiêm là Chế Ma Na
Ðem quân đòi lại đất nhà trước đây

Vua vội sai tướng quân Thường Kiệt
Trổ oai thần đuổi hết giặc Man
Thu hồi toàn vẹn giang sơn
Bắt Chiêm phải cống mấy năm một lần

Lý Nhân Tông không con nối nghiệp
Nuôi Dương Hoán để thế ngôi mình (1117)
Hoán người đĩnh ngộ thông minh
Phong làm thái tử thay mình mai sau

Trong tiết thu vào năm Ðinh Dậu (1117)
Ngày qua đời Thái hậu Ỷ Lan
Tổ chức hỏa táng quốc tang
Chôn theo hầu gái, hỏa đàn thiêu thân

Nghe biên giới phỉ quân quấy nhiễu
Vua vội vàng xuống chiếu viễn chinh
Rợp trời cờ xí tinh binh
Thảo ra kế hoạch tự mình điều quân

Bến Thiên Thu lừng vang tiếng trống
Ðoàn chiến thuyền rẽ sóng vạch sương
Ðánh tan, bắt sống Ngụy Bàng
Dẹp yên các động dọc đường quan sơn

Cho tịch thu bạc vàng, tơ lụa
Cùng trâu dê, thóc lúa, bò heo
Tù binh bắt được đem theo
Vua tha không giết làm điều hiếu sinh

Ngày cuối cùng biết mình sắp chết (1127)
Vua nói rằng : “Bỏ việc xây lăng
Lễ tang giản dị khiêm cần
Giảm phần nghi lễ cho dân khỏi phiền

Ta : nhiều năm đã lên nối nghiệp
Nhiệm vụ thì chưa kịp làm xong
Nay thời đến phút lâm chung
Ta lo Thái Tử chưa thông việc triều

Nhờ Thái úy phải theo phò tá
Coi Ấu Vương , Trẫm đã giao cho
Vì dân giữ vững cơ đồ
Còn ta, lăng mộ đơn sơ nhẹ nhàn”

Ngày vua băng sao sa sấm hiện
Năm Ðinh Mùi ở điện Vĩnh Quang (1127)
Thái tử thọ lễ đăng quang
Quỳ bên linh cữu đang quàng nơi đây

Bỏ cõi đời nghìn thu vĩnh việt
Gió lạnh lùng khi tiết đông sang
Ngậm ngùi đi, ở lẽ thường
Sáu ba năm ấy đoạn trường một phen
(thọ 63 tuổi)


LÝ THẦN TÔNG (1128 - 1138)

Lý Thần Tông nguyên niên Thiên Thuận (1128)
Thái úy Lê giúp rập lên ngôi
Làm vua vào tuổi mười hai
Hưởng dương quá mỏng, đức tài cũng không

Việc triều chính do công Thái Úy
Ðám bề tôi thì chỉ nịnh vua
Ðem vàng bạch với hưu, rùa (1129)
Dâng lên Hoàng Thượng để mua vui lòng (1137)

Từ hoạn quan, Vương Công, Tể Tướng
Toàn một bầy nghễn ngãn tham lam
Vua thì mê tín dị đoan
Vừa mới mười bảy tuổi có con để bồng

Vua xuống chiếu : Lấy chồng phải đợi (1130)
Ðẹp xinh thì tuyển tới cung đình
Những cô xấu xiÔ ngoại hình
Thì vua không tuyển mặc tình tự do
Lý Thần Tông vô lọ kém cỏi (1134)
Lại dâm bôn để dưới lộng quyền
Lân bang Chân Lạp vạ Chiêm (1137)
Thường hay quấy nhiễu ven biên nước mình

Trong kinh thành vua ra chiếu chỉ
Mỗi ba nhà quản lý lấy nhau
Nếu không kiễm soát trước sau
Thì cùng liên đới cũng như tội hình

Lịnh ban ra rùng mình sởn óc (1137)
Tạo nghi ngờ tang tóc trong dân
Suy đồi hỗn loạn nhân tâm
Gây thêm chia rẽ quân dân bấy giờ

Biết thời cơ nước đang hỗn loạn
Quân Chiêm Thành tiến đánh nước ta
Chúng vào đánh cướp Ðổ Gia (1128)
Bảy trăm thuyền chiến tiến qua vùng này

Lý Công Bình có tài trấn áp (1137)
Chận Chiêm Thành, Chân Lạp mấy phen
Dụng binh quân pháp rất nghiêm
Nhờ ông đất nước giữ nguyên cõi bờ

Ở kinh thành cũng như biên trấn
Nhiều năm liền hạn hán triền miên (1138)
Vua thì đau ốm liên miên
Bao nhiêu quyết định dưới quyền thái sư

Thuở bấy giờ Thần Tông tại thế
Vua ra nhiều chiếu chỉ oái ăm (1128)
Dựa vào tiền của đem dâng
Mà ban chức tước quan hàm đất đai

Năm Bính Thìn (1136) khi khai đất ở
Hương Lãnh kinh tìm thấy chuông xưa
Ðó là di chỉ đồng sơ
Của nền văn hóa có từ ngàn năm

Phá Tô Lăng , tướng người Chân Lạp
Ðem quân vào trấn áp Nghệ An (1137)
Làm dân khiếp đảm kinh hoàng
May mà cứu viện dẹp tan tức thì

Lý Thần Tông ham mê tiền bạc
Việc triều đình để mặc các quan
Biên thùy giăc cướp dọc ngang
Quốc gia bất ổn lại càng khổ thêm

LÝ ANH TÔNG HOÀNG ÐẾ (1138 - 1175)

Tân Hoàng đế húy tên Thiên Tộ
Lên làm vua tuổi độ lên ba (1138)
Mẫu thân : Cảm Thánh lệnh bà
Ðược phong thái hậu cũng là người gian
Mấy năm sau bốn phương loạn lạc
Triệu Trí Chi khoát lác xưng vương (1140)
Sau Ðàm Hữu Lượng làm càn (1144)
Sách dân, quấy nhiễu biên cương một thời
Lý Anh Tông tuổi đời non nớt
Bao nhiêu điều việc nước việc dân
Ðều do Thái Úy Ðại Thần
Một tay quyết định lấn dần quyền vua

Ðỗ Anh Vũ thế thừa làm ẩu (1150)
Lại tư thông Thái Hậu họ Lê
Gian dâm trong chốn phòng the
Giữa triều khoác lác chẳng hề nể nang

Sai quan thường hất hàm ra hiệu
Vung tay lên như kiểu côn đồ
Nội cung tự tiện ra vô
Quần thần hãi sợ, giả đò làm ngơ

Ðiện Tiên Ðô chỉ huy : Vũ Ðái
Cùng đại thần khẳng khái bắt giam
Lũ quan hối lộ, tham lam
Thông dâm thái hậu lại làm ô danh

Tội rành rành phải đem xử trảm
Quan Nguyễn Dương tấu bẩm xử liền
Nhưng vì Vũ Ðái tham tiền
Chỉ phạt Thái Úy làm điền nhi thôi

Thái hậu đòi Phục quyền Anh Vũ
Cho y làm chức cũ như xưa (1150)
Y bèn núp bóng sau vua
Bức người đến chết, trả thù tới nơi

Y hạ lịnh cho người khủng bố
Làm kinh thành ngạt thở khắp nơi
Cấm không tụ họp ba người (1150)
Cấm không đi lại chê bai triều đình

Lịnh khủng bố kéo dài liên tục
Cho đến khi Anh Vũ lìa đời (1164)
Bàn dân thiên hạ khắp nơi
Thở phào nhẹ nhõm khỏi loài sói lang

Tô Hiến Thành được làm đại tướng (1161)
Bên cạnh vua chỉnh đốn việc triều
Ðược vua rất mực kính yêu
Ngoại giao ( 1163) nội trị nhiều điều sửa sang

Vua nước Tống vào năm Bảo Ứng (1164)
Sai sứ sang đem tặng Anh Tông
An Nam chiếu chỉ sắc phong
Ðổi tên Giao Chỉ để hòng dụ ta

Nền ngoại giao giửa ta và Tống
Suốt nhiều năm chẳn động can qua
Giử tình lân quốc hiếu hòa
Bán buôn hai nước vào ra dể dàng

Với các quan : Ðặt khoa khảo thí (1162)
Cứ chín năm thanh lý một lần
Thăng quan tiến chức lên dần
Giúp người trung chính lập thân dễ dàng

Vua đi tuần những nơi hiểm yếu
Bởi vì người muốn hiểu ý dân (1171)
Hình sông, thế núi xa gần
Bảng đồ ghi chú, phiên thần lân bang (1172)

Vua học bắn xạ trường dựng bảng (1170)
Khuyên các quan võ tướng hằng ngày
Chuyên lo huấn luyện cho hay
Phép công phá trận lại bày ra ôn

Nơi đảo xa Vân Ðồn lập trại
Cho thuyền buồm đi lại giao thương
Xiêm La, Lộ Lạc cũng thường
Trảo Oa cũng đến bán hàng cho ta (1149)

Vua quyết định không tha Thái Tử (1174)
Long Xưởng người cư xử vô luân
Làm điều trái đạo bất nhân
Thông dâm cùng với phi tần của cha

Lệnh ban ra phong cho Long Trát
Nối nghiệp nhà ký thác truyền ngôi
Ðông Cung Thái Tử lập rồi
Quyền nhiếp chính sự , triệu vời Tô Quân

Tô Hiến Thành được vua phó chúc (1175)
Giao con mình cho bậc đại thần
Dốc lòng phò tá Ấu Quân
Một người trung nghĩa cầm cân giữa triều

Vua băng hà, vâng theo di chiếu
Tô Hiến Thành rước kiệu tân quân
Lên ngôi hoàng đế chăn dân
Chăm lo chính sự, sửa sang mọi đàng


LÝ CAO TÔNG HOÀNG ÐẾ
(1176 - 1210)

Hiệu Trinh Phù vua ban cho nước
Việc triều đình các cấp cân phân
Tháng giêng năm đó Bính Thân (1176)
Ðại xá thiên hạ bàn dân làm đầu

Nơi biên trấn diệt đồ giặc cướp
Việc triều đình từng bước sửa sang
Vua, quan nhiệm vụ rõ ràng
Chia làm ba bậc quan trường biểu nghi

Mời giáo thụ dạy vì Ấu Chúa
Cáo trong dân để lựa nhân tài
Sửa sang luật pháp cho ngay
Lập trường dạy học giúp người mở mang

Tô Hiến Thành bỗng mang bạo bệnh
Thương cho ông mới đến giữa đường
Bao nhiêu kế hoạch dở dang
Không ai nối tiếp theo gương của người

Khi lâm chung có người đến hỏi
Ai là người thay chổ của ông ?
Lựa người lương đống tôi trung
Vì nước tiến cử không hàm ơn riêng

Ðỗ An Di nắm quyền Phụ Chính (1179)
Cũng ra tay bình định biên cương
Chọn người tài giỏi, hiền lương
Giúp lo việc nước tìm đường cứu dân

Giặc nhiễu nhương muôn phần khốn đốn
Thêm thiên tai bất ổn triền miên (1181)
Ðói to, người chết liền liền
Chết luôn một nửa, khi nguyên cả làng (1208)

Thóc chẩn cấp vua ban cứu đói
E sợ rằng cướp lại nổi ra
Gieo xong vụ lúa tháng ba
Dần dần ổn định vượt qua hiểm nghèo

Năm Ất Tỵ vua treo yết bảng (1185)
Chiêu hiền tài hương đảng thôn lân
Nghe đồn, sĩ tử xa gần
Mang lều, vác chỏng dự phần ghi danh

Bùi Quốc Khái đã giành đầu bảng (1185)
Ðỗ khoa này vào khoảng ba mươi
Văn hay, võ giỏi chọn người
Vào hầu vua học ngay nơi điện rồng

Ðàm Sĩ Mông được phong thái phó (1190)
Ðất nước này từ đó điêu linh
Trùng tu lại Ðiện Vĩnh Ninh
Ðào sông Tô Lịch ngoại thành Thăng Long(1192)

Ðàm Sĩ Mông vốn không kiến thức
Lại là người nhu nhược trí ngu
Ðể cho triều chính rối mù
Quốc gia phân hóa cơ đồ tan hoang

Vua càng lớn lại càng biếng nhác
Mãi rong chơi , quên nước quên nhà
Ham tiền , trở thói trăng hoa
Lún sâu chìm đắm khó đà thoát ra

Năm Mậu Thìn tháng ba đói lớn (1208)
Xác của người từng đống gối nhau
Trong triều yến tiệc ra vào
Ngoài kia dân chết vua nào biết chi

Lấy thú vui cầm kỳ, thi tửu
Rủ trướng đào khúc múa Chiêm nương
Tối ngày nhãợ nhạc xên xang
Chế ra khúc nhạc muôn vàn thương tâm

Ðiệu Chiêm thành tiếng ngâm ai oán
Ðàn Kha Nhi nghe thảm, nghe thương
Mủi lòng sầu rúc giây buông
Hồn đau tiếc nuối ngậm buồn nghìn năm

Ðàn như tiếng thì thầm vạn kiếp
Khèn như lời nuối tiếc thương hờ
Khúc Chiêm xé ruột thẫn thờ
Cao Tông lại chế tiếng hồ, tiếng thanh

Trong cấm thành tàn canh chưa đã
Ở ngoài biên giặc giã nổi lên
Vua quan một lũ tham tiền
Lâu đài cung điện xây riêng cho mình (1203)

Nước tan tành, dân tình ly tán
Rất nhiều nơi ta thán vua quan
Lại nghe sàm tấu bắt giam
Giết người vô tội, dân càng oán thêm

Bọn Quách Bốc giận đem quân đến (1209)
Xông vào thành quyết chém hôn quân
Cao Tông hoảng vía bạc hồn
Cùng con tháo chạy tới Ðông Bộ Ðầu

Bốc vào thành cùng nhau phế lập
Ðưa Hoàng tử tên Sám lên ngôi
Sĩ Mông, Chính Lại được ngồi
Vào cương vị cũ như thời Cao Tông

Phế Vương chạy ra sông Quy Hóa
Thái tử thì phải quá Lưu Gia (1209)
Ðược nhà Trần Lý đón qua
Giúp vua dựng lại sơn hà từ đây

Nhưng vua vốn là tay kinh suất
Việc triều đình phó mặc các quan
Lại tham lắm của, nhiều vàng
Gây thù kết oán với hàng vương thân

Ngày vua băng vào năm Canh Ngọ (1210)
Thái tử Sám nhân đó lên ngai
Kiến Gia niên hiệu mới thay
Sai thuyền đi đón vợ này ở xa


LÝ HUỆ TÔNG HOÀNG ÐẾ
(1211 - 1224)

Cho thuyền rồng đi nhanh để đón
Trần Thị Dung về chốn kinh sư (1211)
Cùng đi còn có Trung Từ
Nguyên Phi ban chức chiếu thư sẵn sàng

Cho anh vợ đảm đang việc nước
Trần Tự Khánh phong tước Thành hầu
Rồi phong Thái úy năm sau (1216)
Sửa sang việc nước từ lâu rối mù

Còn Trần Thừa phong làm Phán Thủ (1216)
Ở trong cung phục vụ hoàng gia
Mon men đến việc nước nhà
Lên chức Phụ Chính đứng ra điều hành

Giặc Ðoàn Thượng tung hoành ngang dọc (1212)
Dựa thời cơ cướp bóc lương dân
Quân Chiêm đánh phá Nghệ An (1216
Lại thêm Nguyễn Nộn tiếm phần, xưng vương (1220)

Nước thì loạn trăm đường khốn đốn
Kho quân lương hao tổn quá nhiều
Vua thì mắc bệnh hiểm nghèo
Tâm thần phân liệt đủ điều bi ai (1217)

LÝ CHIÊU HOÀNG (1224 - 1225 )

Vua không có con trai nối dỏi
Bèn truyền cho hoàng nữ lên ngôi (1224)
Tháng mười , Chiêu Thánh thay người
Vua bèn xuống tóc , bỏ đời đi tu

Vua xuất gia ở chùa Chân giáo
Bỏ Vương Y, mặc áo nâu sồng
An vui tự tại trong lòng
May ra căn bệnh tâm thần được yên

Lý Chiêu Hoàng vừa lên bảy tuổi
Ðược Ðiện tiền Thủ Ðộ trông coi (1224)
Ðem người hậu hạ bên ngài
Ông cho Trần Cảnh trong vai người hầu

Bọn trẻ con rất mau kết bạn
Thường bày trò chạy trước, cản sau
Nhưng nào chúng có ngờ đâu
Mưu cơ , Thủ Ðộ trong đầu nghĩ ngay

Phải nhanh tay chiếm liền ngôi báu
Bằng mọi đường cho dẫu gian manh
Viết tờ chiếu chỉ nhân danh
Chiêu Hoàng, Trần Cảnh trở thành uyên ương

Lễ nhường ngôi Chiêu Hoàng cho Cảnh (1225)
Ðược tiến hành trong điện Thiên An
Vua ban chiếu chỉ rõ ràng
Nhường cho Trần Cảnh , ngai vàng từ đây

Ðổi niên hiệu chọn ngày mười một
Xuống chiếu rằng đại xá toàn dân
Phong cho Thủ Ðộ đại thần
Là Quốc Trượng Phụ đỡ đần bên vua

Triều nhà Lý, chín vua tất cả
Trải hai trăm mười sáu năm già
Kể từ Công Uẩn tính qua
Ðến đời Chiêu Thánh cũng là khá lâu (1010 - 1225)

Hai trăm năm xôn xao một vẽ
Sân cung đình bóng quế trần gian
Cột chùa một nét bút son
Cũng là định mệnh vô thường đó chăng ?

Nhất bát công đức thủy
Tùy duyên hóa thế gian
Quang quang trùng chiếu chúc
Một ảnh nhật đăng san

Cơ đồ nữa mãnh trăng tan
Tử sinh rồi cũng qua đường trầm luân

QUYỂN 6

TRIỀU ÐẠI NHÀ TRẦN ( 1225 - 1413 )
TRẦN THÁI TÔNG HOÀNG ÐẾ (1226 - 1258)

Kỷ nhà Trần bắt đầu ghi dấu
Kể từ năm Ất Dậu nguyên niên
Thái Tông Trần Cảnh nắm quyền
Ðược Chiêu Hoàng đế đã truyền ngôi cho

Hiệu Kiến Trung kể từ dạo đó
Qua năm sau phế bỏ Thượng Hoàng
Pháp Danh đổi gọi Huệ Quang
Mượn nơi cửa Phật tìm đường nương thân

Chùa Chân Giáo một lần hội ngộ
Ðộ thấy vua nhổ cỏ ngoài sân
Bèn quay nhắn một lời rằng :
“Nhổ cỏ phải nhổ cả thân rễ này”

Hiểu ý ngay âm mưu của Ðộ
Y muốn rằng bức tử mình đây !
Vua bèn treo cổ lên cây
Sau chùa Chân giáo trước ngày trung thu.

Ðem Thái Hậu gả cho Thủ Ðộ
Vua bất kể đó chổ bà con
Khởi đầu một kiểu loạn luân
Chị em trong một họ Trần lấy nhau !

Thập kỷ đầu, trên ngôi cửu ngũ (1225 - 1235)
Việc an dân tất cả đều do
Một tay Thủ Ðộ bấy giờ
Toàn quyền quyết định, bày trò đặt ra

Tiền Tĩnh Bách tung ra khắp nước (1226
Mọi giấy tờ muốn được làm tin
Lăn tay, điểm chỉ mà in
Vào trong đơn viết hai bên đã làm

Lệ hàng năm, lễ thần Ðồng Cổ (1230)
Họp vua quan máu nhỏ ăn thề
Truyền cho Tư pháp lập ty
Ðặt tên Bình Bạc xét về kiện thưa

Cho cải biên “Quốc Triều Thống Chế” (1230)
Viết “Quốc Triều Thường Lễ” mười pho
Soát xem từ trước tới giờ
Lễ nghi, luật lệ, sửa cho hợp thời

Mở khoa thi chọn người trí thức (1232)
Chọn những ai đáng bực tài danh
Tháng hai, vào đúng năm Thìn
Trương Hạnh, Lưu Diễm xướng danh bản tiền

Ðệ nhị giáp : Ðặng Diên, Trình Phẩu
Còn Ðệ tam : Chu Phổ họ Trần
Quốc Miếu húy chữ đã ban
Ðể cho dân biết vương mang chữ này

Lời Thủ Ðộ năm xưa đã rõ
Nhân vào ngày cúng giỗ Tiên Vương (1232)
Tổ chức ở chốn Thái Ðường
Mời người họ Lý bốn phương trở về

Trần Thủ Ðộ sai đi đào hố
Phủ đất rồi dựng ở bên trên
Lể đài hương án trang nghiêm
Giật cho đất sụp giết nguyên mọi người

Qua năm sau tháng hai Giáp Ngọ (1234)
Thượng Hoàng băng vừa độ thu sang
Di hài táng ở Thọ Lăng
Rồi cho Trần Liễu đảm đương chức này

Vua ra lệnh cho xây cung điện
Truyền sai người vét giếng đào kênh
Sổ Dinh rà soát lại xem
Khảo thi tam giáo , sửa đình trùng tu

Triều nhà Trần, thói hư khó nói
Việc đầu tiên là tội loạn luân
Anh em chú bác xa gần
Chị dâu, em rể gió trăng phải lòng

Việc Thái Tông lấy vợ Trần Liễu
Là đề tài đàm tiếu trong dân
Còn Trần Thủ Ðộ bất cần
Vào năm Ất Dậu. lấy luôn chị mình

Chuyện : “ Trần Liễu vào thành khải tấu
Nhân đi ngang nhìn thấy cung phi
Ðộng lòng chó lợn đòi khi
Dở trò nham nhở Liễu đè cưỡng dâm

Còn Trần Cảnh tà tâm làm tới
Cướp vợ anh vừa mới mang thai
Khiến cho Trần Liễu hận đời
Kéo quân hỏi tội cái loài sói lang

Trong đời tư, mười phần xấu hổ
Nhưng việc triều lại tỏ minh quân
Chỉnh trang phép nước mấy lần
Cải cách thuế khóa khép dần vào khuôn (1242)

Việc binh bị tuyển quân khỏe mạnh (1246)
Mở thao trường dạy đánh kiếm côn
Khảo bài để chọn văn quan
Lựa người tài đức để chăm dân tình

Có lần vua, thân chinh đi đánh
Dồn binh về phía cánh Châu Khâm
Ðánh sâu vào trại Như hồng
Châu Liêm sau cũng lọt vòng quân ta

Người nước Tống bỏ nhà bỏ cửa
Chạy trốn về theo ngõ môn quan
Quan, quân nước Tống thất thần
Chăn ngang xích sắt chặn đường quân ta

Năm Dần , Nước chia ra thành Lộ (1242)
Trong toàn quốc có tới mười hai
Dưới là xã, sách rạch ròi
Ðặt chức An, Trấn , giử coi mối giềng

Lụt vỡ thành Ðại La tháng tám (1243)
Rồi tiếp theo cơn hạn tháng tư
Ðắp đê quai vạc để lo
Ngăn dòng nước lũ tuông vô kinh kỳ

Vào mùa thu mở thi tiến sĩ (1247)
Lệ bảy năm khảo thí một lần
Bốn tám người đỗ học sanh
Họ Lê, họ Ðặng riêng giành tối ưu

Lê Văn Hưu danh lưu Bảng nhãn
Ðặng Ma La vào hạng Thám hoa
Tam khôi giờ mới phân ra :
Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa rõ ràng

Năm Tân Hợi vua ban bài viết (1251)
Cả một chương về việc dạy con
Dạy về cung, kiếm, lương, ôn
Dạy về hòa, tốn , nhớ lòng hiếu trung

Tết nguyên đán vui chung đình đám
Cho diễn trò triển lãm để xem
Kết hoa, hội chợ, treo đèn
Trai thanh gái lịch xem nguyên bảy ngày

Cũng năm này, toàn dân Mông Cổ
Tôn Mông Kha làm chủ Trung Nguyên
Em Kha chiếm hết toàn miền
Vân Nam, Ðại Lý thuộc quyền ngoại Mông

Trần Thái Tông sắc phong Lưu Thủ
Cho Nhật Hiệu trấn giữ đất xa
Kinh thành biên ải phòng xa
Vua thân thống lĩnh như là tướng quân

Cuối mùa đông vào năm Nhâm Tý (1252)
Bộ Da La vợ quý Chiêm Thành
Bị ta bắt sống một mình
Lúc ta đánh chiếm hành dinh nước này

Vua hạ lệnh đổi thay quân kỷ
Xuống chiếu mời lực sĩ trong dân
Võ đường, côn kiếm luyện gân
Mở quốc tử giám lập trường giảng kinh

Huy động người vét kinh xây đập
Lo kiện toàn bồi đắp đê sông
Hà đê Chánh phó bố phòng
Cho dân mua lại ruộng công cấy cày (1254)

Xuống chiếu sai vét sông Tô Lịch (1256)
Mở khoa thi khuyến khích người hiền
Quốc Lặc chấm đỗ Trạng Nguyên
Chu Hinh Bảng nhãn, tiếp liền Thám hoa

Quân Mông Cổ dần dà chiếm cứ
Suốt Trung Nguyên cho tới Vân Nam
Nguyên cho sứ giả đi sang
Giữa năm Ất Tỵ dụ hàng đức vua

Vào mùa thu, tin từ Quy Hóa (1257)
Báo về triều sứ đã tới nơi
Nói năng ngạo nghễ lắm lời
Vua bèn hạ lệnh trói tay giam liền

Chọn ngày lành trung tuần tháng chín
Thủy, bộ quân gởi đến biên thùy
Giao cho Quốc Tuấn chỉ huy
Vòng đai phòng ngự trấn vì dọc biên

Vua lại truyền sắm thêm vũ khí
Trữ quân lương chuẩn bị sẵn sàng
Ðợi quân của tướng Ngột Lương
Lọt vào cửa tử dọc đường Cà Giang (1258)

Bình Lê Nguyên, bẫy giương đợi giặc
Sông bên này san sát ngựa voi
Quân Nguyên vừa kéo tới nơi
Bị ta mai phục đánh lui bọn này

Triết Triệt Ðộ, cho người qua trước
Còn Hoài Ðô chậm bước theo sau
Quân ta chận đánh đón đầu
Ðịch lâm vào thế ra vào chẳng xong

Phía hạ lưu giặc đông như kiến
Lính nhà Trần vẫn tiến đánh sang
Dụ cho chúng đến cùng đường
Ðột nhiên đánh úp cắt ngang toán này

Vua nhà Trần đổi ngay chiến lược
Cắt đội hình từng bước ém quân
Ðịa bàn Cự Bản lui dần
Sông Lô án ngữ mấy trăm chiến thuyền

Ðại quân Nguyên thấy liền khuyết điểm
Nhắm thuyền Vua cung tiễn bắn sang
May mà lúc đó Lê Tần
Gan lì chịu đựng quay ngang mạn thuyền

Rồi lấy khiên đưa lên đỡ đạn
Ðể mình rồng khỏi chạm phải tên
Cho quân chèo rút thật êm
Xuôi về Phù Lỗ cho truyền lệnh ngay

Vua lo lắng gặp ngay Nhật Hiệu
Hỏi kế sách giải quyết tình hình
Ông này ngậm miệng làm thinh
Lấy tay chấm nước viết thành nữa câu

Vua trông thấy chữ đầu : “Nhập Tống”
Vừa thoạt trông thất vọng vô cùng
Chưa gì tính chuyện bại vong !
Làm sao xứng đáng với lòng dân yêu ?

Ngài lập tức dời thuyền đến hỏi
Quan Thái sư Thủ Ðộ thưa rằng
“Chưa rơi xuống đất, đầu thần
Kính mong Bệ Hạ bình tâm như thường”

Mưu cướp thuyền vô phương thành tựu
Tướng Ngột Lương trách cứ Triệt Ðô
Tên này vừa sợ, vừa lo
Uống liều thuốc độc để cho xong đời

Ngày hôm sau vua sai phá sập (1258)
Cầu Phù Lỗ đã bắc qua sông
Chận đường giặc đuổi tấn công
Lập ra phương án Thăng Long rút về

Trước thế giặc đang bề hưng phấn
Quân nhà Trần lẩn tránh giao tranh
Dụ cho địch đuổi chạy quanh
Hao hơi, nhọc sức chúng đành dừng quân

Ở Thăng Long, quân Trần bỏ trống
Bốn cửa thành vắng bóng Tứ Sương
Linh Từ Quốc Mẫu lên đường
Ðem theo Thái Tử, cùng hàng thân vương

Cả một đoàn con quan, vợ tướng
Theo Lịnh bà về hướng Ðông Nam
Xuôi dòng Thiên Mạc rẽ ngang
Chọn nơi hiểm yếu tìm đường lánh thân

Mười hai ngày quân Trần bị đánh
Lệnh rút về ổn định quân binh
Lựa lúc tốc đánh thình lình
Tập kích địch hoảng bỏ thành thoát thân

Ðông Bộ Ðầu bày quân bố trận
Cho người vào thám thính mặt sau
Biết rằng địch đã tiêu hao
Thiếu lương quân đói và đau khá nhiều

Truyền Thái Tử đem theo lính thủy
Thọc cạnh sườn đánh quỵ hậu quân
Lâu thuyền bám sát bên chân
Ðuổi theo lưng địch đến gần Vân Nam

Ðường tháo chạy đi ngang Qui Hóa
Ta tập kích ở giữa khoảng này
Giặc Nguyên hỗn loạn loay hoay
Bị quân Hà Bổng giáng ngay mấy đòn

Thua nhục nhã vội vàng che đậy
Ðổ lỗi rằng bên ấy Phương Nam
Sơn lam chướng khí quanh năm
Muỗi mòng uất nhiệt khí âm nặng nề

Giặt thất trận trở về nhếch nhác
Thân ngựa què lại vác thương binh
Tìm đường chạy trốn lấy mình
Còn đâu nghĩ chuyện đốt thành cướp lương

Dân ta diễu gọi phường “giặc Phật”
Kiểu kêu này nghe thật mỉa mai
Mới qua hung dữ tác oai
Khi về thất trận chạy dài... hiền khô !!!

Về kinh đô sau ngày chiến thắng
Ðất nước ta sạch bóng quân thù
Sửa sang cung điện như xua
Xây thêm thành lũy, đình chùa miếu lăng

Ngày mồng một đầu năm Mậu Ngọ (1258)
Trước triều đình vua ngự trên ngai
Ðiểm danh công tội từng người
Nhớ ơn tử sĩ lập đài ghi công

Xuống chiếu phong Ðại phu ngự sử
Cho Lê Tần vì đã có công
Và khen Hà Bổng hết lòng
Giữ yên biên giới trấn phong cõi ngoài

Gả Chiêu Hoàng cho quan Ngự sử
Trần Thái Tông không kể tình thâm
Chung chăn, chung gối, bao năm
Vợ mình chịu để ăn nằm với ai !

TRẦN THÁNH TÔNG HOÀNG ÐẾ
(1258 - 1278)

Vào một ngày tháng hai, năm Ngọ
Vua truyền ngôi, nhường chỗ cho con
Thánh Tông năm ấy vừa tròn
Tuổi lên mười tám đủ khôn với đời

Lễ nhường ngôi cho Hoàng Thái Tử
Lui về nhà ở tại Bắc Cung
Con tôn lên chức Thượng Hoàng
Trông coi chính sự chung cùng với con

Xuất gia rồi lên non Yên Tử
Gột lòng trần vui thú kệ kinh
Thành tâm sám hối đời mình
Ðời như bóng nước, vô minh đắm chìm

Cửa thiên môn đã quen hôm trước
Bữa tương chao ở trốn Trúc Lâm
Thái Tông lùng kiếm cái tâm
Viết thành Phổ Thuyết Sắc Thân để truyền

Tam thời trần liễm thiên biên tử
Nguyệt lạc tường giang dạ kỷ canh
Ngôi cao những bước gập ghềnh
Mượn màu thiền đạo giúp mình định tâm

Mười chín năm đi tìm bến Giác
Chuyện triều đình ủy thác cho con
Chuyên tâm nghiên cứu Thiền Tông
Ðến năm Ðinh Sửu Thái Tông băng hà

Ráng trời chiều sương sa mặt nước
Gió trầm luân một bước thế gian
Có không trở giấc kê vàng
Khoanh tay có được vô thường hay chăng ?

Ngồi ở trên ngai vàng Hoàng Ðế
Là Trần Hoảng lên thế Thái Tông
Ðổi thành niên hiệu : Thiên Long
Lo cha yên vị , lập cung riêng mình

Thánh Tông sinh vào năm Canh Tý
Là một người có chí, có nhân
Tôn hiền, trọng đạo, thương dân
Kế thừa cơ nghiệp nhà Trần về sau

Hăm mốt tuổi cầm đầu đất nước
Vua đã đi những bước vững vàng
Xiển dương văn hóa dân gian
Chỉnh trang quân đội, lo toan quốc phòng

Việc hành chánh chưa thông, phải sửa
Khắp mọi vùng đều mở Thái y (1261)
Nơi nơi đều có trạm, ty
Chăm lo sức khỏe cấp kỳ cho dân

Lấy những người tinh thông nghề nghiệp
Tôn làm thầy hướng dẫn dạy dân
Khuyến nông trồng trọt chuyên cần
Lập phường, lập hội ngày dần phồn vinh

Ðể tôn vinh những người cao tuổi
Thượng hoàng bày một buổi tiệc to
Lão ông ban tước hai tư
Lão bà được tặng lụa vua đề dành

Việc giáo dục ưu tiên tối thượng (1272)
Lấy đạo Nho làm hướng trị dân
An sinh xã hội đang cần
Ðem lời Khổng Mạnh để răn mọi người

Ðịnh qui chế tuyển người làm việc (1275)
Phải tinh thông, chữ viết cho nhanh
Nghề nào, nghiệp đó phải rành
Mới cho bổ nhậm trong thành, ngoài biên

Lại xuống chiếu chiêu hiền đãi sĩ
Mở khoa thi định lệ hằng năm
Chọn người vào viện Hàn Lâm
Lựa ai tài giỏi nhiệt tâm để dùng

Dạy Ðông cung mời thầy uyên bác
Thông Ngũ kinh, làu thuộc Tứ Thư
Chọn người đức hạnh có thừa
Hiểu thông Phật giáo lại vừa Minh kinh

Lê Văn Hưu vốn rành lịch sử (1272)
Ðại Việt Sử vừa mới viết xong
Ba mươi quyển ấy gồm chung
Viết từ Triệu Vũ đến năm Chiêu Hoàng

Năm Bính Dần nhà vua xuống chiếu (1261)
Cho vương hầu, công chúa khai hoang
Mộ dân cày cuốc mở mang
Phá rừng, khẩn đất lập thành điền trang

Chia binh lính ra thành đội ngũ (1267)
Chọn Tôn thất nghề võ thật tài
Một Ðô gồm tám mươi người
Quân gồm ba chục Ðô này vừa đông

Cho tập trận nơi sông Bạch Hạc
Lại sai người chế tác gươm đao
Ðóng thêm thuyền chiến để vào
Góp phần dự trữ khi nào giao tranh

Ðể biết thêm nội tình của địch
Vua ngầm sai tình báo sang Nguyên
Thế Quang mượn cớ đi tìm
Thu mua thảo dược mà đem về dùng

Vào mùa đông tháng mười Giáp Tuất (1274)
Ba mươi thuyền Trung Quốc ghé vô
Xin vua lánh nạn rợ Hồ
Nhai Tuân cấp đất lưu cư tạm thời

Hốt Tất Liệt sai người sang dụ
Vua liền sai chánh sứ mang thư
Sang Nguyên thông hiếu đáp từ
Phụng Công, Nguyễn Thám công du chuyến này

Năm Kỷ Mùi, Linh Từ Quốc Mẫu (1259)
Người từng là Hoàng Hậu Huệ Tông
Ðến khi Thủ Ðộ loạn luân
Lấy ngay kẻ ấy làm chồng về sau

Bỏ Huệ Tông là điều bất nghĩa
Theo thái sư thất tiết tất nhiên
Nhưng là mẹ của Thuận Thiên
Nên chi vua phải đương nhiên gọi : Bà

Năm năm sau khi bà vừa thác
Trần Thủ Ðộ cũng bước qua đời (1264)
Tỏ lòng ngưỡng mộ với người
Thái Tông chế tác một bài văn bia

Triều nhà Trần sống quen thành lệ (1268)
Cùng họ Trần có thể lấy nhau
Hoàng gia khi đã bãi chầu
Vào trong cung điện, sân sau lan đình

Trong cung cấm linh đình yến tiệc
Rồi cùng nhau ăn uống no nê
Khi nào trời tối không về
Vào trong ở lại giường kề ngủ chung

Lúc thong dong thơ văn xướng định
Bạn của ngài Tuệ Tĩnh thiền sư
Vua làm hai quyển Di thư
Sách “Di hậu lục” dạy cho con mình

Chọn ngày lành nhường ngôi hoàng đế
Cho con mình thái tử Trần Khâm
Tháng mười ngày tốt, năm Dần (1278)
Lui về phủ đệ dành phần cho con


QUYỂN 7

TRẦN NHÂN TÔNG (1278 - 1293)

Trần Nhân Tông con bà Thiên Cảm
Là cháu ngoại Từ Thiện Ðại Vương
Xiển dương sự nghiệp trùng hưng
Nhân từ hòa nhã, hết lòng vì dân

Người cũng đã hai lần chiến đấu
Và hai lần chiến thắng quân Nguyên
Xứng danh là đấng vua hiền
Có công đánh dẹp giữ yên cõi bờ
Ðể đo đạc vua ban thước gỗ (1280)
Khắp mọi miền một cỡ mà thôi
Pháp đình xử án đúng, sai
Ðặt ra “kiểm pháp” biết ngay rõ ràng(1280)

CUỘC CHIẾN ÐẤU CHỐNG NGUYÊN MÔNG
LẦN THỨ HAI NĂM 1285

Năm Nhâm Ngọ, Bình Than đại hội (1280)
Vua bàn kế phòng thủ, phản công
Khánh Dư, phó tướng được phong (1282)
Quốc Toản còn nhỏ nên không được bàn

Lòng hổ thẹn, sôi gan tuổi trẻ
Tay anh hùng bóp vỡ quả cam
Trở về chiêu mộ ngàn quân
“Phá cường địch, báo hoàng ân” quyết thề

Thuyền tiểu tướng xông lên mũi sóng
Bóng cờ vàng lồng lộng gió bay
Quân Nguyên trông thấy chạy dài
Nam quân thắng lợi kể ngay phút đầu

Lễ tấn phong Ðại vương Quốc Tuấn (1283)
Làm tiết chế thống lĩnh toàn quân
Duyệt binh ở tại bến Ðông
Truyền nơi xung yếu phải cần chỉnh trang

Ðiện Diên Hồng bốn phương về họp(1284)
Ðể toàn dân cùng góp một lời
Ý dân biểu hiện ý trời
Là Hòa hay Chiến muôn người cùng hô

Một tiếng hô ta thề quyết chiến :
Với kẻ thù quyết đánh một phen
Toàn dân cùng một lời nguyền
Thề rằng phải đuổi quân Nguyên ra ngoài

Trần Di Ái được sai đi sứ(1281)
Ðến nước người thì lại phản vua
Ðem theo quân giặc trở về
Sài Thung Nguyên sứ coi bề hung hăng

Lại nghe rằng Toa Ðô sửa soạn
Năm mươi vạn tiến thẳng phương Nam (1282)
Giả vờ hỏi tội Nam Man
Thực ra là để mượn đường xâm lăng

Trần Hưng Ðạo điều quân các lộ (1284)
Ở Hải Ðông , cửa ngõ Vân Trà
Theo thuyền vượt biển ngang qua
Vào nơi Ba Ðiễm Sơn Trà cực Nam

Tướng Mông Cổ vào năm Nhâm Ngọ (1282)
Là Toa Ðô đổ bộ Chiêm Thành
Chiến thuyền cùng với thủy binh
Tấn công thành gỗ vây quanh Ðồ Bàn(1283)

Pháo ba cần cản đường quân giặc
Dựa thế rừng vây chặt Nguyên Mông
Giằng dai đã mấy tháng ròng
Giặc Nguyên đang ở thế cùng cạn lương

Vờ giả hàng, chúa Chiêm sai sứ
Bảo rằng thưa : Quốc chủ đến sau
Nay sai Bảo Thoát sang chầu
Chế Mân thế tử sẽ hầu vào sau

Một mặt khác, vua cầu cứu viện (1282)
Cử sứ sang Ðại Việt, Bồ Ðà
Lân bang Chân Lạp cũng qua
Liên minh hợp lại để mà chống Nguyên

Cứu nước Chiêm trong cơn nguy biến
Vua nhà Trần gởi viện binh sang (1284)
Hai mươi vạn lẻ mấy ngàn
Năm trăm thuyền chiến lên đàng cứu nguy

Giặc Nguyên Mông đang lo nơm nớp
Ðợi viện binh trong lúc thế cùng
Quân Chiêm, Ðại Việt phản công
Toa Ðô bí thể buộc lòng lui quân (1284)

Hốt Tất Liệt điều quân để đánh
Bảo Toa Ðô phải lánh dưỡng binh
Vào đất Ô Lý, Chiêm Thành (1284)
Tạm thời ẩn nấp sẽ truyền lệnh sau

Xuống chiếu giao lấy người phụ tá
Cho con mình thế tử Thoát Hoan
Lên đường tiến chiếm phương Nam
Lập ra kế hoạch ăn loang vết chàm

Quân xâm lược chia làm ba cánh (1285)
Mũi tiến công là cánh Tư Minh
Vân Nam là cánh viện binh
Toa Ðô từ hướng Chiêm Thành đánh lên

Theo kế hoạch truyền liền mật lệnh
Cùng một lúc ba mũi tiến công
Vạn Kiếp nhanh chóng chiếm xong (1285)
Vượt sông qua đánh Thăng Long tức thời

Giặc chiếm ngay kinh thành bỏ trống
Ðốc đại quân tổng tấn công ta
Ðà Mạc giặc đã tràn qua
Bắt Trần Bình Trọng đưa ra dụ hàng

“Nếu thuận theo : làm vương đất Bắc
Bằng không thì, sẽ giết làm gương”
“Ta thà là quỷ nước Nam
Còn hơn phản quốc làm vương xứ người”

Giặc tức quá giết người khí tiết
Sai quân về đem tiếp viện thêm
Toa Ðô từ dưới đánh lên
Kẹp quân ta giữa ba bên bốn bề

Vua sai Dương ra đi xin hoãn (1285)
Xin cầu hòa, cốt được bãi binh
Ðể làm dịu bớt tình hình
An Tư công chúa hiến mình dâng cho(1285)

Trước thế nước nguy cơ bại trận
Trần Nhân Tông hỏi vặn Ðại Vương :
“Thế nào !” - Hưng Ðạo tâu rằng :
“Chặt đầu thần trước, sẽ hàng giặc sau”

Chương Hiến Hầu ra hàng quân giặc
Chiêu Quốc Vương bắt chước theo sau
Ích Tắc, Lê Diểu cùng nhau
Ðem theo gia thuộc ra đầu Toa Ðô

Trần Nhật Duật, thái sư Quang Khải
Cùng lên đường quay ngược về kinh
Tây kết, Quốc Tuấn dàn binh
Cắt đức liên lạc vây quanh kẻ thù

Cửa Hàm Tử thừa cơ tập kích
Cùng Triệu Tung đánh địch chạy dài
Trần Thông, Quốc Toản dương oai
Chương Dương thừa thắng đuổi ngay khỏi thành

Quân Thoát Hoan bỏ thành trốn chạy
Ðể lại gần hết thảy binh lương
Bị quân Hưng Ðạo chắn ngang
Gặp ngay Quốc Toản cắt đường rút lui

Ðến Vạn Kiếp tìm nơi xoay trở
Bắc cầu phao tạm đỡ qua sông
Cầu phao lại gãy nửa chừng
Giặc Nguyên chết đuối vô cùng thảm thương

Ta phục kích dọc đường giặc chạy
Quân chúng còn chỉ mấy ngàn binh
Rút về theo hướng Tư Minh
Thoát Hoan chạy đến Vĩnh Bình gặp ngay

Hưng Vũ Vương con trai Hưng Ðạo
Chận trên đường cầm giáo chắn ngang
Ống đồng giặc giấu Thoát Hoan
Tìm phương tẩu thoát chạy sang bên Tàu

Ùn ùn sau quân Nguyên tán loạn
Tướng Lý Hằng trúng phải mũi tên
Tên đâm mà chẳng chết liền
Cõng về đến ải, Lý bèn tắt hơi

Một cánh khác rút lui theo hướng
Về Phù Ninh tạm đóng giữa đường
Bị quân Hà Ðặc đánh luôn
Tàn quân Mông Cổ tìm đường thoát thân

Ở Tây Kết quân Trần vây hãm
Tổng quản Nguyên thế cạn đầu hàng
Toa Ðô chi xiết bàng hoàng
Cánh quân thủy bộ lại càng rối ren

Ô Mã Nhi leo thuyền chạy lẹ
Còn Toa Ðô lại bị chém đầu
Tiểu Lý cố gắng theo sau
Biết rằng khó thoát, kéo nhau ra hàng

Cuộc xâm lăng thế là thất bại
Hai vua Trần trở lại Thăng Long
Quan dân, binh lính một lòng
Cùng chung ý chí chung lưng diệt thù

Khúc khải hoàn thiên thu còn đó
Thái bình tu nỗ lực nước non
Chương Dương cướp giáo hãy còn
Nghe trong Vạn Cổ dậy hồn núi sông

Tự đáy lòng tướng Trần Quang Khải
Làm bài thơ để lại như sau :
Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Bốn câu mà đến ngàn năm
Vẫn còn phản phất chiến công vang lừng


CUỘC CHIẾN ÐẤU CHỐNG NGUYÊN MÔNG
LẦN THỨ BA NĂM 1287

Dù thất bại giặc Mông chưa bỏ (1286)
Mộng xâm lăng, còn cố phục thù
Sứ sang bàn bạc : trả tù
Nhân cơ hội đó thăm dò nước ta

Vua xuống chiếu kiểm tra hộ khẩu
Ðể điều nghiên hiểu thấu dân tình
Hưng Ðạo : vua giao việc binh
Ðại Vương Ðức Việp cho quyền Quốc sư (1287)

Hốt Tất Liệt phong cho thế tử (1286)
Nắm trọn quyền quân thứ binh lương
Quân chia ba đạo lên đường
Khâm Châu tập kết sẵn sàng vượt sông

Ngày Bính Ngọ, Thoát Hoan vừa đến (1287)
Ở Lộc Bình thẳng tiến Ðông, Tây
Ào ào chỉ có bốn ngày
Khắp vùng Vạn Kiếp đã đầy quân Nguyên (1288)


Cánh Vân Nam dưới quyền Tây Hạ
Sáu nghìn quân cũng đã sẵn sàng
Vượt qua Bạch Hạc, Phú Lương
Hội quân Vạn Kiếp mở đường thọc sâu


Ô Mã Nhi, Khâm Châu vượt biển
Với năm trăm thuyền chiến dàn quân
An Ban đánh bạt quân Trần
Hai quân thủy, bộ giặc gần gặp nhau

Ðến điểm hẹn mặt sau Vạn Kiếp (1288)
Giặc Nguyên Mông xảo quyệt ranh ma
Xây thành đắp lũy để mà
Biến thành cứ địa vào ra dễ dàng

Sai Lưu Uyên đem quân đánh tới
Lấn chiếm vùng quanh núi Chí Linh
Dựng lều che trại, đắp thành
Làm kho dự bị để dành chứa lương

Lương cướp được trên đường sục sạo
Bốn mươi ngàn thạch gạo của dân
Tạm thời cứu vãn nuôi quân
Chờ Trương Văn Hổ đã gần tháng qua(1288)

Ở Thăng Long quân ta thất thế (1288)
Bỏ kinh thành rút đến Hám Nam
Bày binh bố trận cọc ngầm
Ðợi khi quân giặc ăn dần hết lương

Nơi Vạn Kiếp đặc đương nao núng
Còn vua Trần : Trúc Ðộng điểm quân
Khi ẩn, khi hiện như thần
Khiến cho tướng giặc bội phần lo âu

Chiến tranh để tiêu hao kẻ địch
Giặc yếu dần co xích gần nhau
Gióng cờ phía trước đánh sau
Ðánh cho đất thảm, trời sầu mới thôi

Ban đêm giặc chẳng rời khỏi trại
Ðợi sáng trời mới lại ra quân
Thiếu ăn, quân số hao dần
Ðúng ngày Nhâm Ngọ rút quân chạy về

Khí thế giặc bốn bề tan rã
Lo phận mình tướng tá đòi lui
Thoát Hoan chán nản ngậm ngùi
Tiến lên chẳng nổi thối lùi không xong

Ba năm trước ống đồng tháo chạy (1285)
Nỗi hận này còn cháy trong tim
An Tư công chúa trước rèm (1284)
Lần này e chết nơi miền đất xa (1288)

Giặc muốn rút đường qua trắc trở
Ðám tàn binh lại ở thế cùng
Trần kênh vách núi lưng chừng
Dưới sâu vực thảm, cây rừng chắn ngang

Bạch Ðằng Giang còn vang thuở trước (1288)
Hàng cọc ngầm đáy nước trồi lên
Ðâm xuyên ván thủng chiến thuyền
Thuyền úp, giặc chết ngửa nghiêng sóng dồi

Trương Ngọc chết Mã Nhi bị bắt (1288)
Tích Lê Cơ xin được đầu hàng
Quân nhu bỏ lại đầy đường
Quân ta thu được mấy ngàn thuyền lương

Giặc Mông Cổ cùng đường đại bại
Bạch Ðằng Giang làm bãi chôn quân
Vua Nguyên căm giận bội phần
Ba lần xâm lược, ba lần trắng tay

Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ
Hoan Diễn còn kia chục vạn quân
Là lời nhắn của vua Trần
Dành cho lủ giặc hung tàn Nguyên Mông

Hốt Tất Liệt vô cùng giận dữ
Ðày con mình thế tử Thoát Hoan (1289)
Dương Châu đất trích dặm ngàn
Chung thân chốn ấy khó toan trở về

Cuối tháng ba quay về chốn cũ (1288)
Cả kinh thành bị phá tan hoang
Ðền đài kể cả Chiêu Lăng
Âm hồn phản phất hương tàn nam giao

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ diện kim âu
Non sông ngàn thuở về sau
Chiến công Mậu Tý (1288) đi vào sử xanh

Vua xuống chiếu giảm thêm thuế má
Lệnh truyền ra đại xá cho dân
Cử ngay phái bộ sứ thần (1288)
Sang Nguyên xin được giải phân mọi điều

Ô Mã Nhi vâng theo giao ước(1289)
Trao trả về lại nước Trung Hoa
Ðời vay có lại có qua
Dùi thuyền , chết đuối cũng là oan khiên

Vua Thánh Tông trong niềm cảm hứng
Viết bài thơ đến tận hôm nay
Ðọc lên như ngỡ bên tai à.
Chiến công hiễn hách của người năm xưa

Cảnh thanh u , vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu , thử nhất châu
Bách bộ sơn ca, cầm bách thiệt
Thien hàng nô bộc quất thiên đầu

Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàmthiên hữu thu
Tứ hãi dĩ thanh trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng tích niên du

Theo chiếu vua định công dẹp giặc (1289)
Kết án loài phản trắc, nước đôi
Ghi ơn công trạng từng người
Trung Hưng Thực Lục vua sai vẽ hình (1289)

Trong chiến tranh người Nam kẻ Bắc
Cũng có người theo giặc xin hàng
Ðến khi đất nước bình an
Nhân bắt hòm biểu xin hàng trước kia

Thượng hoàng sai đốt đi tất cả (1289)
Ðể yên lòng những kẻ phản vua
Ðịnh công luận tội lựa cho
Mỗi người mỗi cảnh mà chưa được dùng

Năm Canh Dần, đầu xuân xuống chiếu(1290)
Ðánh Ai Lao áp đảo Nam Di
Cất quân chinh phạt thị uy
Lân bang kiếp vía man di xin chừa

Gặp nạn đói mở kho chẩn cấp(1290)
Thuế dân đinh bỏ bớt đi nhiều
Thăm dân để biết dân kêu
Lấy quan văn học để điều tới nơi

Thuật dùng người khó ai bằng được
Lấy công bằng làm thước mà đo
Lấy nhân lấy nghĩa mà cho
Sửa sai phép nước trước giờ còn đang ... (1292)

Xuống chiều rằng hễ làm văn tự (1292)
Thì chép thành hai thứ bản sao
Của người một bản ta trao
Người kia giữ một ịn vào làm tin

Việc xữ phạt nghiêm minh đúng luật
Dân được quyền thắc mắc điều chi
Trống đình , quan phải lắng nghe
Tiếng dân khiếu nại phải ghi rỏ ràng

Trong cuộc chiến vì dân giữ nước
Có nhiều người dáng được lưu danh
Như là con của Yên sinh
Ðại Vương Quốc Tuấn điều binh diệt thù

Vua phong cho Quốc công tiết chế(1283)
Thống lĩnh quân tìm kế bày mưu
Chọn binh , quân hiệu hổ phù
Chỉ huy , tác chiến dể hồ mấy ai

Cho ra đời Binh Gia Yếu Lược
Sách đầu giường cho các tướng quân
Hịch tướng sĩ một ánh văn
Là lời tuyên chiến viết bằng máu xương :

1-Ta thường nghe : Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao đế, Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương, Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ. Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước. Kỉnh Ðức, một chàng tuổi trẻ thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây, Thế Sung, Cảo Khanh một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa khí, bỏ mình vì nước, đời nào không có ? giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được !
Các người con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.
Vương Công Kiên là người thế nào ? Tì tướng của ông là Nguyễn văn Lập lại là người thế nào ? Mà giữ thành Ðiếu Ngư nhỏ như cái đấu, đuờng đường chống với quân Mông khá đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời nay còn đợi ơn sâu ! Cốt Ðài Ngột Lang là người thế nào ? Tì tướng của ông là Xích Tu lại là người thế nào ? Mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu trong vài tuần khiến cho quân trưởng đời Nguyên, đến nay còn lưu tiếng tốt !

2- Huống chi ta cùng các người sinh phải thời loạn lạc lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng thamkhông cùng, giả hiệu Vân Nam vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn.Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau ?
Ta thường tới bửa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
3- Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Ðãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo việc làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quí ngàn vàng khôn chuộc. Vả lại, vợ bíu con ríu, việc quân cơ trăm sự ích chi, tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, tacùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các người cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khõi mang tên là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không ?
4- Nay ta bảo thật các ngươi : Nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập được cung tên khiến cho người ngươì giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc của các ngươi cũng đời đời hưởng thụ, chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền, chẳng những danh hiệu của ta không bị mai một mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ dẫu các ngươi không muốn vui vẻ, phỏng có được không ?
5- Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là “Binh thư yếu lược”. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy ? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi sau đây sau khi giặc đã dẹp yên muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa ? Ta viết ra bài hịch này để các người biết bụng ta.
Bài hịch đó cũng là tuyên bố
Cho mọi người thấy rõ toàn dân
Chung lưng đoàn kết quây quần
Quyết tâm sắc đá đánh tan giặc ngoài

Có nhiều người trở thành danh tướng
Như Yết Kiêu , Dã Tượng , Khắc Chung
Ðỗ Hành , Man trưởng một lòng
Tất Năng , Quang Khải cùng chung chiến hào

Trần Quang Khải cầm đầu chính phủ (1271)
Theo Thánh Tông đánh lũ Nguyên Mông
Một người học thức uyên thâm
Biết nhiều tiếng nói sắc dân ít người

Ðể lại đời tập thơ Lạc Ðạo
Lời khẩu khí in dấu chiến công
Vì dân phục vụ hết lòng
Trông coi việc nước chẳn mòng việc riêng

Trần Khánh Dư nắm quyền thủy lộ
Dù không ưa vua cứ tin dùng
Phục kích đánh trận Vân Ðồn
Bắt nguyên tướng giặc , thuyền lương khí tài

Bài đề tựa do tay Dư viết
Cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư
Ðó là binh pháp trận đồ
Của Trần Hưng Ðạo soạn cho các nhà

Dư cũng nhà đầu cơ có hạng
Tính tình thì sống sượng tham lam
Ðã cùng công chúa thông dâm
Ðầu cơ tích trử món hàng Ma Lôi

Biết bao người anh hùng tử sĩ
Góp máu đào sá kể lưu danh
Sẳng sàng xông trận hy sinh
Bọc thây da ngựa hiến mình vì dân

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.