Jul 26, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III 🌹
Tùng Cương * đăng lúc 11:08:31 AM, Jun 24, 2024 * Số lần xem: 243
Hình ảnh
#1
#2
#3
#4
#5
#6
#7

 

              

 

Tùng Cương dịch
                      
Yevgeny Onegin, A. Puskin


            Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
          
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛     
                                 

                              ❤ 🌹 ❤

                      Chương III
 

              Elle était fille, elle était amoureuse

           Malfilatre.

I.

«Куда? Уж эти мне поэты!»
— Прощай, Онегин, мне пора.
«Я не держу тебя; но где ты
Свои проводишь вечера?»
— У Лариных. — «Вот это чудно.
Помилуй! и тебе не трудно
Там каждый вечер убивать?»
— Нимало. — «Не могу понять.
Отселе вижу, что такое:
Во-первых (слушай, прав ли я?),
Простая, русская семья,
К гостям усердие большое,
Варенье, вечный разговор
Про дождь, про лен, про скотный двор…»

 

Nàng là thiếu nữ, nàng đã yêu rồi

Malfilatre

I.

“Đi đâu thế? Ơi anh chàng thi sĩ!”

-Xin chào  Ônhêghin, đến giờ tôi về nhỉ.

“Tôi không giữ anh thêm ; Nhưng anh biến đi đâu,

Mà mất tăm mấy chiều tối đã lâu?”

-Đến nhà bác Larin.- “Sao kỳ quá.

Hãy tha thứ! Thế anh không thấy khó 

Giết thời gian, tối nào cũng ở bên nàng?”

-Chẳng hề gì.- “Tôi không hiểu chuyện này.

Lần đầu tiên, có điều mà tôi thấy:

Trước hết (hãy nghe, lời tôi đúng không đấy ?),

Một gia đình Nga thường thấy nhất là:

Rất nhiệt tình, niềm nở đón khách tới nhà,

Đãi khách mứt nhà làm, chuyện kề cà muôn thuở 

Hết súc vật, sang trồng lanh, rồi mưa gió…”

 

II

— Я тут еще беды не вижу.
«Да скука, вот беда, мой друг».
— Я модный свет ваш ненавижу;
Милее мне домашний круг,
Где я могу… — «Опять эклога!
Да полно, милый, ради бога.
Ну что ж? ты едешь: очень жаль.
Ах, слушай, Ленский; да нельзя ль
Увидеть мне Филлиду эту,
Предмет и мыслей, и пера,
И слез, и рифм et cetera?..
Представь меня». — Ты шутишь. — «Нету».
— Я рад. — «Когда же?» — Хоть сейчас.
Они с охотой примут нас.

 

II.

-Tôi chẳng thấy điều gì không hay cả.

“Nhưng buồn tẻ, bạn ơi, thì đây là tai họa”.

-Tôi chẳng ưa thế giới thời thượng của anh;

Tôi chỉ mê nội bộ trong gia đình,

Nơi có thể… - “Lại chuyện điền viên nói quá!

Đủ rồi đấy, bạn tôi ơi, xin vì Chúa.

Thế thì sao? Anh đi hả, tiếc biết bao.

Trời, Lensky, nghe tôi nói; có cách nào 

Cho tôi gặp nàng Philida này nhỉ,

Cô thôn nữ chiếm luôn ngòi bút, suy nghĩ,

Nước mắt, thơ phú của anh, et cetera?…

Cho tôi làm quen nhé “. -Anh đùa hả. -“Không mà”.

-Rất hân hạnh.-“Vậy bao giờ?”. - Ngay lập tức.

Cả gia chủ sẽ đón ta đầy hạnh phúc.

 

9.Филлида- châm biếm, cách gọi cô thôn nữ, còn trinh trắng.

 

III.

Поедем. — 
Поедем.Поскакали други, 
Явились; им расточены 
Порой тяжелые услуги 
Гостеприимной старины. 
Обряд известный угощенья: 
Несут на блюдечках варенья, 
На столик ставят вощаной 
Кувшин с брусничною водой, 
(В деревне день есть цепь обеда.
Поджавши руки, у дверей
Сбежались девушки скорей
Взглянуть на нового соседа,
И на дворе толпа людей
Критиковала их коней.)[~ 2]

 

III.

Nào đi nhé! Hai bạn phi xe ngựa,

Họ xuất hiện; Chủ nhà đón tận cửa,

Rất nhiều khi, gia chủ tổ chức linh đình 

Thì từ xưa tiếp khách theo chương trình 

Bữa này chửa xong, đã chờ ngồi bữa tiếp:

Chủ bày đĩa đem ra mời món mứt,

Đặt lên bàn trải khăn, đầy vết nến linh tinh,

Nhìn mà xem, việt quất sóng sánh trong bình,

(Quê có khách, thường ăn liền mấy bữa.

Các cô gái chỉ khoanh tay đứng cửa,

Rồi nhân đà nhà bên cho cả lũ chạy sang 

Xem dung nhan cậu chủ mũi dọc, mặt ngang,

Người làng đến đứng đầy sân tràn ra ngõ

Lôi ngựa của khách ra khen chê như bỏng nổ.)

 

(Chúng tôi tự chọn phiên bản vừa dịch, được khôi phục đủ 14 dòng.

Nhiều bản Evghênhi Ônhêghin khác, thường dừng ở dòng 8 như sau:

III

Поедем. —
Поскакали други,
Явились; им расточены
Порой тяжелые услуги
Гостеприимной старины.
Обряд известный угощенья:
Несут на блюдечках варенья,
На столик ставят вощаной
Кувшин с брусничною водой.
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .

 

Khổ III lúc đầu kết thúc ở dòng:

Несут на блюдечках варенья


С одною ложечкой для всех.
Иных занятий и утех
В деревне нет после обеда.
Поджавши руки, у дверей
Сбежались девушки скорей
Взглянуть на нового соседа,
И на дворе толпа людей
Критиковала их коней.)


IV

Они дорогой самой краткой
Домой летят во весь опор.
Теперь подслушаем украдкой
Героев наших разговор:
— Ну что ж, Онегин? ты зеваешь. —
«Привычка, Ленский». — Но скучаешь
Ты как-то больше. — «Нет, равно.
Однако в поле уж темно;
Скорей! пошел, пошел, Андрюшка!
Какие глупые места!
А кстати: Ларина проста,
Но очень милая старушка;
Боюсь: брусничная вода
Мне не наделала б вреда.

 

(9.Anđriushka là tên người đánh xe ngựa.)

 

IV.

Hai người chọn đi theo đường ngắn nhất,

Để về sớm, xe phóng nhanh hết sức.

Và giờ ta nghe trộm thử xem sao 

Qua những lời hai anh bạn đổi trao:

-Thế nào đấy Ônhêghin? anh có chán.-

“Quen được hết, Lenski “.- Nhưng trông anh buồn lắm 

Vẻ như hơi ngán.- “Không vẫn thế thôi.

Nhưng trên đồng, trời đất đã tối rồi;

Nhanh hơn nữa! đi thôi, Andryuska nhé!

Ôi những chỗ hôm nay thăm chán thế!

Mà tiện lời: thật giản dị là bác gái Larina 

Nhưng đáng yêu sao, tuy bác đã già;

Tôi đang sợ món nước pha việt quất,

Họ mời uống, có khi gây họa mất.



 

V

Скажи: которая Татьяна?»
— Да та, которая, грустна
И молчалива, как Светлана,
Вошла и села у окна. —
«Неужто ты влюблен в меньшую?»
— А что? — «Я выбрал бы другую,
Когда б я был, как ты, поэт.
В чертах у Ольги жизни нет.
Точь-в-точь в Вандиковой Мадоне:
Кругла, красна лицом она,
Как эта глупая луна
На этом глупом небосклоне».
Владимир сухо отвечал
И после во весь путь молчал.

 

V.

Anh cho biết: Tachiana là cô nào nhỉ?”

À cô ấy trông mặt luôn buồn tẻ,

Thường im lìm giống Svetlana,

Bước vào phòng, ngồi sát cửa sổ mà.-

“Không có lẽ anh mê cô em này nhỏ tuổi ?”

-Thì sao nhỉ ? “ Anh chàng nhà thơ hỡi,

Nếu là anh, tôi đã chọn cô chị rồi,

Đường nét Ônga không sinh động tí gì.

Giống y hệt tranh Mađôna của Vandek đó:

Mặt tròn trĩnh, đẹp hổng hào sắc đỏ,

Trông như khuôn trăng nhìn rõ đần đần

Hiện trên nền trời có vẻ cù lần”.

Vladimir cất giọng có phần khô khan đáp,

Đoạn đường cuối, chàng ngồi im, lặng ngắt.

 

VI

Меж тем Онегина явлень
У Лариных произвело
На всех большое впечатленье
И всех соседей развлекло.
Пошла догадка за догадкой.
Все стали толковать украдкой,
Шутить, судить не без греха,
Татьяне прочить жениха;
Иные даже утверждали,
Что свадьба слажена совсем,
Но остановлена затем,
Что модных колец не достали.
О свадьбе Ленского давно
У них уж было решено.

 

VI.

Giữa lúc đó, việc Ônhêghin tìm đến

Thăm nhà bác Larina gây ấn tượng lớn 

Khiến mọi người càng bàn tán rất nhiều 

Và mua vui cho hàng xóm láng giềng.

Ai cũng trổ tài đoán dài đoán ngắn.

Ai cũng nhỏ to đưa ra phán đoán,

Nào đùa vui, nào phán xét không phải không sai,

Người đưa tin khách là chú rể của Tachiana,

Lại có kẻ khăng khăng như đinh đóng cột,

Chuyện lễ cưới đã bàn xong tuốt tuột,

Nhưng tạm dừng vì một lý do là

Đang đi tìm nhẫn cưới mốt mãi chưa ra.

Việc Lensky sắp cưới đúng ra là chuyện 

Từ lâu lắm cả hai bên cùng đã duyệt.



VII

Татьяна слушала с досадой
Такие сплетни; но тайком
С неизъяснимою отрадой
Невольно думала о том;
И в сердце дума заронилась;
Пора пришла, она влюбилась.
Так в землю падшее зерно
Весны огнем оживлено.
Давно ее воображенье,
Сгорая негой и тоской,
Алкало пищи роковой;
Давно сердечное томленье
Теснило ей младую грудь;
Душа ждала… кого-нибудь,

 

VII.

Tachiana nghe chuyện mà trong lòng bực quá:

Toàn thêu dệt, đặt điều; nhưng nàng thấy lạ

Ẩn niềm vui không tả thật rõ ràng 

Nghĩ mãi về chuyện đó, tự nhiên nàng 

Trong sâu thẳm hiện ra liền một ý;

Mình đến tuổi và tinh yêu chớm hé.

Hệt như gieo hạt giống xuống đất mỡ màng

Hạt nảy mầm, cựa quậy, nhờ hơi ấm xuân nồng.

Trí tưởng tượng của nàng bùng lên lâu lắm,

Thấy vui sướng lâng lâng với nỗi buồn sâu thẳm,

Đang khát thèm món quà số phận trực chờ;

Từ lâu rồi, con tim mệt bơ phờ 

Trong ngực trẻ của nàng giờ càng bức bối;

Nàng khắc khoải chờ mong… người đó tới,

 

VIII

И дождалась… Открылись очи;
Она сказала: это он!
Увы! теперь и дни и ночи,
И жаркий одинокий сон,
Все полно им; все деве милой
Без умолку волшебной силой
Твердит о нем. Докучны ей
И звуки ласковых речей,
И взор заботливой прислуги.
В уныние погружена,
Гостей не слушает она
И проклинает их досуги,
Их неожиданный приезд
И продолжительный присест.

 

VIII.

Và thật bõ công chờ…Nàng mở mắt;

Rồi reo lớn: Đây đúng là chàng thật!

Ôi trời ơi! một ngày hết, rồi một đêm tan

Nàng trong mơ một mình, người nóng ran

Nhìn đâu cũng thấy bóng chàng; và tất cả 

Như ma lực diệu kỳ, nói không nghỉ 

Kể nàng nghe về chàng kĩ. Nàng thấy buồn 

Nghe nhiều lời làm dịu nhẹ tâm hồn,

Cả ánh mắt đám người hầu càng săn đón.

Nàng chìm đắm trong nỗi lòng buồn chán,

Không thích nghe có khách đến chơi nhà,

Oán: khách gì sao mà rảnh quá đà, 

Cứ tìm đến mà chẳng hề báo trước,

Chẳng ý tứ, lại ở lâu phát ngán được.

 

IX

Теперь с каким она вниманьем
Читает сладостный роман,
С каким живым очарованьем
Пьет обольстительный обман!
Счастливой силою мечтанья
Одушевленные созданья,
Любовник Юлии Вольмар,
Малек-Адель и де Линар,
И Вертер, мученик мятежный,
И бесподобный Грандисон,
Который нам наводит сон, — 
Все для мечтательницы нежной
В единый образ облеклись,
В одном Онегине слились.

 

IX.

Bao sức lực nàng dồn vào chú ý 

Đọc các truyện nghe ngọt ngào, tỉ mỉ,

Nàng thấy mình thật sống động, say sưa 

Chuyện bịa mà đọc lôi cuốn, phát mê!

Nuôi mộng tưởng với sức mạnh tràn trề hạnh phúc,

Những nhân vật luôn đong đầy cảm xúc, 

Chàng tình nhân của Yulia - tên gọi đúng Volma,

Nào Malec - Adel với những de Lina, 

Nào Verter - kẻ tuẫn tiết luôn mãnh liệt,

Nào Gradison kẻ xưa nay có một,

Chàng làm ta bị mê ngủ gật ngủ gà,-

Nhưng cô nàng yểu điệu, quen mơ màng 

Lại chỉ thấy trong bóng hình duy nhất

Bao hấp dẫn có trong Ônhêghin con người thật.


X

Воображаясь героиной?
Своих возлюбленных творцов,
Кларисой, Юлией, Дельфиной,
Татьяна в тишине лесов
Одна с опасной книгой бродит,
Она в ней ищет и находит
Свой тайный жар, свои мечты,
Плоды сердечной полноты,
Вздыхает и, себе присвоя
Чужой восторг, чужую грусть,
В забвенье шепчет наизусть
Письмо для милого героя…
Но наш герой, кто б ни был он,
Уж верно был не Грандисон.


X.

Nàng tưởng tượng mình là nhân vật nữ?

Dưới ngòi bút nàng mê, hoá thân trong con chữ,

Thành những Klaxira, Yulia, Đelfina,

Tachiana đi giữa tĩnh lặng rừng xanh,

Một mình vẩn vơ , trong tay - sách nguy hiểm,

Vừa xem truyện, vừa qua mình, nàng tìm kiếm

Cơn cuồng nhiệt và mơ mộng ẩn trong nàng,

Thành người đa đoan, càng trải rộng lòng

Thở dài thẫn thờ, vận vào người nhiều cảm giác,

Mua niềm vui của người, vay nỗi buồn người khác,

Đầu mơ màng, nàng nhắc đến thuộc lòng 

Thư nàng dành cho người trong mộng trẻ trung…

Nhưng nhân vật của ta, có là ai, thưa bạn,

Cũng không phải Grandison là chắc chắn.

 

XI.

Свой слог на важный лад настроя, 
Бывало, пламенный творец 
Являл нам своего героя 
Как совершенства образец. 
Он одарял предмет любимый, 
Всегда неправедно гонимый, 
Душой чувствительной, умом 
И привлекательным лицом. 
Питая жар чистейшей страсти, 
Всегда восторженный герой 
Готов был жертвовать собой, 
И при конце последней части 
Всегда наказан был порок, 
Добру достойный был венок. 

 

XI.

Khi chấp bút vần thơ theo chiều quan trọng,

Có nhiều lúc, lửa trong lòng cháy mạnh 

Nhà thơ trình cho ta nhân vật của mình 

Là mẫu người hoàn hảo hết ý, trọn tình,

Phủ kín ánh hào quang lên người mình chăm chút,

Luôn chịu cảnh đuổi xua, chịu bất công quá sức

Bằng tâm hồn nhạy cảm với con tim

Và mặt trông lôi cuốn đáng yêu thêm.

Đem sức nóng mê say trong sáng nhất,

Ta luôn thấy nhân vật thường chiến thắng thật,

Họ sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình 

Và sau rồi, ở phân đoạn cuối cùng 

Tội lỗi lúc nào cũng gánh phần phạt nặng,

Còn điều tốt luôn nhận vòng hoa xứng đáng.

XII.

А нынче все умы в тумане, 
Мораль на нас наводит сон, 
Порок любезен — и в романе, 
И там уж торжествует он. 
Британской музы небылицы 
Тревожат сон отроковицы, 
И стал теперь ее кумир 
Или задумчивый Вампир, 
Или Мельмот, бродяга мрачный, 
Иль Вечный Жид, или Корсар, 
Или таинственный Сбогар[3]. 
Лорд Байрон прихотью удачной 
Облек в унылый романтизм 
И безнадежный эгоизм. 

 

XII.

Đầu óc mọi người nay mịt mờ sương khói,

Nghe giảng đạo đức, mắt díp vào không cưỡng nổi,

Tội ác thành đáng yêu, đọc truyện thử mà xem,

Ta thấy rằng cái xấu thường chiến thắng hiển nhiên 

Hồi nào truyện kinh hoàng trong văn thơ Anh quốc 

Các cô gái mới lớn đọc xong không ngủ được,

Thì ngày nay, thành nhân vật họ say mê 

Đó hoặc là Quỷ hút máu giàu suy tư,

Hay Menmôt - người lang thang ủ rũ,

Hay nhân vật Korsar và Giứt trường sinh bất tử,

Hay nhân vật Sbôga huyền bí khác thường .

Huân tước Bairơn nhờ kỳ quặc đã thành công,

Thơ lãng mạn của ông buồn chán ngấy 

Đầy thói ích kỷ đâu còn phương cứu chữa đấy.


XIII.

Друзья мои, что ж толку в этом? 
Быть может, волею небес, 
Я перестану быть поэтом, 
В меня вселится новый бес, 
И, Фебовы презрев угрозы, 
Унижусь до смиренной прозы; 
Тогда роман на старый лад 
Займет веселый мой закат. 
Не муки тайные злодейства 
Я грозно в нем изображу, 
Но просто вам перескажу 
Преданья русского семейства, 
Любви пленительные сны 
Да нравы нашей старины. 

 

XIII.

Thưa bạn của tôi, vậy là có tốt?

Cũng có thể, là do ý Trời nốt 

Một mai tôi không thể hóa nhà thơ rồi 

Đám quỷ ma mới sẽ nhập vào hồn tôi,

Và lời dọa của Pheb mà tôi xem nhẹ,

Tôi hạ cố viết văn xuôi ngoan đạo nhé

Tiểu thuyết quay về cách làm cũ và bây giờ 

Tôi bước vào hoàng hôn vui vẻ cuộc đời.

Tôi không chọn tội ác là điều cần mô tả,

Dù nó chuốc khổ đau sâu trong lòng cả,

Nhưng giản đơn tôi kể nốt anh nghe 

Những chuyện dài của một gia đình Nga,

Những mơ mộng của tình yêu bao hấp dẫn 

Và tính cách của nước ta thời xưa cổ hẳn.


XIV.

Перескажу простые речи 
Отца иль дяди старика, 
Детей условленные встречи 
У старых лип, у ручейка; 
Несчастной ревности мученья, 
Разлуку, слезы примиренья, 
Поссорю вновь, и наконец 
Я поведу их под венец… 
Я вспомню речи неги страстной, 
Слова тоскующей любви, 
Которые в минувши дни 
У ног любовницы прекрасной 
Мне приходили на язык, 
От коих я теперь отвык. 

 

XIV.

Xin kể lại những lời dù đơn giản 

Của ông bố hay họ hàng già cả,

Chuyện hẹn hò của gái trẻ trai thanh

Bên gốc cây gia già, dòng suối uốn quanh;

Những dằn vặt khổ đau vì ghen tuông giằng xé,

Cảnh ly biệt rồi làm lành, lệ rơi xen kẽ

Tôi để hai người cãi nhau tiếp sau này 

Dẫn họ về kết có hậu đẹp thay…

Tôi sẽ nhớ những lời nhiệt thành sôi nổi,

Những lời hứa yêu thương buồn không muốn nói,

Mà tháng ngày xưa đã vun vút trôi qua
Khi tôi quỳ trước nàng sắc đẹp như hoa,

Chúng thường hiện trong đầu tôi qua dịp ấy

Những lời đó giờ đây tôi đã quên hết thẩy.


XV.

Татьяна, милая Татьяна! 
С тобой теперь я слезы лью; 
Ты в руки модного тирана 
Уж отдала судьбу свою. 
Погибнешь, милая; но прежде 
Ты в ослепительной надежде 
Блаженство темное зовешь, 
Ты негу жизни узнаешь, 
Ты пьешь волшебный яд желаний, 
Тебя преследуют мечты: 
Везде воображаешь ты 
Приюты счастливых свиданий; 
Везде, везде перед тобой 
Твой искуситель роковой. 

 

XV.

Tachiana hỡi, Ơi Tachiana yêu dấu!

Em ở cạnh, mắt tôi luôn lệ nhòa đau đáu;

Em rơi vào tay tên bạo chúa hợp thời 

Số phận em đã trao gửi cho người,

Em sẽ chết, em yêu ơi; nhưng trước hết 

Hy vọng cháy trong lòng em tha thiết 

Em mong thèm lạc thú tối tăm rồi,

Được nếm mùi khoái lạc cuộc đời,

Em uống phải thuốc độc thần kì, đầy ham muốn,

Bao mơ ước theo chân em khắp chốn:

Đi đến đâu cũng tưởng tượng là nơi

Cưu mang hò hẹn hạnh phúc lứa đôi;

Khắp mọi chỗ, mọi nơi em chỉ gặp 

Kẻ cám dỗ được ban do nhân duyên xếp đặt.

XVI.

Тоска любви Татьяну гонит, 
И в сад идет она грустить, 
И вдруг недвижны очи клонит, 
И лень ей далее ступить. 
Приподнялася грудь, ланиты 
Мгновенным пламенем покрыты, 
Дыханье замерло в устах, 
И в слухе шум, и блеск в очах… 
Настанет ночь; луна обходит 
Дозором дальный свод небес, 
И соловей во мгле древес 
Напевы звучные заводит. 
Татьяна в темноте не спит 
И тихо с няней говорит: 

 

XVI.

Buồn tương tư bám theo Tachiana mãi,

Bước dạo khắp vườn mà sao lòng tê tái,

Và bỗng nhiên hai mí mắt díu vào nhau,

Chân rã rời, lười chẳng muốn đi đâu.

Cả lồng ngực vồng lên, hai má sao cứ thấy 

Bỗng hồng rực bừng bừng hơn lửa cháy,

Hơi thở nơi cổ họng chết tắc không qua,

Tai bị ù, hai mắt trắng nhợt ra…

Đêm phủ xuống, vầng trăng qua trước mắt 

Dạo trên khắp bầu trời như lính trong phiên gác,

Chim họa mi lẫn trong bóng đêm đen

Hót líu lo rộn rã nghe vang rền.

Trong tối Tachiana không tài nào chợp mắt nổi,

Bèn ghé sát tai u, nói thầm nghe bổi hổi:




XVII.

„Не спится, няня: здесь так душно! 
Открой окно да сядь ко мне“. 
— Что, Таня, что с тобой? — „Мне скучно, 
Поговорим о старине“. 
— О чем же, Таня? Я, бывало, 
Хранила в памяти не мало 
Старинных былей, небылиц 
Про злых духов и про девиц; 
А нынче всё мне тёмно, Таня: 
Что знала, то забыла. Да, 
Пришла худая череда! 
Зашибло… — „Расскажи мне, няня, 
Про ваши старые года: 
Была ты влюблена тогда?“ 

 

XVII.

“Không ngủ được, u già ơi: nóng thế!

U mở cửa sổ ra, ngồi xuống bên con nhé”.

-Tanhia, làm sao đấy? -“Con đang buồn,

Nói về ngày xưa nhé, chắc vui hơn “.

-Chuyện gì nhỉ , Tanhia? U nhớ hết 

Vẫn còn giữ trong tâm can không ít 

Nào truyện ngày xưa, truyện cổ tích rất nhiều 

Truyện ma hồn quỷ dữ, truyện nàng tiên;

Nhưng giờ lúc, Tanhia, đầu óc u tăm tối quá:

Cái gì biết thì nay quên hết cả.

Ôi  thời gian khó u phải trải qua!

Thật là đau… -“U hỡi, kể con nghe 

Truyện ngày xửa ngày xưa của u ấy:

Thế ngày trước u có yêu không đấy?”


XVIII.

— И, полно, Таня! В эти лета 
Мы не слыхали про любовь; 
А то бы согнала со света 
Меня покойница свекровь. — 
„Да как же ты венчалась, няня?“ 
— Так, видно, бог велел. Мой Ваня 
Моложе был меня, мой свет, 
А было мне тринадцать лет. 
Недели две ходила сваха 
К моей родне, и наконец 
Благословил меня отец. 
Я горько плакала со страха, 
Мне с плачем косу расплели, 
Да с пеньем в церковь повели. 


XVIII.

- Đủ rồi đấy, Tanhia! Vào tuổi ấy 

Cấm nghe chuyện yêu đương nhảm nhí;

Nếu không, u đã bị đuổi khỏi nhà rồi 

Vì mẹ chồng quá cố của u ác khác người.-

“Thế u có cưới xin rồi chứ hả?”

-Thì việc đó, do ý Trời định cả.

Ông Vanhia, ánh sáng của u, ít tuổi hơn u,

Mà bấy giờ, u mới tuổi mười ba.

Hai tuần đúng, bà mối la cà tận tối 

Thẽ thọt với bố mẹ u, rồi sau rốt, 

Bố của u chúc phúc cho u xong.

U rống lên chu chéo vì quá hãi hùng,

Tóc bị gỡ để tết đôi mà u còn khóc,

Rồi nhà dẫn u đến nhà thờ, cùng hát suốt.

 

XIX.

И вот ввели в семью чужую… 
Да ты не слушаешь меня… — 
„Ах, няня, няня, я тоскую, 
Мне тошно, милая моя: 
Я плакать, я рыдать готова!..“ 
— Дитя мое, ты нездорова; 
Господь помилуй и спаси! 
Чего ты хочешь, попроси… 
Дай окроплю святой водою, 
Ты вся горишь… — „Я не больна: 
Я… знаешь, няня… влюблена“ 
— Дитя мое, господь с тобою! — 
И няня девушку с мольбой 
Крестила дряхлою рукой. 

 

XIX.

Rồi u được đưa đến ngôi nhà lạ …

Thôi con ạ, khỏi nghe u kể lại…-

“U ơi u, con buồn tái, buồn tê,

Con muốn nôn, nào hỡi u thân yêu:

Con muốn khóc, muốn gào to hết cỡ!..”

-Ơi con gái bé xinh, chắc con đang khó ở;

Xin Chúa ban lòng thương và giúp đỡ con tôi!

Vậy muốn gì, con hãy nói xin thôi…

Để u vẩy nước thánh cho con vậy,

Người con nóng như than… - “Con đâu ốm đấy 

U… có hay, con đã yêu rồi đây”

-Con gái ơi, xin Chúa ở cạnh con ngay!-

Và u nguyện cầu cho cô gái,

Bàn tay già nua đưa lên làm dấu thánh mãi.


XX.

„Я влюблена“, — шептала снова 
Старушке с горестью она. 
— Сердечный друг, ты нездорова. — 
„Оставь меня: я влюблена“. 
И между тем луна сияла 
И томным светом озаряла 
Татьяны бледные красы, 
И распущенные власы, 
И капли слез, и на скамейке 
Пред героиней молодой, 
С платком на голове седой, 
Старушку в длинной телогрейке 
И все дремало в тишине 
При вдохновительной луне. 

 

XX.

“Con yêu mất rồi”,- nàng thầm thì lần nữa 

Nàng muốn kể, giọng khổ đau chan chứa.

-Ôi bạn thân yêu, con không khỏe mất rồi.-

“Hãy để con yên: con mới yêu mà thôi”.

Giữa lúc đó vầng trăng soi rọi tới 

Ánh trăng sáng trông lờ mờ mệt mỏi 

Trùm cả lên vẻ đẹp tai tái của Tachiana,

Phủ tóc nàng đề xoã rối tung ra,

Nhuộm nước mắt đang lăn và ngồi trên ghế 

Ngay phía trước cô nàng đang tuổi trẻ 

Quấn chiếc khăn trên mái tóc chuyển bạc rồi,

Là u già mặc áo ấm kín người.

Tất mọi thứ đang ngủ chìm trong im lặng,

Đầy khêu gợi là vầng trăng tỏa sáng.

 

XXI.

И сердцем далеко носилась 
Татьяна, смотря на луну… 
Вдруг мысль в уме ее родилась… 
„Поди, оставь меня одну. 
Дай, няня, мне перо, бумагу, 
Да стол подвинь; я скоро лягу; 
Прости“. И вот она одна. 
Всё тихо. Светит ей луна. 
Облокотясь, Татьяна пишет. 
И всё Евгений на уме, 
И в необдуманном письме 
Любовь невинной девы дышет. 
Письмо готово, сложено… 
Татьяна! для кого ж оно? 

 

XXI.

Tachiana để hồn bay lơ lửng,

Mắt chăm chú nhìn vầng trăng trôi nổi

Bỗng trong đầu một ý nghĩ nảy sinh…

“Xin khoan, khoan, u hãy để con lại một mình.

U ơi, hãy mang cho con bút cùng ít giấy,

U hãy dịch bàn gần con; Con sắp ngủ đấy;

Xin chào u .” Và nàng ở lại có một mình.

Bốn bề im lặng. Ánh trăng chiếu tưng bừng.

Một tay dựa mặt bàn, nàng ngồi viết.

Đầu chỉ thấy có bóng Evghênhi xuất hiện,

Và trong thư chưa nghĩ được sâu xa,

Toát lên tình yêu trinh nữ thiết tha.

Thư kết thúc, nàng cầm lên gấp lại vậy, 

Tachiana hỡi, thư viết cho ai nhận đấy?


 

XXII.

Я знал красавиц недоступных, 
Холодных, чистых, как зима, 
Неумолимых, неподкупных, 
Непостижимых для ума;   
Дивился я их спеси модной, 
Их добродетели природной, 
И, признаюсь, от них бежал, 
И, мнится, с ужасом читал 
Над их бровями надпись ада: 
Оставь надежду навсегда[4]. 
Внушать любовь для них беда, 
Пугать людей для них отрада. 
Быть может, на брегах Невы 
Подобных дам видали вы. 


XXII.

Tôi biết lắm cô khó gần, không cần tiếp xúc, 

Họ lạnh lẽo, sáng trong như ngày đông rét mướt,

Họ khắt khe, liêm khiết, không mua chuộc được liền,

Đầu óc bình thường không hiểu họ là đương nhiên;

Tôi kinh ngạc chuyện họ vì sao cao ngạo 

Pha lòng tốt tự nhiên nghe thành thạo

Và thật lòng bỏ chạy tránh rõ xa

Và tưởng như, tôi đọc thấy thêm lo,

Trên trán họ như thành vạc dầu ghi lại:

Hãy cứ để hy vọng ở đây mãi mãi.

Khơi tình yêu nơi họ là tai họa lớn thôi.

Họ quen đe dọa người cho thỏa niềm vui.

Và có lẽ, dọc sông Nhêva hai bờ kè đá 

Quý vị chắc gặp nhiều quý cô như thế quá.

 

XXIII.

Среди поклонников послушных 
Других причудниц я видал, 
Самолюбиво равнодушных 
Для вздохов страстных и похвал. 
И что ж нашел я с изумленьем? 
Они, суровым поведеньем 
Пугая робкую любовь, 
Ее привлечь умели вновь, 
По крайней мере, сожаленьем, 
По крайней мере, звук речей 
Казался иногда нежней, 
И с легковерным ослепленьем 
Опять любовник молодой 
Бежал за милой суетой. 

 

XXIII.

Trong số những người say mê ngoan ngoãn 

Giữa các quý cô khác người quái đản,

Tôi thấy nhiều người sỹ diện thờ ơ luôn 

Nghe ta đang thở dài nẫu ruột, hết lời khen.

Thấy gì nhỉ khi được phen kinh ngạc?

Những người đó cư xử sao nghiêm khắc,

Họ dọa đe người yêu rất nhát gan,

Và họ làm người tình say đắm họ hơn

Dù ít nhất bằng lộ chiêu thương xót

Dù ít nhất, bằng ngọt ngào lời nói 

Đôi khi cho là rõ dịu ngọt hơn,

Vẫn tỏ ra mù quáng, luôn cả tin

Ta lại thấy một người yêu đang trẻ tuổi 

Đuổi theo mãi một bóng hồng mộng tưởng.


XXIV.

За что ж виновнее Татьяна? 
За то ль, что в милой простоте 
Она не ведает обмана 
И верит избранной мечте? 
За то ль, что любит без искусства, 
Послушная влеченью чувства, 
Что так доверчива она, 
Что от небес одарена 
Воображением мятежным, 
Умом и волею живой, 
И своенравной головой, 
И сердцем пламенным и нежным? 
Ужели не простите ей 
Вы легкомыслия страстей? 

 

XXIV.

Vậy có trách Tachiana lỗi gì hơn cả?

Có phải tại nàng hồn nhiên dễ tin quá 

Chưa một lần nếm cảnh bị lừa rồi 

Và luôn tin vào mơ ước nàng chọn thôi ?

Có đáng trách vì yêu, không chơi đóng kịch,

Chỉ biết phục tùng con tim ra lệnh thật 

Vì trước sau nàng giữ một niềm tin,

Nàng được ban tặng từ Trời cao nên 

Thật nhanh nhạy tuyệt vời thiên tài tưởng tượng ,

Cả đầu óc và ý trí luôn sống động,

Và cái đầu biết nghĩ đúng cách riêng 

Còn trái tim vừa bốc lửa vừa dịu dàng hơn?

Lẽ nào các vị không tha cho nàng tất cả 

Vì cái lỗi mê say thành nhẹ dạ?

XXV.

Кокетка судит хладнокровно, 
Татьяна любит не шутя 
И предается безусловно 
Любви, как милое дитя. 
Не говорит она: отложим — 
Любви мы цену тем умножим, 
Вернее в сети заведем; 
Сперва тщеславие кольнем 
Надеждой, там недоуменьем 
Измучим сердце, а потом 
Ревнивым оживим огнем; 
А то, скучая наслажденьем, 
Невольник хитрый из оков 
Всечасно вырваться готов. 

 

XXV.

Người giả bộ tỏ ra máu lạnh quá,

Chứ Tachiana đã yêu là hết lòng hết dạ 

Và tất nhiên nàng dồn cả con tim 

Cho tình yêu như đứa trẻ chỉ biết tin.

Nàng không nói: cứ thư thư, xem sao đã -

Vì làm thế ta đẩy tình yêu càng cao giá,

Nói đúng ra, đưa bạn tình vào lưới đã giăng;

Trước hết ta kích vào thói háo danh,

Lúc hy vọng, phân vân, nghe ngóng đã,

Rồi sau đó, con tim bị đày đọa,

Cho bạn tình sống lại bằng lửa cháy ghen tuông;

Không họ buồn khi được hưởng sướng vui luôn,

Tù nhân láu cá trong nhà lao đặc biệt

Luôn tư thế sểnh ra trốn tù ngay gặp dịp.

  


XXVI.

Еще предвижу затрудненья: 
Родной земли спасая честь, 
Я должен буду, без сомненья, 
Письмо Татьяны перевесть. 
Она по-русски плохо знала, 
Журналов наших не читала, 
И выражалася с трудом 
На языке своем родном, 
Итак, писала по-французски… 
Что делать! повторяю вновь: 
Доныне дамская любовь 
Не изъяснялася по-русски, 
Доныне гордый наш язык 
К почтовой прозе не привык. 

 

XXVI.

Tôi thấy trước nhiều khó khăn, bất trắc:

Khí bỏ sức giữ thanh danh cho đất nước,

Tôi phải làm, mọi thứ đã rõ ràng,

Phải dịch xong thư của nàng Tachiana.

Nàng hiểu biết tiếng Nga hơi yếu quá,

Nàng không đọc tạp chí Nga đang có 

Và diễn đạt ý mình khá khó khăn,

Khi phải dùng tiếng mẹ đẻ để hành văn,

Và như thế, nàng viết bằng tiếng Pháp…

Đành chịu chết! tôi vẫn xin được nhắc:

Cho đến nay, tình cảm của phái nữ nước nhà 

Không nói ra đầy đủ được bằng tiếng Nga,

Vẫn đang lúc, tiếng nước ta nghe kiêu hãnh 

Chưa thích hợp với loại văn tình yêu nam nữ .


XXVII.

Я знаю: дам хотят заставить 
Читать по-русски. Право, страх! 
Могу ли их себе представить 
С „Благонамеренным“[5]в руках! 
Я шлюсь на вас, мои поэты; 
Не правда ль: милые предметы, 
Которым, за свои грехи, 
Писали втайне вы стихи, 
Которым сердце посвящали, 
Не все ли, русским языком 
Владея слабо и с трудом, 
Его так мило искажали, 
И в их устах язык чужой 
Не обратился ли в родной? 

 

XXVII.

Tôi biết: có yêu cầu các quý cô trước hết 

Phải biết đọc tiếng Nga. Đúng là, run phát khiếp!

Tôi xin hình dung hết họ như thế này 

Với những tờ “Thiện ý ” có trong tay!

Tôi trông cậy các vị, các nhà thơ của tôi hỡi;

Liệu có đúng? Người đẹp thân yêu ta theo đuổi 

Mà đúng ra do lỗi của chính ta,

Các vị âm thầm viết tặng họ thơ ca,

Rồi dâng hiến trái tim cho người đẹp,

Chẳng phải mọi người đều học tiếng Nga đì đẹt,

Vừa biết tồi, vừa chật vật, khó khăn sao

Làm tiếng Nga méo mó theo cách đáng yêu,

Chính tiếng nước ngoài họ dùng nghe xa lạ

Liệu đã biến thành tiếng Nga của ta tệ hại?


XXVIII.

Не дай мне бог сойтись на бале 
Иль при разъезде на крыльце 
С семинаристом в желтой шале 
Иль с академиком в чепце! 
Как уст румяных без улыбки, 
Без грамматической ошибки 
Я русской речи не люблю. 
Быть может, на беду мою, 
Красавиц новых поколенье, 
Журналов вняв молящий глас, 
К грамматике приучит нас; 
Стихи введут в употребленье; 
Но я… какое дело мне? 
Я верен буду старине. 

 

XXVIII.

Cầu Trời nếu tôi có đi vũ hội mãi 

Hay trước lúc chia tay, phải ngồi tĩnh tại,

Cũng không gần sinh viên chủng viện đội khăn vàng

Không phải chào viện sỹ đội mũ che tóc bồng!

Tôi không thích thứ tiếng Nga hoàn toàn hoàn mỹ,

Nói trơn tuột, không sai ngữ pháp dù một tí

Như đôi môi hồng thiếu vắng nụ cười.

Có thể là, không may lắm cho tôi

Rồi có lúc, xuất hiện bóng hồng đời mới ,

Họ thấu hiểu lời van nài của tạp chí ,

Bắt ta nghiền ngữ pháp rõ là nhiều,

Cứ mở mồm, phải thơ phú đủ điều;

Nhưng tôi thấy…có gì liên quan tới tôi đấy?

Tôi vẫn sẽ trung thành cùng thời xưa vậy.


XXIX.

Неправильный, небрежный лепет, 
Неточный выговор речей 
По прежнему сердечный трепет 
Произведут в груди моей; 
Раскаяться во мне нет силы, 
Мне галлицизмы будут милы, 
Как прошлой юности грехи, 
Как Богдановича стихи. 
Но полно. Мне пора заняться 
Письмом красавицы моей; 
Я слово дал, и что ж? ей-ей 
Теперь готов уж отказаться. 
Я знаю: нежного Парни 
Перо не в моде в наши дни. 

 

XXIX.

Những câu nói nghe ngây ngô, cẩu thả,

Xa lạ những từ dùng, ngữ pháp thành sai cả 

Vẫn như xưa, khi nghe thấm qua tai

Đều khiến lòng thấy lo lắng, gai gai;

Muốn hối hận, tôi còn đâu sức nữa,

Tôi thấy thú chiêu vay từ Pháp văn nhiều quá 

Hệt như sai lầm của tuổi trẻ trước kia,

Như các bài thơ của Bogđanôvích ta mê,

Nhưng thôi đủ. Tôi thấy mình đến lúc

Phải dịch bức thư của giai nhân xong trước;

Tôi hứa rồi, thì sao nhỉ, đúng là

Nay thấy mình trong tâm thế chối từ .

Tôi vẫn biết nhà thơ Parny ngọt lừ êm ái ,

Cây bút hết mốt rồi, đâu phải là sống mãi.


XXX.

Певец Пиров и грусти томной [6], 
Когда б еще ты был со мной, 
Я стал бы просьбою нескромной 
Тебя тревожить, милый мой: 
Чтоб на волшебные напевы 
Переложил ты страстной девы 
Иноплеменные слова. 
Где ты? приди: свои права 
Передаю тебе с поклоном… 
Но посреди печальных скал, 
Отвыкнув сердцем от похвал, 
Один, под финским небосклоном, 
Он бродит, и душа его 
Не слышит горя моего. 

 

XXX.

Ơi thi sỹ của Tiệc tùng , nỗi buồn bải hoải,

Giá có bạn ở đây để tôi nhờ lại

Có yêu cầu với bạn, không nhỏ, ấy là 

Có thể làm bạn sợ, bạn thân của tôi à:

Hãy chuyển thể thành nhạc, thơ sao càng độc đáo 

Nỗi lòng kể trong thư của cô gái 

Nàng đang yêu nồng cháy viết bằng chữ nước ngoài.

Bạn ở đâu, xin hãy đến đây nào,

Chào bạn, tôi trao vào tay bạn nguyên quyền hạn…

Nhưng quanh bạn toàn đá nhìn phát chán,

Trái tim không quen nghe tiếng ngợi ca,

Bạn một mình, trời Phần Lan phủ bao la,

Đang đi dạo không sao mà hiểu nổi,

Không thấu hiểu nỗi lòng tôi đang đau khổ.

XXXI 

Письмо Татьяны предо мною; 
Его я свято берегу, 
Читаю с тайною тоскою 
И начитаться не могу. 
Кто ей внушал и эту нежность, 
И слов любезную небрежность? 
Кто ей внушал умильный вздор, 
Безумный сердца разговор, 
И увлекательный и вредный? 
Я не могу понять. Но вот 
Неполный, слабый перевод, 
С живой картины список бледный, 
Или разыгранный Фрейшиц 
Перстами робких учениц: 

 

XXXI.

Tôi đang để thư của Tachiana trước mắt;

Thư được giữ như món đồ quý nhất,

Tôi xem thư, buồn da diết âm thầm 

Và đọc đi đọc lại vẫn chưa hết ngỡ ngàng.

Ai dẫn lối cho nàng viết dịu dàng đến vậy,

Dùng từ thật đáng yêu, dù không cẩn trọng mấy?

Ai giúp nàng nói linh tinh nghe thấy đáng yêu,

Kể chuyện con tim đang quá khùng điên 

Vừa hấp dẫn lại luôn luôn nguy hại?

Tôi không hiểu. Nhưng đây là lời dịch lại

Tay nghề non, chưa truyền đạt đủ nội dung,

Bức tranh sinh động mà nay nhạt nhẽo, chung chung,

Hay là vở ôpêra Phơrâyshis mang công diễn 

Thật nhút nhát bởi bàn tay nữ sinh thực hiện:


ПИСЬМО ТАТЬЯНЫ К ОНЕГИНУ

‎Я к вам пишу – чего же боле? 
Что я могу еще сказать? 
Теперь, я знаю, в вашей воле 
Меня презреньем наказать. 
Но вы, к моей несчастной доле 
Хоть каплю жалости храня, 
Вы не оставите меня. 
Сначала я молчать хотела; 
Поверьте: моего стыда 
Вы не узнали б никогда, 
Когда б надежду я имела 
Хоть редко, хоть в неделю раз 
В деревне нашей видеть вас, 
Чтоб только слышать ваши речи, 
Вам слово молвить, и потом 
Все думать, думать об одном 
И день и ночь до новой встречи. 
Но говорят, вы нелюдим; 
В глуши, в деревне всё вам скучно, 
А мы… ничем мы не блестим, 
Хоть вам и рады простодушно. 

‎Зачем вы посетили нас? 
В глуши забытого селенья 
Я никогда не знала б вас, 
Не знала б горького мученья. 
Души неопытной волненья 
Смирив со временем (как знать?), 
По сердцу я нашла бы друга, 
Была бы верная супруга 
И добродетельная мать. 

‎Другой!.. Нет, никому на свете 
Не отдала бы сердца я! 
То в вышнем суждено совете… 
То воля неба: я твоя; 
Вся жизнь моя была залогом 
Свиданья верного с тобой; 
Я знаю, ты мне послан Богом, 
До гроба ты хранитель мой… 
Ты в сновиденьях мне являлся, 
Незримый, ты мне был уж мил, 
Твой чудный взгляд меня томил, 
В душе твой голос раздавался 
Давно… нет, это был не сон! 
Ты чуть вошел, я вмиг узнала, 
Вся обомлела, запылала 
И в мыслях молвила: вот он! 
Не правда ль? я тебя слыхала: 
Ты говорил со мной в тиши, 
Когда я бедным помогала 
Или молитвой услаждала 
Тоску волнуемой души? 
И в это самое мгновенье 
Не ты ли, милое виденье, 
В прозрачной темноте мелькнул, 
Приникнул тихо к изголовью? 
Не ты ль, с отрадой и любовью, 
Слова надежды мне шепнул? 
Кто ты, мой ангел ли хранитель, 
Или коварный искуситель: 
Мои сомненья разреши. 
Быть может, это всё пустое, 
Обман неопытной души! 
И суждено совсем иное… 
Но так и быть! Судьбу мою 
Отныне я тебе вручаю, 
Перед тобою слезы лью, 
Твоей защиты умоляю… 
Вообрази: я здесь одна, 
Никто меня не понимает, 
Рассудок мой изнемогает, 
И молча гибнуть я должна. 
Я жду тебя: единым взором 
Надежды сердца оживи, 
Иль сон тяжелый перерви, 
Увы, заслуженным укором! 

‎Кончаю! Страшно перечесть…
Стыдом и страхом замираю… 
Но мне порукой ваша честь, 
И смело ей себя вверяю…

 

THƯ  TACHIANA GỬI ÔNHÊGHIN

 

Viết cho ông, em không muốn gì hơn?
Giờ này em có thể nói gì luôn?
Bây giờ, thuộc quyền ông, nên em biết
Ông trừng phạt em bằng sự khinh miệt.
Nhưng thưa ông, số em thật không may,
Dù ông ban đôi giọt trắc ẩn ngay 
Ông sẽ chẳng bỏ rơi em là chắc chắn.
Ngay lúc trước, em muốn mình im lặng;
Cứ tin em, có lẽ chẳng bao giờ
Ông biết em xấu hổ đến nhường nào,
Khi em vẫn thầm chờ mong, dù lay lắt,
Được thi thoảng, tuần một lần, ta gặp mặt,
Ở làng đây, em được dịp thấy ông,
Được nghe ông nói khi gặp gỡ mỗi lần xong
Chỉ muốn mở đôi lời với ông. Rồi sau đấy
Có một thứ làm em lưu tâm nghĩ mãi vậy 
Ngày rồi đêm, cho đến bận gặp sau,
Nhưng em nghe, ông có thich giao du đâu
Quê hẻo lánh, ông mau nhìn gì cũng chán,
Chúng em chẳng có gì nổi đình đám,
Dù chúng em chân thành, vui được gặp gỡ ông.

Vậy sao ông lại ghé đến làng em?
Nơi vắng vẻ, miền quê chìm quên lãng
Giá em chẳng quen biết ông thì đã khác
Em không lâm cảnh đau đớn ê chề.
Bao âu lo mang tâm trạng  dại khờ
Đành cam chịu chờ thời gian (ai chả biết?),
Em đã kiếm được chồng cùng hợp cảnh thiệt 
Em đã là người vợ biết thuỷ chung.
Em đã là bà mẹ tốt đến cùng.


Em tin chắc, sống trên đời, em không thể 
Đem tặng trái tim cho ai nào khác nhé!
Khi trời cao bàn bạc, quyết định xong...
Khi trời khuyên: em phải thuộc về ông;
Cả cuộc sống của em là con tin bảo đảm
Hai ta có ngày gặp nhau là chắc chắn 
Em biết rằng Chúa ban tặng ông cho em rồi,
Ông là thần bảo mệnh cho em đến hết đời…
Ông đã đến trong mơ mà em từng nhìn thấy,
Chưa hề gặp, em đã thấy ông đáng yêu đấy,
Mắt ông nhìn diệu kỳ, em thấy mệt trong lòng,
Giọng ông, từ lâu em nghe thấu nhiều lần,
Không, không phải trong mơ, mà nghe thật sự,
Ông chợt bước vào, em nhận ra ngay tắp lự,
Em thẫn thờ, thấy nóng rực cả người 
Trong nghĩ suy, em nói: chàng đây rồi!
Thế không phải? Em từng nghe ông văng vẳng:
Ông nói với em trong phút giây yên ắng,
Khi em đi giúp đỡ những người nghèo,
Hay vỗ về để tỏ ý nguyện cầu 
Nỗi buồn khổ trong tâm hồn đầy khắc khoải 
Trong giây phút, trong thời gian đó mãi
Không phải ông ư,  ảo ảnh đáng yêu sao
Trong bóng đêm trong suốt, ông lướt thoáng qua mau
Ông từng đến cúi xuống đầu giường em nữa?
Không phải ông, đến với tình yêu, vui chan chứa
Thì thầm lời kỳ vọng rực lửa cho em?
Ông là ai, thiên thần hay bảo trợ thêm,
Hay là kẻ cám dỗ gian ngoan xảo quyệt!
Hãy giải đáp những nghi ngờ em đang muốn biết
Và có khi, tất cả là trống không,
Là dối lừa tâm hồn ngu dại trong lòng
Và duyên phận đưa ra hoàn toàn khác...
Nhưng đành vậy. Số phận em cầm chắc 
Từ bây giờ, em trao hết cho ông,
Trước mặt ông, em để mặc lệ tuôn,
Em cầu khẩn, ông bảo vệ luôn em nhé...
Hãy tưởng tượng: ở đây, em cô đơn thế!
Không có ai thấu hiểu hết cho em,
Lý trí em mệt mỏi, yếu ớt thêm 
Và em phải âm thầm tìm cái chết.
Em chờ đợi ông: chỉ một lần để mắt đến,
Hãy cưu mang tim em, nuôi hy vọng sống thêm,
Hay xin ông chấm dứt giấc mộng tệ hơn,
Ôi, hãy trách móc cho em tin mình đáng kiếp.

Thư đã hết! Đọc lại thư sao mà khiếp...
Em lặng đi vì xấu hổ với hãi hùng...
Nhưng em nhờ bảo trợ bằng danh dự của ông,
Và em đủ can đảm phó thác em cho ông hết…

XXXII 

Татьяна то вздохнет, то охнет; 
Письмо дрожит в ее руке; 
Облатка розовая сохнет 
На воспаленном языке. 
К плечу головушкой склонилась. 
Сорочка легкая спустилась 
С ее прелестного плеча… 
Но вот уж лунного луча 
Сиянье гаснет. Там долина 
Сквозь пар яснеет. Там поток 
Засеребрился; там рожок 
Пастуший будит селянина. 
Вот утро: встали все давно, 
Моей Татьяне всё равно. 

 

XXXII.

Tachiana lúc thở dài, khi kêu “ối”;

Tay nàng giữ lá thư run không vững nổi;

Nhìn si hồng trên giấy dán thấy khô hơn

Ngọn lửa đang hơ làm si dính chặt luôn.

Nghiêng đầu xuống, vai nàng trông hơi lệch,

Chiếc áo ngủ mỏng manh buông lơi để chệch,

Lộ bờ vai nàng trông thật ưa nhìn…

Nhưng mà kìa, xuất hiện vầng trăng lên,

Ánh trăng cứ nhạt dần. Thảo nguyên nơi xa ngái

Hiện rõ nét trong sương. Luồng sương khói 

Ánh lên màu bàng bạc. Rồi tiếng tù và 

Chợt cất lên đánh thức người trong làng.

Trời sáng hẳn. Từ lâu nhà nhà đã dậy

Tachiana của tôi vẫn im không động đậy.


XXXIII 

Она зари не замечает, 
Сидит с поникшею главой 
И на письмо не напирает 
Своей печати вырезной. 
Но, дверь тихонько отпирая, 
Уж ей Филипьевна седая 
Приносит на подносе чай. 
«Пора, дитя мое, вставай: 
Да ты, красавица, готова! 
О пташка ранняя моя! 
Вечор уж как боялась я! 
Да, слава богу, ты здорова! 
Тоски ночной и следу нет, 
Лицо твое как маков цвет». 

 

XXXIII.

Không để ý buổi bình minh đang tới,

Nàng ngồi đấy, đầu cúi gằm xuống dưới 

Và không in dấu khắc với tên riêng

Lên lá thư nàng vừa mới viết xong.

Nhưng cánh cửa khẽ khàng mở tung ra hẳn,

Người vừa bước vào là u Philipievna đầu bạc trắng 

Mang trên khay cốc trà nóng cho nàng.

“Đến giờ rồi, con nhé, dậy đi nào:

Ơi con gái đẹp xinh, con dậy rồi đấy hả!

Ôi chim nhỏ của u dậy sớm quá!

Tối hôm qua, con làm u hãi hết hồn thôi!

Lạy Chúa tôi, giờ thấy con khỏe rồi!

Vẻ buồn bã đêm qua không còn dấu vết nữa 

Khuôn mặt lại rực hổng như hoa anh túc nở”.

 

XXXIV

— Ах! няня, сделай одолженье. — 
«Изволь, родная, прикажи». 
— Не думай… право… подозренье… 
Но видишь… ах! не откажи. — 
«Мой друг, вот бог тебе порука». 
— Итак, пошли тихонько внука 
С запиской этой к О… к тому… 
К соседу… да велеть ему — 
Чтоб он не говорил ни слова, 
Чтоб он не называл меня… — 
«Кому же, милая моя? 
Я нынче стала бестолкова. 
Кругом соседей много есть; 
Куда мне их и перечесть». 

XXXIV.

-Ối, u ạ, làm ơn giúp con với.-

“Con yêu hỡi, cần gì con cứ nói “.

-U đừng nên … nói thật… có nghi ngờ…

Nhưng u xem…ấy! Xin u chớ chối từ.-

“Bạn u hỡi, vừa hay có Trời phù trợ”

-Nhờ u bí mật sai cháu u đi hộ 

Cầm thư này gửi ông Ô… đến tận nhà…

Ông láng giềng… u nhớ bảo cậu ta-

Dù họ hỏi, không bao giờ được hé,

Cậu không được làm lộ tên con nhé…-

“Đưa cho ai, hở con gái thân yêu?

U bây giờ thật chậm hiểu làm sao.

Hàng xóm bốn chung quanh đông phát khiếp;
Con định gửi cho ai, làm sao mà u biết”.

XXXV.

— Как недогадлива ты, няня! -
“Сердечный друг, уж я стара,
Стара: тупеет разум, Таня;
А то, бывало, я востра,
Бывало, слово барской воли…»
— Ах, няня, няня! до того ли?
Что нужды мне в твоем уме?
Ты видишь, дело о письме
К Онегину. — «Ну, дело, дело,
Не гневайся, душа моя,
Ты знаешь, непонятна я…
Да что ж ты снова побледнела?»
— Так, няня, право ничего.
Пошли же внука своего. —

 

XXXV.
-Sao kém thế, u ơi, không đoán nổi!-
“Bạn thân thiết của u, thì u già cao tuổi,
Mà già thì óc tăm tối, Tanhia à;
Chứ trước kia, nhiều lúc u giỏi mà,
Bá tước nói nhiều khi, u đều hiểu đấy…”
-Ôi u hỡi, u ơi, đâu cần vậy?
Có việc gì cần động não đâu u?
U thấy không, chuyện chỉ là lá thư
Cho người nhận Ônhêghin. “Thì ra là việc ấy,
Con đừng cáu, ơi con yêu biết mấy,
Con biết rồi, u chẳng nhậy, ù lì…
Cơn cớ gì mặt con lại tái đi?”
-Thế này nhé, u ơi, chẳng có gì cần hết.
Hãy giục cháu u đi ngay càng tốt.-

 

XXXVI 

Но день протек, и нет ответа. 
Другой настал: все нет, как нет. 
Бледна как тень, с утра одета, 
Татьяна ждет: когда ж ответ? 
Приехал Ольгин обожатель. 
„Скажите: где же ваш приятель?“ 
Ему вопрос хозяйки был. 
„Он что-то нас совсем забыл“. 
Татьяна, вспыхнув, задрожала. 
— Сегодня быть он обещал, 
Старушке Ленской отвечал: 
Да, видно, почта задержала. — 
Татьяна потупила взор, 
Как будто слыша злой укор. 

 

XXXVI.

Nhưng một ngày qua, không thấy thư đáp trả.

Một ngày nữa, chẳng thấy hồi âm gì cả.

Mặt tái xanh nàng đóng bộ từ sớm mai,

Tachiana mong, bao giờ mới có thư trả lời?

Người yêu của Ônga vừa xuất hiện.

“Con có biết, bạn con sao không đến?

Bà Larina cất tiếng hỏi tin chàng.

“Anh ấy quên tất cả chúng tôi à”.

Tachiana thấy nóng bừng, người run rẩy.

-Anh ấy hẹn ngày hôm nay đến đấy,

Lenskôi lên tiếng đáp, trấn an bà:

Vâng, rõ ràng thư gửi chậm rề rề,-

Tachiana bối rối, mắt nhìn gằm xuống,

Cứ như phải nghe trách hờn đau đớn.

 

XXXVII 

Смеркалось; на столе блистая 
Шипел вечерний самовар. 
Китайский чайник нагревая; 
Под ним клубился легкий пар. 
Разлитый Ольгиной рукою, 
По чашкам темною струею 
Уже душистый чай бежал, 
И сливки мальчик подавал; 
Татьяна пред окном стояла, 
На стекла хладные дыша, 
Задумавшись, моя душа, 
Прелестным пальчиком писала 
На отуманенном стекле 
Заветный вензель 
О да Е. 

 

XXXVII.

Trời sẩm tối; trên bàn, ấm xamôva đã nhóm

Nước đang réo trong bình trông sáng bóng 

Ấm pha trà Trung Quốc được hâm nóng để trên;

Một làn hơi nước nhẹ mỏng bay cao lên.

Tay cầm ấm, Ônga rót trà luôn ra chén sẵn

Nước chè sẫm màu, thơm ngon, đầy hấp dẫn,

Cậu bé mang kem sữa đặt thẳng lên bàn;

Tachiana kề bên cửa sổ ở gần,

Nàng phả nhẹ hơi thở trùm lên ô kính,

Mải suy nghĩ, ơi tâm hồn đáng mến,

Đầu ngón tay thanh tú viết từ từ 

Mặt kính trong bị hơi nước phủ mờ mờ

Hai chữ cái Ô và E nhìn đậm nét,

 Chữ cái đứng đầu họ, tên đầy thân thiết.

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.