О rus!…
Хорас.
О Русь!
I
Деревня, где скучал Евгений,
Была прелестный уголок;
Там друг невинных наслаждений
Благословить бы небо мог.
Господский дом уединенный,
Горой от ветров огражденный,
Стоял над речкою. Вдали
Пред ним пестрели и цвели
Луга и нивы золотые,
Мелькали селы; здесь и там
Стада бродили по лугам,
И сени расширял густые
Огромный, запущенный сад,
Приют задумчивых дриад.
Ôi làng quê!
Horas.
Ôi nước Nga!
I.
Ngôi làng chiếm một khu trông nho nhỏ
Nhìn đẹp tuyệt, mà Evghênhi còn buồn khổ;
Nơi người tìm hưởng vui thú đời thường
Có thể dùng ngàn tiếng cảm ơn trời.
Toà nhà bác đứng riêng rời một góc,
Có núi chắn gió thổi từ đằng trước,
Nhà xây ven sông nước. Phía xa xa
Là đồng cỏ, ruộng lúa chín vàng óng của nhà,
Khoe muôn sắc và muôn hoa đua nở
Bóng người Siol thoáng hiện ra; đâu đó
Súc vật từng đàn trên đồng cỏ lang thang,
Gian trước nhà như mở rộng thêm ra
Nhờ vườn tược để hoang toàng, rộng rãi,
Nơi trú ẩn của thần cây lưu lại.
II
Почтенный замок был построен,
Как замки строиться должны:
Отменно прочен и спокоен
Во вкусе умной старины.
Везде высокие покои,
В гостиной штофные обои,
Царей портреты на стенах,
И печи в пестрых изразцах.
Все это ныне обветшало,
Не знаю, право, почему;
Да, впрочем, другу моему
В том нужды было очень мало,
Затем, что он равно зевал
Средь модных и старинных зал.
II.
Toà nhà chính vẫn còn đang hiện diện,
Như cung cách mọi toà nhà được dựng:
Nhà trông yên tĩnh, chắc chắn muôn đời
Đúng theo phong cách cổ thông minh tuyệt vời.
Mọi phòng ốc đều xây trần cao hẳn,
Tường phòng khách được bồi bằng lụa cả,
Ảnh Sa hoàng treo trang trọng trên tường,
Lò sưởi đều ốp tranh men sứ dễ thương
Tất mọi thứ giờ đều xấu hơn trông thấy,
Tôi không biết, vì sao, thật lòng đấy,
Mà tựu trung, chính bạn ấy của tôi
Cũng chỉ cần đến rất ít mà thôi,
Vì một lẽ, trước sau rồi sinh chán nốt,
Khi ở mãi phòng cổ xưa và mốt.
III
Он в том покое поселился,
Где деревенский старожил
Лет сорок с ключницей бранился,
В окно смотрел и мух давил.
Все было просто: пол дубовый,
Два шкафа, стол, диван пуховый,
Нигде ни пятнышка чернил.
Онегин шкафы отворил;
В одном нашел тетрадь расхода,
В другом наливок целый строй,
Кувшины с яблочной водой
И календарь осьмого года:
Старик, имея много дел,
В иные книги не глядел.
III.
Chàng đã dọn vào phòng mà trước đó,
Nơi người bác, khi còn, thường xuyên ở
Bốn mươi năm bác đánh vật với quản gia rồi
Suốt ngày nhìn qua cửa sổ và bận đập ruồi.
Phòng bầy biện giản đơn: Sàn gỗ sồi đầy đủ,
Hai chiếc tủ, một bàn, một đi văng lông vũ,
Trông sạch bong, không một vết mực dây.
Ônhêghin đưa tay mở tủ ngay;
Một tủ thấy sổ chi thu các khoản,
Còn tủ khác đồ uống bầy ra tán loạn
La liệt bình rượu táo được ngâm,
Cuốn lịch năm 1808 có danh sách chức quan:
Còn bác chắc mải trăm công ngàn việc,
Nên chẳng có thời gian ngó ngàng sách khác được
🌙
IV
Один среди своих владений,
Чтоб только время проводить,
Сперва задумал наш Евгений
Порядок новый учредить.
В своей глуши мудрец пустынный,
Ярем он барщины старинной
Оброком легким заменил;
И раб судьбу благословил.
Зато в углу своем надулся,
Увидя в этом страшный вред,
Его расчетливый сосед;
Другой лукаво улыбнулся,
И в голос все решили так,
Что он опаснейший чудак.
IV.
Một mình sống trong dinh cơ rộng lớn,
Để có việc làm cho thời gian không chán,
Lúc ban đầu, Evghênhi bạn của chúng ta
Định lập ra quy cách làm việc khác xưa.
Ở làng quê, vùng sâu như sa mạc,
Chàng muốn đổi kiểu lao công nô dịch
Sang cách thu tô ở dạng nhẹ nhàng:
Người nông nô ơn số phận vì việc này.
Ông hàng xóm giỏi tính ngay là rõ,
Ngồi một góc, mới lên cơn thịnh nộ,
Vì hiểu rằng việc gây hại rõ to,
Có người thì cười nụ tinh ma,
Và tất cả đều đồng thanh cả quyết,
Rằng chàng đúng là gàn, nguy hiểm nhất.
V.
Сначала все к нему езжали;
Но так как с заднего крыльца
Обыкновенно подавали
Ему донского жеребца,
Лишь только вдоль большой дороги
Заслышат их домашни дроги, —
Поступком оскорбясь таким,
Все дружбу прекратили с ним.
«Сосед наш неуч; сумасбродит;
Он фармазон; он пьет одно
Стаканом красное вино;
Он дамам к ручке не подходит;
Все да да нет; не скажет да-с
Иль нет-с». Таков был общий глас.
V.
Lúc đầu khách thăm chàng bằng xe nhà đóng,
Nhưng vì chủ sai người từ cửa sau đón
Thường dẫn ra chú ngựa giống sông Đông,
Loại ngựa nòi rất nổi tiếng trong vùng,
Khi chủ mới nghe từ ngoài đường cái
Thấy vọng tiếng xe nhà làm của khách tới,
Không hiểu nhà có ý gì, nên khách bực mình
Mọi người dừng đi lại với chàng.
“Tên vô học, hắn điên là chắc chắn;
Đầu óc hắn tự do, chỉ quen uống hẳn
Vang đỏ thôi, nốc cả cốc một lần;
Hắn không hôn tay các bà, khi đến gần,
Nói độc “có”, “không “, khác mình, không đuôi “es”
Là ý kiến chung người làng nhận xét.
(13.Ở đầu và cuối tk.XIX, cách nói gắn theo -cъ có nghĩa kính trọng người nói, chứng tỏ người nói có văn hoá cao: государь -съ. Sang cuối tk.XIX, chỉ còn nghĩa nhấn mạnh và châm biếm thôi: ждём-с , убили -с.)
VI
В свою деревню в ту же пору
Помещик новый прискакал
И столь же строгому разбору
В соседстве повод подавал:
По имени Владимир Ленской,
С душою прямо геттингенской,
Красавец, в полном цвете лет,
Поклонник Канта и поэт.
Он из Германии туманной
Привез учености плоды:
Вольнолюбивые мечты,
Дух пылкий и довольно странный,
Всегда восторженную речь
И кудри черные до плеч.
VI.
Cùng dạo đó, có người về quê cũ
Là trai trẻ mới, xuất thân địa chủ,
Bên láng giềng nay có đủ lí do,
Để tham gia bình phẩm quá khắt khe:
Vlađimir Lenski là họ tên chàng địa chủ
Mang bản sắc vùng Ghettinghen đầy đủ
Rõ đẹp trai, đang độ tuổi tuyệt vời,
Hâm mộ Kant và đã là thi sỹ rồi.
Chàng trai đến từ nước Đức mờ sương khói,
Đem theo đủ cả hành trang học vấn giỏi
Những ước mơ luôn vươn tới tự do,
Rất nhiệt tình, và tính cách hơi lạ thôi,
Luôn sử dụng ngôn từ nghe bốc lửa,
Tóc quăn búp màu đen trùm vai cho thả.
(6.Геттингене - thành phố của Đức, giáo dục đại học dạy sinh viên trung thành triết học Đức, có thái độ phê phán trật tự hiện hành.
Kant Immanuil (1724-1804) triết gia Đức.)
⭐️
VII
От хладного разврата света
Еще увянуть не успев,
Его душа была согрета
Приветом друга, лаской дев;
Он сердцем милый был невежда,
Его лелеяла надежда,
И мира новый блеск и шум
Еще пленяли юный ум.
Он забавлял мечтою сладкой
Сомненья сердца своего;
Цель жизни нашей для него
Была заманчивой загадкой,
Над ней он голову ломал
И чудеса подозревал.
VII.
Giới thượng lưu suy đồi, tình người lạnh nhạt
Chàng trai trẻ vẫn chân thành, nồng nhiệt
Tâm hồn chàng được sưởi ấm hàng ngày
Nhờ bạn trai chào đón, bạn gái vỗ về ngay;
Ngu ngơ chút, nhưng trái tim đầy nhân hậu,
Chàng nuôi dưỡng trong lòng niềm hy vọng,
Và ánh hào hoa, thế giới sống rộn ràng
Làm mê say đầu óc trẻ của chàng.
Chàng mơ đến giấc mơ càng thật đẹp
Xoa mát dịu con tim còn nghi hoặc;
Chàng nghĩ rằng mục đích thực đời ta
Chính là câu đố thường hấp dẫn làm sao,
Chàng đã nghĩ nát đầu quanh điều đó
Không tin tưởng chuyện thần kì lại có.
VIII
Он верил, что душа родная
Соединиться с ним должна,
Что, безотрадно изнывая,
Его вседневно ждет она;
Он верил, что друзья готовы
За честь его приять оковы
И что не дрогнет их рука
Разбить сосуд клеветника;
Что есть избранные судьбами,
Людей священные друзья;
Что их бессмертная семья
Неотразимыми лучами
Когда-нибудь нас озарит
И мир блаженством одарит.
VIII.
Chàng tin chắc ý trung nhân mình chọn thật
Phải chung thủy, luôn cùng chàng gắn chặt
Rằng khổ đau trong nước mắt khóc than
Vẫn hàng ngày luôn một dạ đợi chàng;
Chàng tin tưởng: bạn sẵn sàng chung mục đích
Vì danh dự của chàng, họ nhận mang xiềng xích
Và họ không hề biết tới run tay
Sẽ đập tan mọi mưu bẩn bôi đen ngay;
Có người được số may lựa chọn,
Đó là bạn bè thiêng liêng của bạn;
Rằng gia đình vượt hoạn nạn của ta
Bằng ánh dương xuyên mọi cản trở để qua
Rọi sáng rực cho ta, rồi đến lúc
Làm thế giới sáng bừng trong hạnh phúc.
IX
Негодованье, сожаленье,
Ко благу чистая любовь
И славы сладкое мученье
В нем рано волновали кровь.
Он с лирой странствовал на свете;
Под небом Шиллера и Гете
Их поэтическим огнем
Душа воспламенилась в нем;
И муз возвышенных искусства,
Счастливец, он не постыдил:
Он в песнях гордо сохранил
Всегда возвышенные чувства,
Порывы девственной мечты
И прелесть важной простоты.
IX.
Lòng công phẫn còn trào dâng nuối tiếc,
Tình yêu vật chất nghe càng thuần khiết
Nỗi đau êm dịu, biết vị vinh quang
Sớm làm sôi dòng máu trong tim chàng.
Nàng thơ với chàng đi vòng thế giới;
Trú mãi dưới bầu trời của Sille với Gớt,
Họ chuyển cho chàng ngọn lửa thi ca,
Tâm hồn chàng bắt lửa cháy thiết tha;
Chàng sung sướng mình không là nguyên nhân để
Các thần nghệ thuật lâm vào xấu hổ:
Chàng tự tin để nguyên cả trong bài thơ
Mọi thứ tình cảm đẹp đẽ luôn thanh cao,
Còn trinh bạch là ước mơ bao xúc động
Sức hấp dẫn bởi giản đơn là quan trọng.
X
Он пел любовь, любви послушный,
И песнь его была ясна,
Как мысли девы простодушной,
Как сон младенца, как луна
В пустынях неба безмятежных,
Богиня тайн и вздохов нежных.
Он пел разлуку и печаль,
И нечто, и туманну даль,
И романтические розы;
Он пел те дальные страны,
Где долго в лоно тишины
Лились его живые слезы;
Он пел поблеклый жизни цвет
Без малого в осьмнадцать лет.
X.
Chàng ca ngợi tình yêu, nghe tình yêu mách bảo,
Thơ chàng viết sáng trong, rõ ràng cả,
Như nghĩ suy của thiếu nữ hồn nhiên,
Như giấc mơ trẻ nhỏ, như ánh trăng
Trời cao tít, những khoảng không tĩnh lặng,
Là thần nữ bí mật, tiếng thở dài dịu nhẹ.
Chàng ngợi ca sự ly biệt với nỗi buồn,
Và còn gì, miền xa phủ sương buông,
Bao nhiêu cánh hồng đưa hương lãng mạn;
Chàng ca tụng miền quê xa vạn dặm,
Nơi từ lâu, giữa tâm lặng bình yên,
Nước mắt chàng nóng bỏng chảy lăn tăn;
Chàng ca ngợi sắc màu cuộc đời nay lụi tắt,
Tuổi mười tám đến gần, non một ít.
XI.
В пустыне, где один Евгений
Мог оценить его дары,
Господ соседственных селений
Ему не нравились пиры;
Бежал он их беседы шумной.
Их разговор благоразумной
О сенокосе, о вине,
О псарне, о своей родне,
Конечно, не блистал ни чувством,
Ни поэтическим огнем,
Ни остротою, ни умом,
Ни общежития искусством;
Но разговор их милых жен
Гораздо меньше был умен.
XI.
Nơi heo hút, chỉ mình Evghênhi có thể
Đánh giá hết tài năng người bạn trẻ,
Không thích thăm địa chủ khác trong vùng,
Chàng không mê những đám tiệc tưng bừng;
Chàng trốn chạy các tiệc mừng ngậu ngã.
Những buổi chuyện trò thông minh, kín kẽ
Nào chuyện thu hoạch cỏ, nào vị rượu vang,
Hết chuyện nuôi chó săn, sang chuyện họ hàng,
Tất nhiên chẳng có gì khác thường về tình cảm,
Không có ngọn lửa thi ca cháy bỏng,
Không thấy gì sắc sảo, chẳng có thông minh,
Không tỏ ra nghệ thuật sống chung;
Nhưng câu chuyện các bà vợ yêu của họ
Còn để lộ kém thông minh đáng sợ.
XII.
Богат, хорош собою, Ленский
Везде был принят как жених:
Таков обычай деревенский;
Все дочек прочили своих
За полурусского соседа;
Взойдет ли он — тотчас беседа
Заводит слово стороной
О скуке жизни холостой;
Зовут соседа к самовару,
А Дуня разливает чай,
Ей шепчут: «Дуня, примечай!»
Потом приносят и гитару:
И запищит она (Бог мой!):
Приди в чертог ко мне златой!..[1]
XII.
Vừa giàu có, lại đẹp trai, là Lenski đó
Đến đâu cũng được xem là rể khá:
Thì làng quê có tập quán thế mà;
Mọi gia đình có con gái trong nhà
Đều cố gả với chàng nửa máu Nga cho chắc;
Chàng vừa tới, mọi chuyện đều dẫn dắt,
Để có người cố nhắc, dù đôi chút vòng vèo,
Rằng độc thân là cảnh sống buồn sao;
Rồi mời gọi chàng trai sang uống nước,
Sai con gái Đunhia ra rót trà mời khách,
Cô nghe thầm:”Đunhia hỡi, chú ý vào!“
Rồi người nhà đem tới đàn ghi ta:
Cô con gái bật tiếng e e (Ôi trời hỡi!):
Mời anh đến lâu đài vàng nhà em với!…
(5.Ngầm nhắc khéo về việc Lenski đi du học ở Đức về. (Theo V. Nabôkôp)
⭐️
XIII.
Но Ленский, не имев, конечно,
Охоты узы брака несть,
С Онегиным желал сердечно
Знакомство покороче свесть.
Они сошлись: волна и камень,
Стихи и проза, лед и пламень
Не столь различны меж собой.
Сперва взаимной разнотой
Они друг другу были скучны;
Потом понравились; потом
Съезжались каждый день верхом,
И скоро стали неразлучны.
Так люди — первый каюсь я —
От делать нечего — друзья.
XIII.
Nhưng Lenski, tất nhiên, đâu đã muốn
Giơ cổ chịu đeo gông hôn nhân sớm,
Tận đáy lòng chàng muốn cùng Ônhêghin
Có mối quan hệ thân thiết, gần gũi hơn.
Họ kết bạn: như đá ngầm bên nước chảy,
Thơ với văn, đá băng và lửa cháy,
Vậy mà không khác biệt quá nhiều đâu.
Thoạt khởi đầu, cả hai có khác nhau,
Họ hay gặp mà sao không hấp dẫn;
Sau thấy thích; rồi ít lâu, chấp nhận
Phi ngựa sang nhà nhau tán chuyện mỗi ngày,
Và rất nhanh, họ như bóng với hình ngay
Tôi thừa nhận: giống người nay mất nết
Nhàn cư sinh ra đàn đúm hết.
XIV.
Но дружбы нет и той меж нами;
Все предрассудки истребя,
Мы почитаем всех нулями,
А единицами — себя;
Мы все глядим в Наполеоны;
Двуногих тварей миллионы
Для нас орудие одно;
Нам чувство дико и смешно.
Сноснее многих был Евгений;
Хоть он людей, конечно, знал
И вообще их презирал;
Но правил нет без исключений:
Иных он очень отличал
И вчуже чувство уважал.
XIV.
Nhưng tình bạn thế này hai chúng tôi chưa có;
Mọi định kiến xưa kia, nay phải bỏ,
Ta quen coi người khác là số không,
Chỉ có ta là số một giỏi giang;
Ta chỉ ngắm những Napôlêông mới chịu;
Còn sinh vật hai chân đông hàng triệu
Ta chỉ xem là công cụ mà thôi;
Ta thấy suy nghĩ đó hoang dã, nực cười.
Evghênhi còn dễ chịu hơn nhiều người khác;
Dù chắc hẳn, con người - chàng quá biết
Và nói chung, chàng khinh miệt người đời;
Nhưng mọi quy tắc đều có ngoại lệ đấy thôi:
Chàng không giống với bao người khác,
Ai nghĩ khác chàng vẫn nghe là chắc.
XV.
Он слушал Ленского с улыбкой:
Поэта пылкий разговор,
И ум, еще в сужденьях зыбкой,
И вечно вдохновенный взор —
Онегину всё было ново;
Он охладительное слово
В устах старался удержать
И думал: глупо мне мешать
Его минутному блаженству;
И без меня пора придет;
Пускай покамест он живет
Да верит мира совершенству;
Простим горячке юных лет
И юный жар, и юный бред.
XV.
Nghe Lenski nói, miệng chàng cười khẽ:
Cách nói chuyện hăng say của thi sĩ,
Khi giãi bày, lý lẽ đâu đã vững vàng,
Và mắt nhìn lúc nào cũng nhiệt tình -
Ônhêghin thấy cái gì cũng lạ;
Chàng định nói lời cho gáo nước lạnh
Nhưng cố ghìm giữ lại chưa nói ra
Và nghĩ suy: có ngốc mới làm cụt hứng ngay
Lenski đang sướng vui trong giây phút;
Và không có mình, nhưng rồi đến lúc;
Thôi để Lenski sống như thế có sao
Và tin rằng thế giới hoàn hảo biết bao;
Hãy tha thứ tính bốc đồng nơi tuổi trẻ
Cái tuổi quá nhiệt tình hay hoang tưởng.
XVI.
Меж ними всё рождало споры
И к размышлению влекло:
Племен минувших договоры,
Плоды наук, добро и зло,
И предрассудки вековые,
И гроба тайны роковые,
Судьба и жизнь в свою чреду,
Всё подвергалось их суду.
Поэт в жару своих суждений
Читал, забывшись, между тем
Отрывки северных поэм;
И снисходительный Евгений,
Хоть их не много понимал,
Прилежно юноше внимал.
XVI.
Giữa hai bạn ngày một nhiều tranh cãi
Thường dẫn tới trầm ngâm suy ngẫm mãi
Nào từ xưa khế ước xã hội có thế nào,
Nào thành công khoa học, rồi thiện ác ra sao
Và định kiến thì ăn sâu khó mà trị nổi
Và bí mật sự sống bên kia thế giới,
Rồi cuộc đời và số phận mới được bàn,
Mọi đề tài được tranh luận râm ran.
Khi hăng hái chứng minh, đưa ra nhận định
Quên mọi sự, chàng đọc luôn một mạch
Nhiều đoạn trong trường ca đất Bắc lừng danh;
Và Evghênhi tỏ thái độ rất bao dung,
Dù chàng cũng không thông hiểu hết,
Vẫn cố gắng hiểu sâu người bạn tốt.
XVII.
Но чаще занимали страсти
Умы пустынников моих.
Ушед от их мятежной власти,
Онегин говорил об них
С невольным вздохом сожаленья.
Блажен, кто ведал их волненья
И наконец от них отстал;
Блаженней тот, кто их не знал,
Кто охлаждал любовь разлукой,
Вражду злословием; порой
Зевал с друзьями и женой,
Ревнивой не тревожась мукой,
И дедов верный капитал
Коварной двойке не вверял!
XVII.
Nhưng nhiều lúc, quá say mê thành căng thẳng
Chiếm đầu óc hai bạn tôi nơi hoang vắng
Thoát ra rồi lúc đấu lý đang say,
Ônhêghin từng nói đến việc này,
Chàng bất giác thở dài đầy nuối tiếc.
May cho kẻ từng qua cơn lo chết khiếp,
Cuối cùng, lui đi để mọi chuyện lại đằng sau;
Người may hơn nữa là tránh được thật mau
Muốn làm nguội tình yêu, tạm xa nhau một dạo
Muốn làm nguội hận thù, cứ gièm pha, dù sạo;
Đôi khi, đành ngáp dài với vợ và bạn bè,
Không phải âu lo, đau khổ, ghen làm gì
Và vốn liếng vững bền mà ông cha để lại
Đừng đắm đuối bạc bài - nuôi con hai tàn hại!
XVIII.
Когда прибегнем мы под знамя
Благоразумной тишины,
Когда страстей угаснет пламя
И нам становятся смешны
Их своевольство иль порывы
И запоздалые отзывы, —
Смиренные не без труда,
Мы любим слушать иногда
Страстей чужих язык мятежный,
И нам он сердце шевелит;
Так точно старый инвалид
Охотно клонит слух прилежный
Рассказам юных усачей,
Забытый в хижине своей.
XVIII.
Tập hợp dưới cờ, chúng tôi cùng gặp lại
Tìm về sự khôn ngoan trong im lặng mãi
Khi lửa hổng đam mê tắt lịm rồi,
Chúng tôi coi mọi chuyện hóa nực cười
Họ đều quá tự tin, hay hai người xúc động,
Cả những nhận xét được đưa ra dù muộn,-
Chúng tôi nhường nhịn nhau không phải không khó khăn,
Rất nhiều khi, chúng tôi thích nghe hơn
Người khác xúc động nói năng giông bão
Và nó khiến chúng tôi cùng động não;
Y hệt người lõi đời già cả sống bên lề
Vẫn say sưa tập trung dỏng tai nghe
Những cậu bé để râu mê mải kể,
Lão bị lãng quên trong căn lều sập xệ.
XIX.
Зато и пламенная младость
Не может ничего скрывать:
Вражду, любовь, печаль и радость
Она готова разболтать.
В любви считаясь инвалидом,
Онегин слушал с важным видом,
Как, сердца исповедь любя,
Поэт высказывал себя;
Свою доверчивую совесть
Он простодушно обнажал.
Евгений без труда узнал
Его любви младую повесть,
Обильный чувствами рассказ
Давно не новыми для нас.
XIX.
Nhưng bù lại, tuổi trẻ trung bốc lửa
Cũng không thể che giấu gì được nữa:
Cả tình yêu, nỗi buồn, thù hận, với hân hoan
Tuổi trẻ luôn sẵn sàng moi kể hết ruột gan.
Coi mình lõi đời, trong tình yêu sành sỏi,
Ônhêghin vẻ nghiêm trang, ngồi im theo dõi,
Do thích lời thổ lộ từ trái tim
Nhà thơ làm lộ hết bản thân mình;
Trong sâu thẳm, chàng luôn đầy tin tưởng
Chàng rất thật, đưa mọi điều ra kể lể.
Evghênhi quá dễ nhận được ra
Chuyện tình của chàng lúc trẻ ở nhà,
Một câu chuyện thấm đẫm thừa xúc cảm
Với ta chẳng có gì mới từ lâu lắm.
XX.
Ах, он любил, как в наши лета
Уже не любят; как одна
Безумная душа поэта
Еще любить осуждена:
Всегда, везде одно мечтанье,
Одно привычное желанье,
Одна привычная печаль!
Ни охлаждающая даль,
Ни долгие лета разлуки,
Ни музам данные часы,
Ни чужеземные красы,
Ни шум веселий, ни науки
Души не изменили в нем,
Согретой девственным огнем.
XX.
Ôi, ở tuổi ta, ai yêu mê muội,
Là thi sĩ, chàng mải mê theo đuổi
Với tâm hồn mất trí, nổi khùng điên
Số phận đòi chàng phải yêu như mê:
Ở mọi lúc, mọi nơi chỉ chăm chăm điều ước,
Một mong ước luôn luôn nghe quen thuộc,
Một nổi buồn luôn gắn chặt không rời!
Không cách xa để bớt căng cuộc đời,
Không phải sống những năm dài xa cách,
Không giây phút nào cho các nữ thần âm nhạc,
Không được làm quen mọi vẻ đẹp ngoại bang,
Không được vui ầm ỹ, hay khoa học - càng không,
Để tâm trí chàng luôn trước sau như một,
Nhờ có lửa than hồng trinh nguyên làm ấm suốt
XXI
Чуть отрок, Ольгою плененный,
Сердечных мук еще не знав,
Он был свидетель умиленный
Ее младенческих забав;
В тени хранительной дубравы
Он разделял ее забавы,
И детям прочили венцы
Друзья-соседы, их отцы.
В глуши, под сению смиренной,
Невинной прелести полна,
В глазах родителей, она
Цвела, как ландыш потаенный,
Незнаемый в траве глухой
Ни мотыльками, ни пчелой.
XXI.
Tuổi mới lớn, chàng say Ônga mê mẩn,
Trái tim nhỏ chưa một lần đau khổ hẳn
Chàng là người chứng kiến đủ chân thành
Mọi trò vui ngày thơ nhỏ của nàng;
Dưới bóng mát rừng cây xoè cành che chở
Mọi vui thú của nàng, chàng chia sẻ,
Bố mẹ hai bên đã hứa hẹn cùng nhau,
Con trưởng thành, hai nhà kết thông gia mau
Nơi vắng vẻ, trong bóng râm sao yên tĩnh,
Đâu cũng thấy sắc hương hồn nhiên hấp dẫn,
Trong ánh nhìn mẹ cha, thì hẳn con gái yêu
Như đóa linh lan chúm chím được nuông chiều
Ẩn trong thảm cỏ xanh giữa miền vắng vẻ
Tránh xa muỗi ong, trong vòng tay ấp ủ.
XXII
Она поэту подарила
Младых восторгов первый сон,
И мысль об ней одушевила
Его цевницы первый стон.
Простите, игры золотые!
Он рощи полюбил густые,
Уединенье, тишину,
И ночь, и звезды, и луну,
Луну, небесную лампаду,
Которой посвящали мы
Прогулки средь вечерней тьмы,
И слезы, тайных мук отраду…
Но нынче видим только в ней
Замену тусклых фонарей.
XXII.
Nhờ nàng tặng chàng lần đầu gặp mộng
Được đón gặp bao niềm vui, xúc động,
Suy nghĩ về nàng như được khơi lên
Trong lòng chàng những áng thơ đầu tiên.
Xin thứ lỗi, ơi trò chơi trong mộng đẹp!
Chàng yêu thích các khu rừng rậm rạp,
Những nơi êm đềm, không khí thật bình yên,
Cả trời sao, ánh trăng rọi bóng đêm,
Cả trăng sáng đèn trời soi vàng rực,
Ta gắn bó với ánh trăng bao kỉ niệm thực
Những lần hò hẹn trong chạng vạng chiều hôm,
Và lệ rơi, niềm vui thầm kín, đau thương…
Nhưng giờ đây, nhìn trăng ta chỉ thấy
Thứ thường chiếu thay đèn mờ tối vậy.
(4.Tiếng sáo cất cao giọng khóc than đầu tiên.)
XXIII
Всегда скромна, всегда послушна,
Всегда как утро весела,
Как жизнь поэта простодушна,
Как поцелуй любви мила;
Глаза, как небо, голубые,
Улыбка, локоны льняные,
Движенья, голос, легкий стан,
Все в Ольге… но любой роман
Возьмите и найдете верно
Ее портрет: он очень мил,
Я прежде сам его любил,
Но надоел он мне безмерно.
Позвольте мне, читатель мой,
Заняться старшею сестрой.
XXIII.
Nàng khiêm tốn, luôn tỏ ra ngoan ngoãn
Lúc nào cũng vui tươi như trời buổi sáng,
Như cuộc đời thi sĩ quá hồn nhiên
Nàng đáng yêu hệt nụ hôn tình yêu;
Nàng nhìn mắt xanh như trời xanh xanh thẳm,
Nụ cười sáng, lọn tóc nàng vàng sậm,
Tay đung đưa, tiếng nói, dáng nhẹ nhàng,
Tất mọi điều trong Ônga… nhưng bất cứ truyện nào
Ta cầm đọc, thấy tả đều chính xác,
Chân dung thật nàng: sao đáng yêu nhất,
Trước kia tôi từng thích, rất say mê,
Nhưng giờ đây, thấy chán, những muốn chê.
Ơi bạn đọc thân yêu của tôi, xin phép nhé
Nói về chị gái nàng trước tiên, tôi sẽ kể
🌙⭐️
|