May 02, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin tiếp theo Chương một 🍁
Tùng Cương * đăng lúc 10:12:54 PM, Apr 23, 2024 * Số lần xem: 208
Hình ảnh
#1
#2
              

 Tùng Cương dịch Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin
         tiếp theo    Chương Hai
🍁

Thơ  Nga - Aleksandr Pushkin - Yevgeny Onegin 


                     Bác tôi vốn thẳng ngay, cao đạo nhất
                      Ông ốm nặng, đang xa trời, gần đất,

 

Tiếp chương I
Tùng Cương dịch Evghênhi Ônhêghin,

 

II

Так думал молодой повеса,
Летя в пыли на почтовых,
Всевышней волею Зевеса
Наследник всех своих родных.
Друзья Людмилы и Руслана!
С героем моего романа
Без предисловий, сей же час
Позвольте познакомить вас:
Онегин, добрый мой приятель,
Родился на брегах Невы,
Где, может быть, родились вы
Или блистали, мой читатель;
Там некогда гулял и я:
Но вреден север для меня

 

II

Một công tử ham chơi đang nghĩ ngợi
Đi xe ngựa chở thư, đường đầy bụi,
Ơn thần Dớt, thần sức mạnh tận trời cao
Chàng nhận thừa kế của họ mạc gần xa
Thưa bạn hữu của Lyudmila và Rúslan hỡi
Miễn phi lộ, phải nói ngay không đợi,
Xin có lời được giới thiệu ngay thôi

Tiểu thuyết về nhân vật chính của tôi:
Họ - Ônhêghin, tên - Evghênhi - một người hiền tốt
Chàng sinh trưởng trên sông Nhêva, phương Bắc
Nơi có khi, quý vị chắc cũng ra đời,
Hay thành danh, bạn đọc của tôi ơi;
Ở nơi ấy, tôi từng vui dạo bước:

Nhưng vì rét, tôi thích gì phương bắc.


III

Служив отлично, благородно,
Долгами жил его отец,
Давал три бала ежегодно
И промотался наконец.
Судьба Евгения хранила:
Сперва Madame за ним ходила,
Потом Monsieur её сменил.
Ребёнок был резов, но мил.
Monsieur l’Abbé, француз убогой,
Чтоб не измучилось дитя,
Учил его всему шутя,
Не докучал моралью строгой,
Слегка за шалости бранил
И в Летний сад гулять водил.

 

III


Bố chàng phụng sự tận tâm, cao thượng.
Đã nhiều năm, ông mang công mắc nợ,
Thường mỗi năm, mở vũ hội ba lần
Và cuối cùng, ông khánh kiệt bần hàn.
Số phận Evghênhi còn lưu giữ:
Hồi trước nhất, Madame trông nom ông chứ,
Rồi sau này, Monsieur đến thay cô.
Cậu bé con tinh nghịch, nhưng đáng yêu.
Monsieur l’Abbé, là người Pháp khuyết tật,
Ông không bắt trò lao tâm, quá mệt thật 
Mà ông vừa dạy học, lại cho chơi,
Không nhét nhiều luân lý quá khắt khe
Chỉ trách mắng qua loa, khi nghịch dại,
Rồi còn dẫn đến thăm Vườn mùa hạ.

 

6.Madame - (tiếng Pháp) danh từ giống cái; bà, phu nhân

7.Monsieur - (tiếng Pháp ) danh từ giống đực; ông, ngài; 

 

IV

Когда же юности мятежной
Пришла Евгению пора,
Пора надежд и грусти нежной,
Monsieur прогнали со двора.
Вот мой Онегин на свободе;
Острижен по последней моде;
Как dandy[2] лондонский одет —
И наконец увидел свет.
Он по-французски совершенно
Мог изъясняться и писал;
Легко мазурку танцевал
И кланялся непринужденно;
Чего ж вам больше? Свет решил,
Что он умён и очень мил.

 

IV

Rồi cái tuổi thiếu niên hay nổi loạn
Evghênhi cũng trải qua trong giới hạn,
Những ngày hy vọng và buồn tủi dịu dàng,
Monsieur bị nghỉ việc, rời khỏi nhà.
Vậy là Evghênhi của tôi giờ tự do thật;
Chàng để tóc theo mẫu đầu mới nhất;
Ăn mặc như người sành điệu ở London -
Và sau cùng, chàng bước vào đời luôn.
Tiếng Pháp của chàng còn hơn hoàn hảo,
Biết lý giải và viết ra đều giỏi cả;
Điệu mazurka chàng biết nhảy dễ không
Đi hay về, biết chào hỏi  tự nhiên.
Vậy đã đủ? Giới thượng lưu cả quyết:

Chàng đáng yêu và là người rất tuyệt.

V

Мы все учились понемногу,
Чему-нибудь и как-нибудь;
Так воспитаньем, слава Богу,
У нас немудрено блеснуть.
Онегин был, по мненью многих
(Судей решительных и строгих),
Учёный малый, но педант.
Имел он счастливый талант
Без принужденья в разговоре
Коснуться до всего слегка,
С учёным видом знатока
Хранить молчанье в важном споре
И возбуждать улыбку дам
Огнём нежданных эпиграмм.


V

Ta, tất cả đều học hành chút ít,
Chỉ đại khái, chàng màng và nhăng nhít;
Nhờ ơn Trời, ta chẳng thấy có gì
Đáng khoe khoang về giáo dục học đường.
Theo dư luận về Ônhêghin, mà xem xét
(Những nhận xét nghiêm trang và khe khắt)
Hiểu biết nhiều, nhưng thật mọt sách thôi.
Chàng có tài, chỉ là số gặp may,
Khi nói chuyện, luôn là người dễ chịu
Động chạm mọi vấn đề đều nghe dìu dịu ,
Vẻ mặt luôn tỏ ra thông tuệ, tự tin
Gặp cãi tranh quan trọng, chàng lặng im
Và giỏi chuốc cười ở phe phụ nữ,
Biết châm biếm chua cay, bất ngờ nữa.


VI

Латынь из моды вышла ныне:
Так, если правду вам сказать,
Он знал довольно по-латыне,
Чтоб эпиграфы разбирать,
Потолковать об Ювенале,
В конце письма поставить vale,
Да помнил, хоть не без греха,
Из Энеиды два стиха.
Он рыться не имел охоты
В хронологической пыли
Бытописания земли;
Но дней минувших анекдоты,
От Ромула до наших дней,
Хранил он в памяти своей.



VI

Ngày nay, tiếng La tinh đâu còn mốt:
Và sự thật cần cho quý vị biết,
Tiếng La tinh chàng nắm cũng gọi là
Đủ khả năng phân biệt các đề từ,
Đủ để kể về Huvenal, nhà thơ La mã,
Cuối thư biết đặt thêm vale nữa,
Vẫn nhớ rằng, dù không thiếu lỗi sai,
Thơ sử thi Ênêit có hai bài.
Chàng không thấy thiết tha đào sâu quá
Trong đống bụi thời gian quá khứ
Bản viết tay về cuộc sống xửa xưa
Những truyện cười của những tháng ngày xa,
Từ Rômul tới thời ta đang ở
Chàng luôn giữ in sâu trong trí nhớ.


VII

Высокой страсти не имея
Для звуков жизни не щадить,
Не мог он ямба от хорея,
Как мы ни бились, отличить.
Бранил Гомера, Феокрита;
Зато читал Адама Смита
И был глубокой эконом,
То есть умел судить о том,
Как государство богатеет,
И чем живет, и почему
Не нужно золота ему,
Когда простой продукт имеет.
Отец понять его не мог
И земли отдавал в залог.


VII

Chàng không có sự say mê mãnh liệt,
Vì danh hão, đời mình không biết tiếc
Chẳng nhận ra thơ yambơ có gi khác khorêy,
Dù chúng ta có vật vã thế nào đây.
Chàng phê phán Homer, Pheocrit
Nhưng bù lại, mê say Ađam Smith.
Chàng là nhà kinh tế rất uyên sâu,
Nghĩa là hay bàn đến vấn đề sau:
Cách thức quốc gia muốn mau giàu có,
Chuyện dân phải làm gì để sống khá
Và vì sao kinh tế chẳng cần vàng,
Khi làm ra sản phẩm thông thường.
Chính ông bố không hiểu chàng sâu sắc,
Nên ông đã cầm cố luôn ruộng đất.

VIII

Всего, что знал еще Евгений,
Пересказать мне недосуг;
Но в чем он истинный был гений,
Что знал он тверже всех наук,
Что было для него измлада
И труд, и мука, и отрада,
Что занимало целый день
Его тоскующую лень, —
Была наука страсти нежной,
Которую воспел Назон,
За что страдальцем кончил он
Свой век блестящий и мятежный
В Молдавии, в глуши степей,
Вдали Италии своей.


VIII.

Bao kiến thức mà Evghênhi biết rõ,
Tôi không dỗi hơi kể ra đầy đủ;
Nhưng có vài điều, thiên tài đúng là chàng
Tài giỏi giang, mọi khoa học nắm vững vàng,
Tài từ trẻ, chưa bao giờ chàng bận vướng
Cả lao động, khổ đau và vui sướng,
Tài rong chơi chuỗi ngày tháng biếng lười
Khiến cuộc đời buồn rầu rĩ cả người, -
Cũng có thứ thú vui chơi dịu nhẹ,
Được Nadon ngợi ca hết nhẽ,
Nhưng thế nên, ông chịu khổ hạnh hoài,
Cuộc đời ông chói sáng, nổi loạn dài,
Ông đã chết ở Mônđava, ngoài thảo nguyên heo hút,
Xa nước Ý quê hương ông thân thiết.

X

Как рано мог он лицемерить,
Таить надежду, ревновать,
Разуверять, заставить верить,
Казаться мрачным, изнывать,
Являться гордым и послушным,
Внимательным иль равнодушным!
Как томно был он молчалив,
Как пламенно красноречив,
В сердечных письмах как небрежен!
Одним дыша, одно любя,
Как он умел забыть себя!
Как взор его был быстр и нежен,
Стыдлив и дерзок, а порой
Блистал послушною слезой!


X

Sao còn trẻ, đã giỏi bài giả trá,
Giấu ước vọng, tỏ ghen tuông thái quá,
Thuyết phục đừng tin nhé, bắt phải tin,
Tỏ ra mình rầu rĩ, buồn thêm
Giữ thái độ tự cao, luôn ngoan ngoãn
Có thiện chí quan tâm hay lãnh đạm!
Chàng giỏi im đến mệt nhọc rã rời,
Trổ tài hùng biện như truyền lửa cho người,
Thư vẫn viết, giọng nghe đầy ý nhị!
Nói khác làm , càng khác xa suy nghĩ,
Sao tỏ ra biết quên cả bản thân mình!
Chàng nhìn nhanh, thật chan chứa ân tình,
Biết e ngại, sỗ sàng, còn đôi lúc,
Dễ sai khiến lệ rưng rưng lập tức!

XI.

Как он умел казаться новым,
Шутя невинность изумлять,
Пугать отчаяньем готовым,
Приятной лестью забавлять,
Ловить минуту умиленья,
Невинных лет предубежденья
Умом и страстью побеждать,
Невольной ласки ожидать,
Молить и требовать признанья,
Подслушать сердца первый звук,
Преследовать любовь — и вдруг
Добиться тайного свиданья,
И после ей наедине
Давать уроки в тишине!

XI

Sao chàng biết luôn tỏ ra mới lạ,
Hay vờ giả ngã lòng nhằm đe dọa
Giọng cợt đùa làm người chất phác ngạc nhiên,
Lấy lòng người nghe bằng chuyện kể có duyên,
Đón bắt phút giây đối phương xao xuyến
Những ngày tháng sáng trong còn định kiến
Chính phục nàng bằng ý trí với say mê,
Biết chờ thời để nàng mắc bẫy vuốt ve,
Giỏi nài nỉ và đòi nàng nói ra lời ái mộ,
Biết lắng nghe tiếng đầu tiên tim đập vội
Đuổi theo tình yêu - chợt bỗng nhiên
Dàn xếp hò hẹn bí mật với đối phương,
Và sau đó, khi mình nàng đương có mặt,
Cho nàng nhận bài học trong im lặng thật!

XII.

Как рано мог уж он тревожить
Сердца кокеток записных!
Когда ж хотелось уничтожить
Ему соперников своих,
Как он язвительно злословил!
Какие сети им готовил!
Но вы, блаженные мужья,
С ним оставались вы друзья:
Его ласкал супруг лукавый,
Фобласа давний ученик,
И недоверчивый старик,
И рогоносец величавый,
Всегда довольный сам собой,
Своим обедом и женой.

XII

Sao chàng sớm biết gây ra lo lắng
Trái tim các cô diện sang, sốt sắng!
Còn lúc mong ra tay gạt thẳng những người
Đã là tình địch một dạo với chàng rồi
Sao chàng biết gièm pha, đòn ra ác!
Chàng giăng sẵn muôn vàn lưới khác
Nhưng các ngài là chồng quá ngu ngơ,
Các vị còn chơi với chàng cố như xưa:
Tính ranh mãnh, các ông chồng vuốt ve chàng ấy,
Là trò cũ của anh chàng Phoblat vậy
Vừa là chồng già khọm, nặng đa nghi,
Vừa mọc đầy sừng trông lẫm liệt ghê,
Lúc nào cũng, về bản thân, luôn thỏa mãn,
Hài lòng với cơm nhà, má vợ mãi.



XIII. XIV.[~ 2]

..................
..................
..................
..................



XV.

Бывало, он еще в постеле:
К нему записочки несут.
Что? Приглашенья? В самом деле,
Три дома на вечер зовут:
Там будет бал, там детский праздник.
Куда ж поскачет мой проказник?
С кого начнет он? Всё равно:
Везде поспеть немудрено.
Покамест в утреннем уборе,
Надев широкий боливар[3][* 5],
Онегин едет на бульвар[* 6]
И там гуляет на просторе,
Пока недремлющий брегет
Не прозвонит ему обед.

XV

Nhiều khi vẫn trên giường, chưa bước xuống:
Gia nhân đã mang thư nguyên cả đống.
Cái gì đây? Thiếp mời hả? Thực ra,
Mời chàng đi dự hội có ba nhà:
Một nhà có vũ hội, một nhà - tiệc con trẻ,
Chàng chảnh chọe của tôi sẽ đi đâu nhỉ?
Đến nhà ai? Sau hay trước thì cũng như nhau:
Ai cũng đòi đến kịp nào có gì hay đâu,
Giờ chàng bận loay hoay ướm đổi,
Sau chọn mũ Bôliva để đội,
Rồi đến đường đôi rợp bóng hàng cây
Muốn dạo chơi, hãy tìm đến nơi này
Cho đến lúc đồng hồ reo chuông bỏ túi
Báo chàng biết về đúng giờ ăn tối.


XVI.

Уж тёмно: в санки он садится.
«Поди! поди!» — раздался крик;
Морозной пылью серебрится
Его бобровый воротник.
К Talon[4]помчался: он уверен,
Что там уж ждет его ***[* 7].
Вошел: и пробка в потолок,
Вина кометы брызнул ток,
Пред ним Rost-beef окровавленный,
И трюфли — роскошь юных лет,
Французской кухни лучший цвет, —
И Стразбурга пирог нетленный
Меж сыром Лимбургским живым
И ананасом золотым.


XVI

Trời vừa tối, chàng lên xe trượt tuyết.
“Tránh ra chứ!” - nghe vang lên tiếng hét;
Cổ áo chàng là bộ lông hải ly
Tuyết đóng băng ánh lên màu bạc nhỏ li ti.
Xe phóng đến Talon: chàng tin chắc,
Kaverin đón chàng như lời hẹn trước .
Chàng vào nhà, nút chai bật, bắn lên trần,
Rượu vang tràn sủi bọt chảy thành dòng,
Chàng ngồi trước món Rost beef, thịt hồng đỏ,
Và nấm cục - món ăn xa hoa của thời trẻ,
Lính hồn trong ẩm thực Pháp tuyệt vời -
Từ Strasburg patê gan ngỗng nghiền rồi
Được kẹp giữa phô mai ngon tươi hiệu Limburg
Và trái dứa vàng cắt khoanh thành lát mỏng.

XVII.

Ещё бокалов жажда просит
Залить горячий жир котлет;
Но звон брегета им доносит,
Что новый начался балет.
Театра злой законодатель,
Непостоянный обожатель
Очаровательных актрис,
Почетный гражданин кулис,
Онегин полетел к театру,
Где каждый, критикой дыша,
Готов охлопать Entrechat[* 8],
Обшикать Федру, Клеопатру,
Моину вызвать для того,
Чтоб только слышали его.


XVII

Họng vẫn khát đòi uống thêm rượu nữa
Giảm ngấy ngán thịt băm viên bóng mỡ;
Nhưng đồng hồ báo hiệu: đã đến giờ
Vở ba lê mới bắt đầu mở màn kìa.
Là người thú xem hát, đặt luật chơi cao vọi,
Người hâm mộ thất thường, hay thay đổi
Với các cô diễn viên thật nổi, đẹp khác thường,
Là khách mời danh dự nơi hậu trường,
Ônhêghin phóng như bay vào nhà hát,
Trong khán phòng, khán giả hay nhận xét,
Lúc sẵn sàng vỗ tay thưởng điệu Entrechat hay,
Khi gây ồn đòi đuổi Phedra, Kleopatra ngay
Có người nhấp nhổm kêu Moina chỉ để
Làm kẻ khác chú ý người vừa hét thế.

XVIII.

Волшебный край! Там в стары годы,
Сатиры смелой властелин,
Блистал Фонвизин, друг свободы,
И переимчивый Княжнин;
Там Озеров невольны дани
Народных слез, рукоплесканий
С младой Семеновой делил;
Там наш Катенин воскресил
Корнеля гений величавой;
Там вывел колкий Шаховской
Своих комедий шумный рой;
Там и Дидло венчался славой:
Там, там, под сению кулис,
Младые дни мои неслись
.

XVIII

Ơi sứ xở thần tiên! Năm xưa nhà hát,
Người dũng  cảm dẫn thơ giễu cười là cây bút
Từng vang danh Phônvidin, người bạn của tự do,
Và Knhiagnhin có tiếng thông minh, giỏi nhìn xa;
Trên sân khấu thường có thêm Ôderôv
Chia phần thưởng lệ rơi, tiếng vỗ tay như sấm
Với cô nàng Xemiônôva diễn cùng ông;
Là nơi Katenhin của ta giúp hồi sinh
Trên sân khấu thiên tài Coocnây vĩ đại;
Cũng ở đấy, Shakhổpskôi luôn chọc châm đã tạo
Chấn động - ong vỡ tổ nhờ hài kịch của mình;
Cũng ở đây, Đidlô từng gặt hái quang vinh:
 Cũng ở đấy, dưới bóng hậu trường nhà hát,
Ngày tháng tuổi trẻ của tôi trôi vun vút.

XIX.

Мои богини! Что вы? Где вы?
Внемлите мой печальный глас:
Все те же ль вы? Другие ль девы,
Сменив, не заменили вас?
Услышу ль вновь я ваши хоры?
Узрю ли русской Терпсихоры
Душой исполненный полет?
Иль взор унылый не найдет
Знакомых лиц на сцене скучной,
И, устремив на чуждый свет
Разочарованный лорнет,
Веселья зритель равнодушной,
Безмолвно буду я зевать
И о былом воспоминать?


XIX

Các thần nữ ! Giờ ở đâu? Sao nhỉ?
Hãy thấu hiểu tiếng tôi buông ra rầu rĩ:
Các vị còn như xưa? Hay đã người khác đây,
Họ có thay hay còn giữ các vị đến nay?
Liệu tôi được nghe đồng ca của các vị?
Cảnh bay với cả tâm hồn, may thấy lại,
Được diễn trình bởi vũ công Terpsykhora người Nga?
Hay ánh nhìn buồn sẽ chẳng nhận ra
Những khuôn mặt thân quen trông sao buồn bã,
Và hướng tới một kịch trường xa lạ
Cặp ống nhòm đã quá chán chường,
Khán giả thờ ơ ngắm cảnh hội mừng,
Tôi sẽ lặng im rồi ngáp dài tha thiết
Và nhớ mãi cái ngày xưa nay đâu hết?



XX.

Театр уж полон; ложи блещут;
Партер и кресла, всё кипит;
В райке нетерпеливо плещут,
И, взвившись, занавес шумит.
Блистательна, полувоздушна,
Смычку волшебному послушна,
Толпою нимф окружена,
Стоит Истомина; она,
Одной ногой касаясь пола,
Другою медленно кружит,
И вдруг прыжок, и вдруг летит,
Летит, как пух от уст Эола;
То стан совьет, то разовьет,
И быстрой ножкой ножку бьет.


Nhà hát kín người, lô gia lấp lánh;
Khu tầng dưới, khán giả còn nhốn nháo;


XX

Nhà hát kín người, lô gia lấp lánh;
Khu tầng dưới, khán giả còn nhốn nháo;
Nơi tầng trên, người xem nóng lòng chờ,
Cót két kêu, màn được kéo cao dần kìa,
Diễn viên nữ Istômina còn đứng đó,
Đèn chiếu rọi càng khiến nàng nổi rõ,
Trông nàng như không khí, nhẹ dễ bay,
Toàn thân chìm vào tiếng nhạc huyền diệu đang chơi,
Múa ở giữa bầy tiên luôn tay vẫy,
Nàng đứng nhón đầu ngón chân trên sàn gỗ,
Còn chân kia quay chậm đủ vòng tròn,
Nàng nhảy lên, chợt bay cao như chiếc lông con;
Thân nàng lúc xoắn lại, khi bung ra trước mắt,
Hai chân đập vào nhau nhanh thoăn thoắt.

 уст Эола - nghĩa bóng: gió thổi, gió bay


XXI.

Всё хлопает. Онегин входит:
Идет меж кресел по ногам,
Двойной лорнет, скосясь, наводит
На ложи незнакомых дам;
Все ярусы окинул взором,
Всё видел: лицами, убором
Ужасно недоволен он;
С мужчинами со всех сторон
Раскланялся, потом на сцену
В большом рассеяньи взглянул,
Отворотился, и зевнул,
И молвил: «всех пора на смену;
Балеты долго я терпел,
Но и Дидло мне надоел»[5].



Tôi đã chịu đựng ba lê lâu ngày quá đấy,
Nhưng đến Đidlô còn làm tôi chán ngấy”.


XXI

Tất khán giả vỗ tay. Ônhêghin vào chỗ:
Lựa chân khách, lách giữa hai hàng ghế gỗ,
Chàng nhẹ đưa ống nhòm ngó nhìn nghiêng
Về phía lô gia các mệnh phụ không quen;
Chàng đưa mắt nhìn theo từng tầng một lượt,
Nhìn được hết: qua mũ khăn, nét mặt,
Chàng cực kì thấy không thật hài lòng;
Với cánh đàn ông từ các phía trong
Chàng chào hỏi rồi hướng sang sân khấu,
Mắt nhìn khắp, mặt tỏ ra lơ đãng,
Chàng quay mình lại và miệng ngáp dài
Và nói ra:”Đến lúc tất cả phải thay rồi,
Tôi đã chịu đựng ba lê lâu ngày quá đấy,
Nhưng đến Đidlô còn làm tôi chán ngấy”.


XXII.

Еще амуры, черти, змеи
На сцене скачут и шумят,
Еще усталые лакеи
На шубах у подъезда спят;
Еще не перестали топать,
Сморкаться, кашлять, шикать, хлопать;
Еще снаружи и внутри
Везде блистают фонари;
Еще, прозябнув, бьются кони,
Наскуча упряжью своей,
И кучера, вокруг огней,
Бранят господ и бьют в ладони:
А уж Онегин вышел вон;
Домой одеться едет он.


XXII

Nào ma quỷ, thần tình yêu, rắn rết
Trên sân khấu, đang hát hò, nhảy nhót,
Còn đám người phục vụ mệt rã ra,
Mặc áo lông đứng dọc lối vào đang gật gà;
Họ liên tục giậm chân làm người ấm,
Nào sụt sịt, ho khan, đập tay cho bớt cóng
Cả bên ngoài lẫn khắp phía trong nhà
Nhìn chỗ nào cũng đèn sáng chan hoà
Ngựa bị lạnh, đứng gõ chân va lộc cộc,
Đang phát chán vì dây cương quấn chặt,
Dưới ánh đèn, xà ích đứng, sáng choang,
Miệng lầm bầm chửi chủ, tay đập hăng:
Còn Ônhêghin đã bước nhanh ra phố;
Lên xe vội về nhà thay áo quần cả bộ.

  🌹

XXIII.

Изображу ль в картине верной
Уединенный кабинет,
Где мод воспитанник примерной
Одет, раздет и вновь одет?
Всё, чем для прихоти обильной
Торгует Лондон щепетильной
И по Балтическим волнам
За лес и сало возит нам,
Всё, что в Париже вкус голодной,
Полезный промысел избрав,
Изобретает для забав,
Для роскоши, для неги модной, —
Всё украшало кабинет
Философа в осьмнадцать лет.


XXIII

Tôi có tả hệt như tranh hiện thực
Phòng thay áo quần nằm riêng cách biệt,
Chàng là người mẫu mực đúng mốt rồi
Hết mặc vào, cởi sạch, lại mặc vào thôi
Mọi thứ chạy theo thói đua đòi quá mức
London bán đồ linh tinh đủ hết,
Họ lần theo biển Ban tích đến tìm ta,
Mang hàng sang và chở gỗ, mỡ về nhà,
 Pari có khẩu vị, sành ăn được chiều theo ý thích
Họ đã chọn một nghề nghe hữu ích
Làm mọi điều giải khuây theo mốt, hợp thời,
Phục vụ người giàu có, hưởng lạc trên đời,-
Tất tật được điểm trang cho phòng thật tuyệt
Ở tuổi mười tám của chàng hiền triết.

XXIV.

Янтарь на трубках Цареграда,
Фарфор и бронза на столе,
И, чувств изнеженных отрада,
Духи в граненом хрустале;
Гребенки, пилочки стальные,
Прямые ножницы, кривые,
И щетки тридцати родов —
И для ногтей, и для зубов.
Руссо (замечу мимоходом)
Не мог понять, как важный Грим
Смел чистить ногти перед ним,
Красноречивым сумасбродом[6]:
Защитник вольности и прав
В сем случае совсем неправ.


XXIV

Từ Tsaregrad đem về tẩu thuốc lá
Bàn bầy kín đồ đồng, sành sứ cả.

Man mác niềm vui gây cảm xúc trong ta
Thấy lọ pha lê mài cạnh đựng nước hoa;
Lược, dũa móng tay làm ra từ thép mạ sáng
Đã có kéo cong, lại còn kéo thẳng,
Bàn chải thì có tới ba chục loại riêng -
Nào dùng cho móng tay, nào để đánh răng.
Ngay Rútsô ( chỉ nhắc qua qua thôi nhé)
Cũng không hiểu, bằng cách nào Grim nổi tiếng thế
Lại cho làm sạch móng trước mặt ông, nên
Như một người gàn dở thật hiển nhiên:
Người bảo vệ tự do và công bằng xã hội
Trong trường hợp này hoàn toàn sai, rõ tội.

Chú thích: Dòng 1, nếu dịch đủ các từ, sẽ gồm toàn vần “trắc” và nhiều hơn 10 tiếng, nên tôi chọn cách hy sinh từ “ hổ phách”.


XXV.

Быть можно дельным человеком
И думать о красе ногтей:
К чему бесплодно спорить с веком?
Обычай деспот меж людей.
Второй ***[* 9], мой Евгений,
Боясь ревнивых осуждений,
В своей одежде был педант
И то, что мы назвали франт.
Он три часа, по крайней мере,
Пред зеркалами проводил
И из уборной выходил
Подобный ветреной Венере,
Когда, надев мужской наряд,
Богиня едет в маскарад.

XXV

Ta có thể cứ tham công tiếc việc
Mà vẫn có thời gian chăm cho móng đẹp:
Có uổng công tranh luận với thế kỷ này?
Phong tục là bạo chúa chi phối con người đây
Là Trađaiép thứ hai, Evghênhi của tôi nghĩ
Sợ sẽ bị lên án vì người đời ghen tị,
Chọn phục trang, chàng cẩn thận, kỹ càng,
Ta thường coi họ là tay ăn diện điệu đàng,
Ít nhất vẫn phải ba giờ thật sự,
Đứng mãi trước gương, thử xong, lại thử
Và mỗi khi, từ phòng trang điểm bước ra
Trông như thần nhẹ dạ và cả tin Venera
Sau khi khoác lên người đồ đàn ông đủ thứ,
Nữ thần vội đi hội hoá trang để dự.

🌺

XXVI.

В последнем вкусе туалетом
Заняв ваш любопытный взгляд,
Я мог бы пред ученым светом
Здесь описать его наряд;
Конечно б это было смело,
Описывать мое же дело:
Но панталоны, фрак, жилет,
Всех этих слов на русском нет,
А вижу я, винюсь пред вами,
Что уж и так мой бедный слог
Пестреть гораздо меньше б мог
Иноплеменными словами,
Хоть и заглядывал я встарь
В Академический Словарь.


XXVI

Với sở thích cuối cùng là ăn mặc,
Chuyện đã khiến bạn nhìn tò mò  là chắc
Tôi xin ra trước hội nghị khoa học cho coi,
Xin tả qua trang phục của Evghênhi;
Có thể đánh giá tôi là dũng cảm,
Khi dám chọn một điều là mô tả:
Nhưng từ: quần lót, áo đuôi tôm với gi lê
Các từ này, tiếng Nga trước có đâu,
Còn tôi biết, xin lỗi mau quý vị,
Đành chấp nhận vốn từ trong tôi quá bí
Đành dùng thưa hơn, không có đa màu,
Nhiều từ ngoại bang nhập tiếng mình từ lâu
Dù tôi có tra tìm mau thời cũ,
Cuốn từ điển Viện Hàn lâm từng soạn đủ.

XXVII.

У нас теперь не то в предмете:
Мы лучше поспешим на бал,
Куда стремглав в ямской карете
Уж мой Онегин поскакал.
Перед померкшими домами
Вдоль сонной улицы рядами
Двойные фонари карет
Веселый изливают свет
И радуги на снег наводят;
Усеян плошками кругом,
Блестит великолепный дом;
По цельным окнам тени ходят,
Мелькают профили голов
И дам, и модных чудаков.


XXVII

Bây giờ chuyện này ta chưa nói:
Hay nhất phải phóng ngay tới vũ hội,
Có chiếc xe như gió thổi chạy băng băng,
Trong xe là Ônhêghin của tôi đang vội hăng
Xe chạy lướt ngang các toà nhà đèn đã tắt,
Dọc theo các phố đang ngủ say im ắng,
Đèn đôi được lắp trên xe
Chiếu ra màu sáng thấy mắt vui ghê
In rọi rõ hình cầu vồng lên mặt tuyết;
Đèn dầu đĩa treo chung quanh thắp hết,
Hiện ra lâu đài tuyệt đẹp, đèn chiếu sáng trưng;
Bóng người trong cửa sổ lướt ngang
Hình một nửa đầu người hiện ra thấp thoáng
Những kẻ sính mốt, bao quý bà làm dáng.

XXVIII.

Вот наш герой подъехал к сеням;
Швейцара мимо, он стрелой
Взлетел по мраморным ступеням,
Расправил волоса рукой,
Вошел. Полна народу зала;
Музыка уж греметь устала;
Толпа мазуркой занята;
Кругом и шум, и теснота;
Бренчат кавалергарда шпоры;
Летают ножки милых дам;
По их пленительным следам
Летают пламенные взоры,
И ревом скрыпок заглушен
Ревнивый шепот модных жен.

XXVIII

Và nhân vật của ta đi vào phòng khách;
Chàng như mũi tên vượt qua người gác,
Lao như bay trên bậc đá hoa cương,
Đưa tay lên sửa lại tóc bay rối tung;
Chàng bước vào phòng. Nhà đầy người đang chật chội;
Âm nhạc đã chơi lâu nên mệt mỏi;
Đám đông đang mải nhảy madurka;
Bốn bề ầm ỹ và chật cứng va nhau;
Nghe lách cách cựa giày sỹ quan cận vệ ;
Chân các quý bà xinh xinh như bay lượn nhẹ;
Theo bước chân đầy ma mị, mê say
Bao ánh nhỉn rực lửa bám theo ngay,
Và tiếng vĩ cầm vang lên át hẳn
Các bà rất mốt, nổi ghen đang ca thán.


🌹

XXIX.

Во дни веселий и желаний
Я был от балов без ума:
Верней нет места для признаний
И для вручения письма.
О вы, почтенные супруги!
Вам предложу свои услуги;
Прошу мою заметить речь:
Я вас хочу предостеречь.
Вы также, маменьки, построже
За дочерьми смотрите вслед:
Держите прямо свой лорнет!
Не то… не то избави, Боже!
Я это потому пишу,
Что уж давно я не грешу.

XXIX

Những ngày hội thật vui, đầy ước muốn
Mê vũ hội khiến tôi càng mụ mẫm:
Không nơi nào tốt hơn để ngỏ lời yêu,
Để gái trai trao thư hẹn cho nhau
Các ông chồng kính yêu, thưa các vị!
Một vài hỗ trợ - tôi xin đề nghị;
Vậy mọi người hãy ghi nhận lời tôi:
Tôi có lời cảnh báo trước mọi người.
Còn các mẹ, hãy cẩn trọng nhiều hơn thế
Hãy theo sát con gái mình thường xuyên nhé:
Ống nhòm luôn phải gắn với mắt mình!
Không thì…không thì cầu trời giúp cho nhanh!
Vậy kế tiếp, tôi viết luôn việc đó,
Vì lâu lắm, phạm lỗi lầm -tôi đâu dám có.

XXX.

Увы, на разные забавы
Я много жизни погубил!
Но если б не страдали нравы,
Я балы б до сих пор любил.
Люблю я бешеную младость,
И тесноту, и блеск, и радость,
И дам обдуманный наряд;
Люблю их ножки: только вряд
Найдете вы в России целой
Три пары стройных женских ног.
Ах, долго я забыть не мог
Две ножки!.. Грустный, охладелой,
Я всё их помню, и во сне
Они тревожат сердце мне.

XXX

Ôi trời hỡi, sao nhiều trò giải trí
Làm tôi tổn hại cuộc đời vào nơi đó nhỉ
Nhưng giá thần kinh không bị tổn thương,
Tôi đến nay, chỉ yêu vũ hội là đương nhiên
Tôi ưa thích tuổi trẻ luôn điên dại,
Thích đông đúc, đèn lung linh, và vui mãi,
Trang phục trong tay chăm chút của quý bà;
Cái tôi yêu ở họ là cặp chân thôi mà:
Chắc đi khắp nước Nga quý vị đâu tìm nổi
Chân dài của chị em, dù vài đôi, cân đối
Trời ơi, từ lâu lắm tôi không thể nào quên
Chân ra chân!… Tôi buồn quá, nguội lạnh hơn,
Tôi vẫn nhớ chúng, ngay khi nằm mộng
Đôi chân đó vẫn làm tim tôi xao động.

          
XXXI.

Когда ж, и где, в какой пустыне,
Безумец, их забудешь ты?
Ах, ножки, ножки! Где вы ныне?
Где мнете вешние цветы?
Взлелеяны в восточной неге,
На северном, печальном снеге
Вы не оставили следов:
Любили мягких вы ковров
Роскошное прикосновенье.
Давно ль для вас я забывал
И жажду славы, и похвал,
И край отцев, и заточенье?
Исчезло счастье юных лет —
Как на лугах ваш легкий след.


XXXI

Bao giờ thế? Ở đâu? Trong vùng xa nào đấy?
Anh điên hỡi? Anh có quên đôi chân ấy
Thế mới là chân! Đang ở đâu phút giây này
Thảm hoa xuân nào được đón chân em nhẹ bay?
Chúng được dưỡng nuôi trong phương đông hoan lạc
Đang lần bước trên tuyết buồn xứ bắc,
Chân em qua không để lại dấu vết nào:
Chân chỉ yêu thảm mềm dịu biết bao
Những lần chạm nhẹ chân sao quý giá.
Quyến luyến với chân lâu có làm tôi quên cả
Bao khát khao danh tiếng với thưởng khen,
Quê hương và nơi tù giam có bị lãng quên ?
Đâu còn nữa hạnh phúc bao năm trẻ tuổi
Chân em lướt, vết in mờ trên đồng cỏ.

XXXII.

Дианы грудь, ланиты Флоры
Прелестны, милые друзья!
Однако ножка Терпсихоры
Прелестней чем-то для меня.
Она, пророчествуя взгляду
Неоцененную награду,
Влечет условною красой
Желаний своевольный рой.
Люблю ее, мой друг Эльвина,
Под длинной скатертью столов,
Весной на мураве лугов,
Зимой на чугуне камина,
На зеркальном паркете зал,
У моря на граните скал.

XXXII.

Dù khuôn ngực Điana, ở Phlora là đôi má,
Ơi các bạn thân yêu! Đều là tuyệt cả.
Nhưng đôi chân của Terpsykhora
Lôi cuốn tôi càng mạnh mẽ ở chỗ là
Chân nàng đoán trước cho tôi đẩy kì vọng
Có phần thưởng quý vô cùng, vượt xa trông ngóng
Thu hút tôi bằng vẻ đẹp quá miên man,
Khơi dậy trong tôi thật lắm ước mong.
Tôi yêu lắm đôi chân, bạn Elvina của tôi hỡi,
Tấm khăn trải bàn dài che đôi chân đặt dưới
Mùa xuân về, chân bước trên thảm cỏ non,
Rồi sang đông, chân đặt trên tấm sưởi gang,
Chân bay lượn sàn gỗ trơn như gương sáng,
Bên bờ biển, mỏm đá ở gần chân khoe dáng.

XXXIII.

Я помню море пред грозою:
Как я завидовал волнам,
Бегущим бурной чередою
С любовью лечь к ее ногам!
Как я желал тогда с волнами
Коснуться милых ног устами!
Нет, никогда средь пылких дней
Кипящей младости моей
Я не желал с таким мученьем
Лобзать уста младых Армид,
Иль розы пламенных ланит,
Иль перси, полные томленьем;
Нет, никогда порыв страстей
Так не терзал души моей!

XXXIII

Tôi nhớ biển trước ngày giông bão tới:
Sao tôi thấy ghen với bao con sóng nổi
Đang lao về ào ạt, lớp lớp dâng trào,
Sao tôi mong ôm chân nàng với tình yêu!
Sao tôi ước được hoà vào con sóng
Hôn chân đáng yêu, dịu dàng mơn chớn
Không, chưa bao giờ trong ngày tháng đắm say,
Ngay khi tôi còn trẻ, đang sục sôi đây
Tôi dám ước với nỗi đau buồn tủi,
Hôn môi thắm các nàng Armid trẻ tuổi,
Hay má nàng như hoa hồng cháy đỏ rực trời
Hay ngực nàng đang mỏi mệt bồi hồi,
Không, chưa có cơn say mê nào tôi thấy
Lại cấu xé tâm hồn tôi đến vậy!

🌹
 
XXXIV.

Мне памятно другое время:
В заветных иногда мечтах
Держу я счастливое стремя
И ножку чувствую в руках;
Опять кипит воображенье,
Опять ее прикосновенье
Зажгло в увядшем сердце кровь,
Опять тоска, опять любовь…
Но полно прославлять надменных
Болтливой лирою своей:
Они не стоят ни страстей,
Ни песен, ими вдохновенных:
Слова и взор волшебниц сих
Обманчивы, как ножки их.

XXXIV

Tôi lại nhớ có những thời khắc khác:
Trong mơ ước thiêng liêng của tôi nhiều lúc
Tôi còn cầm cương hạnh phúc của tôi
Tưởng như chân nàng vẫn trong vòng tay tôi thôi;
Trí tưởng tượng lại bùng lên sôi nổi,
Việc khẽ chạm chân nàng đang nóng hổi
Đốt con tim khô úa, máu lại chảy nhanh hơn,
Lại ngập tràn tình yêu, lại trĩu buồn
Nhưng ca ngợi các cô nàng kiêu kiêu đã đủ
Nàng thơ thích đong đưa, khen quá lố:
Họ có gì đáng được hưởng sự đắm say,
Họ có gì đòi bài ca cổ vũ đêm ngày:
Những lời nói, ánh nhìn bầy tiên nữ ấy
Đều dối trá như chân họ quen bay nhẩy.

XXXV.

Что ж мой Онегин? Полусонный
В постелю с бала едет он:
А Петербург неугомонный
Уж барабаном пробужден.
Встает купец, идет разносчик,
На биржу тянется извозчик,
С кувшином охтенка спешит,
Под ней снег утренний хрустит.
Проснулся утра шум приятный,
Открыты ставни, трубный дым
Столбом восходит голубым,
И хлебник, немец аккуратный,
В бумажном колпаке, не раз
Уж отворял свой васисдас.

XXXV.

Ônhêghin của tôi sao rồi?Chàng mơ mơ tỉnh tỉnh
Từ vũ hội về, leo lên giường để ngủ:
Còn Peterburg như ong vỡ tổ suốt ngày
Tiếng trống vang, thành phố thức giấc, ồn ào ngay.
Nhà buôn dậy, người bán hàng rong xuôi ngược,
Đám xà ích vội ra nơi để xe ngựa,
Từ làng Ôkhta cô bán sữa vội vội vàng vàng,
Dưới chân cô tuyết buổi sáng lạo xạo âm vang.
Buổi mai sớm, phố xá lao xao càng vui rõ
Nhà mở cửa, bếp bập bùng ánh lửa đỏ
Tỏa lên trời làn khói mỏng màu xanh
Bán bánh mỳ, một người Đức dáng tinh nhanh
Đầu đội mũ giấy, luôn tay làm hối hả,
Lo bán bánh cho khách qua ô cửa sổ mở.

XXXVI.

Но, шумом бала утомленной
И утро в полночь обратя,
Спокойно спит в тени блаженной
Забав и роскоши дитя.
Проснется за полдень, и снова
До утра жизнь его готова,
Однообразна и пестра,
И завтра то же, что вчера.
Но был ли счастлив мой Евгений,
Свободный, в цвете лучших лет,
Среди блистательных побед,
Среди вседневных наслаждений?
Вотще ли был он средь пиров
Неосторожен и здоров?

XXXVI.

Nhưng vũ hội ồn ào, người bải hoải
Biến buổi sáng thành nửa đêm trở lại,
Chàng mê man trong giấc ngủ say sưa,
Như thiêu thân, chàng giải trí mọi thứ xa hoa.
Đêm quá nửa, mới tỉnh giấc ra, và lại,
Cuộc sống cứ quay cuồng thâu đêm, tận sáng mãi
Vừa giống nhau, vừa muôn dạng muôn màu,
Và ngày mai lại hệt hôm trước như nhau
Nhưng Evghênhi của tôi có thấy chăng hạnh phúc,
Có thấy tự do tháng ngày huy hoàng nhất,
Với bao nhiêu chiến tích rực sáng, vang lừng,
Với đêm ngày , chàng hưởng lạc tưng bừng ?
Hết dự tiệc lại hội hè là vô ích nhỉ
Chàng bất cẩn và có còn mạnh khoẻ?

💚

XXXVII.

Нет: рано чувства в нем остыли;
Ему наскучил света шум;
Красавицы не долго были
Предмет его привычных дум:
Измены утомить успели;
Друзья и дружба надоели,
Затем, что не всегда же мог
Beef-steaks и стразбургский пирог
Шампанской обливать бутылкой
И сыпать острые слова,
Когда болела голова;
И хоть он был повеса пылкой,
Но разлюбил он наконец
И брань, и саблю, и свинец.

XXXVII.

Không, tình cảm chàng mau ra lạnh giá;
Chàng thấy chán giới thượng lưu ồn ã;
Các bóng hổng khiến chàng phải bận tâm
Nhưng nghĩ suy về họ chẳng được lâu:
Chuyện phản bội kịp làm mau mỏi mệt;
Rồi bè bạn và tình yêu đều chán hết,
Vì làm gì có thể bất cứ khi nào
Cũng nốc sâm panh cả chai vào
Cùng món beef-steaks và patê gan Strasburg
Và thêm nếm gia vị - những câu đùa sâu sắc,
Khi trong đầu đã đau nhức ong ong;
Và cho dù chàng trẻ tuổi còn hăng,
Nhưng sau chót, chàng bắt đầu phát chán
Cả đấu súng, kiếm gươm, và súng đạn.


XXXVIII.

Недуг, которого причину
Давно бы отыскать пора,
Подобный английскому сплину,
Короче: русская хандра
Им овладела понемногу;
Он застрелиться, слава Богу,
Попробовать не захотел,
Но к жизни вовсе охладел.
Как Child-Harold, угрюмый, томный
В гостиных появлялся он;
Ни сплетни света, ни бостон[* 10],
Ни милый взгляд, ни вздох нескромный,
Ничто не трогало его,
Не замечал он ничего.

XXXVIII.

Có căn bệnh mà nguyên nhân của nó
Từ lâu lắm, đã đến ngày cần hiểu rõ,
Nó giống từ spleen trong tiếng Anh,
Nói ngắn là хандра - trầm cảm, tiếng Nga, sầu u
Bệnh đã nhiễm vào chàng chút ít;
Vang danh Chúa, giương súng lên tìm cái chết
Chắc chàng chưa muốn thử làm đâu,
Nhưng với đời, chàng chán ngắt đã lâu.
Như Child-Harold, hay mệt mau, cáu gắt
Chàng đã đến rất nhiều phòng khách;
Kể cả bao tin nhảm, đến thú bạc, bài,
Cả ánh nhìn đáng yêu, đến sỗ sàng thở dài
Không có chuyện gì làm chàng xúc động,
Mọi thứ ở quanh, không mảy may coi trọng.

XXXIX. XL. XLI.[~ 3]

..................
..................
..................

XLII.

Причудницы большого света!
Всех прежде вас оставил он.
И правда то, что в наши лета
Довольно скучен высший тон.
Хоть, может быть, иная дама
Толкует Сея и Бентама;
Но вообще их разговор
Несносный, хоть невинный вздор.
К тому ж они так непорочны,
Так величавы, так умны,
Так благочестия полны,
Так осмотрительны, так точны,
Так неприступны для мужчин,
Что вид их уж рождает сплин[7].

XLII.

Thưa các quý bà thượng lưu kỳ cục!
Chàng đã bỏ các bà ngay từ trước.
Sự thật là ở tuổi tác của ta,
Giọng bề trên sao mà nghe buồn thay.
Và có thể là một bà nào đó
Đứng ra nói về Sêy với Bentam rành rõ
Nhưng nói chung, mọi chuyện họ trình bày
Đều khó nghe, vì chẳng có gì hay.
Thêm vào đó, họ lại trong sáng quá,
Dáng bệ vệ, luôn thông minh, gì cũng hay cả,
Trong tâm hồn, lòng mộ đạo thấm sâu,
Họ kiêu kỳ, đòi chính xác từng câu,
Đàn ông với họ làm sao hoà hợp được
Mới thấy bộ dạng họ đã bị trầm cảm trước


XLIII.

И вы, красотки молодые,
Которых позднею порой
Уносят дрожки удалые
По петербургской мостовой,
И вас покинул мой Евгений.
Отступник бурных наслаждений,
Онегин дома заперся,
Зевая, за перо взялся,
Хотел писать — но труд упорный
Ему был тошен; ничего
Не вышло из пера его,
И не попал он в цех задорный
Людей, о коих не сужу,
Затем, что к ним принадлежу.



XLIII.

Thưa các quý cô, những nàng trẻ tuổi,
Rồi những lúc đến giờ muộn tối,
Nhiều chiếc xe táo tợn đón các cô,
Xe chạy trên đường phố Peterburg,
Evghênhi bỏ mặc các cô từ trước.
Mọi hưởng lạc điên cuồng chàng từ khước,
Ônhêghin khoá trái cửa phòng hoài
Bút vừa cầm, đã ngáp ngắn ngáp dài,
Chàng muốn viết, nhưng việc làm bền bỉ
Chàng không thạo, lại càng kinh cứ nghĩ
Cố viết xong, chẳng được của ra hồn,
Và chàng chưa nhập hội làm thơ luôn
Gồm những kẻ mà tôi không lên án quá
Vì một lẽ, tôi nằm trong hội đó.

ХLIV

И снова, преданный безделью,
Томясь душевной пустотой,
Уселся он — с похвальной целью
Себе присвоить ум чужой;
Отрядом книг уставил полку,
Читал, читал, а все без толку:
Там скука, там обман иль бред;
В том совести, в том смысла нет;
На всех различные вериги;
И устарела старина,
И старым бредит новизна.
Как женщин, он оставил книги,
И полку, с пыльной их семьей,
Задернул траурной тафтой.


XLIV.

Chàng vẫn thích đời rong chơi, tiêu khiển,
Hồn trống rỗng khiến người thêm mệt mỏi,
Chàng ngồi bàn với mục đích đáng khen
Trí khôn nằm trong sách, đọc hết ắt khôn lên;
Bày ra sách kín luôn trên giá,
Đọc sách nọ, sách kia, đều vô ích cả:
Cuốn thì buồn, cuốn dối trá, cuốn hồ đồ;
Lương tâm không có, sách còn ý nghĩa gì;
Ngàn loại xích để xiềng người có đủ;
Sách đã cũ giờ đây càng cổ hủ,
Sách mới theo đường cũ vẫn u mê.
Sách bỏ đi như phụ nữ bị bỏ bê,
Vứt sách đấy, bụi phủ che các giá,
Thôi dẹp hết, trùm khăn tang tất cả.

ХLV

Условий света свергнув бремя,
Как он, отстав от суеты,
С ним подружился я в то время.
Мне нравились его черты,
Мечтам невольная преданность,
Неподражательная странность
И резкий, охлажденный ум.
Я был озлоблен, он угрюм;
Страстей игру мы знали оба;
Томила жизнь обоих нас;
В обоих сердца жар угас;
Обоих ожидала злоба
Слепой Фортуны и людей
На самом утре наших дней.


XLV.

Bỏ quy định nặng nề giới thượng lưu đòi hỏi,
Khi chàng mệt vì ngược xuôi đến khổ,
Tôi kết thân với chàng đúng lúc này.
Tôi ưa nhiều tính cách của chàng ngay,
Luôn tận tụy đuổi theo bao mơ ước,
Chàng cư xử lạ lùng, tự nhiên, không bắt chước,
Trí óc chàng lạnh lùng, sắc sảo thay.
Tôi cau cau, có có, còn chàng khó - thấy ngay
Cả hai chúng tôi biết trò chơi say đắm;
Cuộc đời khiến chúng tôi rã rời lắm;
Hai chúng tôi lửa tim tắt lạnh tanh;
Chúng tôi chờ cơn thù hận đến nhanh
Từ người khác, từ phận mình mù quáng
Ngay đầu đời, mới bước vào cuộc sống.

💖

XLVI

Кто жил и мыслил, тот не может
В душе не презирать людей;
Кто чувствовал, того тревожит
Призрак невозвратимых дней:
Тому уж нет очарований,
Того змия воспоминаний,
Того раскаянье грызет.
Все это часто придает
Большую прелесть разговору.
Сперва Онегина язык
Меня смущал; но я привык
К его язвительному спору,
И к шутке, с желчью пополам,
И злости мрачных эпиграмм.


XLVI.

Ai sống biết nghĩ suy đều không thể

Tận đáy lòng, không khinh thường nhân thế;

Ai thông minh dễ thấy lo một điều 

Bóng ma ngày tháng đã mất đều không về;

Đều không thấy còn say mê thêm hẳn

Với nhiều ký ức ẩn hình như loài rắn

Đều bị ăn năn, hối hận cấu cào.

Tất thứ này đều đem lại rất nhiều 

Điều hấp dẫn tuyệt vời cho bao trao đổi.

Lúc mới gặp, ngôn ngữ mà Evghênhi hay nói

Có làm tôi bối rối; nhưng quen ngay

Với luận tranh hay dùng lý lẽ chua cay,

Với cách giễu, một nửa pha đầy bức bối,

Thơ châm biếm hằn học càng đen tối.


XLVII

Как часто летнею порою,
Когда прозрачно и светло
Ночное небо над Невою
И вод веселое стекло
Не отражает лик Дианы,
Воспомня прежних лет романы,
Воспомня прежнюю любовь,
Чувствительны, беспечны вновь,
Дыханьем ночи благосклонной
Безмолвно упивались мы!
Как в лес зеленый из тюрьмы
Перенесен колодник сонный,
Так уносились мы мечтой
К началу жизни молодой.


XLVII.

Như thường thấy, mỗi khi mùa hè đến,

Trời trong suốt và chan hoà ánh sáng,

Khi màn đêm buông xuống sông Nhêva,

Nước sông soi như mặt kính vui tươi ra

Không hiện rõ khuôn trăng Điana được 

Khi nhớ lại chuyện tình nhiều năm trước,

Hồi tưởng về mối tình mới vừa qua,

Lại thấy dâng trào cảm xúc bao la,

Trong im lặng chúng tôi uống say túy luý

Bằng hơi thở trời đêm đầy thoáng khí!

Như tù nhân đeo gông vẫn mơ màng

Từ ngục tù được thả sang rừng xanh,

Ta bay mãi như trong mơ mong ước 

Về lại đoạn đầu đời trẻ trung ngày trước.


XLVIII

С душою, полной сожалений,
И опершися на гранит,
Стоял задумчиво Евгений,
Как описал себя пиит.
Все было тихо; лишь ночные
Перекликались часовые,
Да дрожек отдаленный стук
С Мильонной раздавался вдруг;
Лишь лодка, веслами махая,
Плыла по дремлющей реке:
И нас пленяли вдалеке
Рожок и песня удалая…
Но слаще, средь ночных забав,
Напев Торкватовых октав!


XLVIII.

Lòng chất chứa mang nhiều tiếc nuối quá

Một tay dựa trên tường kè đá,

Evghênhi đang đứng, dáng trầm ngâm,

Như một người thơ vẽ lên bản thân.

Bốn bề lặng yên; tai chỉ nghe thấy nổi

Lính đêm gác gọi nhau trao đổi 

Tiếng bánh xe lăn vọng lại từ xa

Chợt từ đường Milionaya được lan ra;

Một thuyền nhỏ mái chèo đang khua nước,

Thuyền mơ ngủ trên dòng sông nhẹ lướt:

Và ta say với tiếng hát ngân nga

Tiếng tù và, đàn hát nghe vẳng xa…

Nhưng thật ngọt, giữa trò chơi đêm vắng,

Nghe càng rõ âm điệu bài ca Torkvat!

💖

XLIX

Адриатические волны,
О Брента! нет, увижу вас
И, вдохновенья снова полный,
Услышу ваш волшебный глас!
Он свят для внуков Аполлона;
По гордой лире Альбиона
Он мне знаком, он мне родной.
Ночей Италии златой
Я негой наслажусь на воле,
С венецианкою младой,
То говорливой, то немой,
Плывя в таинственной гондоле;
С ней обретут уста мои
Язык Петрарки и любви.

 

XLIX.

Ơi sóng biển trào dâng Ađriatich!

Ơi sông Brenta! Không, tôi sẽ gặp sông và biển,

Tôi lại đầy niềm hứng khởi vô biên,

Tôi sẽ nghe tiếng các bạn diệu huyền!

Nó thiêng với các nhà thơ do Appolo bảo lãnh;

Theo đại diện thơ nước Anh đầy kiêu hãnh

Tiếng nói tôi thân quen, đáng thân yêu.

Những đêm dài Italy rực rỡ, thấy nhớ nhiều 

Niềm hoan lạc trong tự do đều tận hưởng,

Người thay mặt thành Venesia là cô gái trẻ,

Lúc cô cười nói, khi chỉ lặng im nghe

Khi bơi du thuyền huyền bí gondola;

Cô giúp đỡ để tôi nhanh biết nói

Thứ ngôn ngữ tình yêu, tiếng thơ Petrack


L

Придет ли час моей свободы?
Пора, пора! — взываю к ней;
Брожу над морем, жду погоды,
Маню ветрила кораблей.
Под ризой бурь, с волнами споря,
По вольному распутью моря
Когда ж начну я вольный бег?
Пора покинуть скучный брег
Мне неприязненной стихии
И средь полуденных зыбей,
Под небом Африки моей,
Вздыхать о сумрачной России,
Где я страдал, где я любил,
Где сердце я похоронил.


L.


Liệu giờ phút tự do của tôi có tới?

Đã đến lúc!- với tự do - tôi mời gọi

Tôi lang thang trên biển, đợi đẹp trời,

Tìm tàu giăng buồm no gió - tôi vẫy mời 

Khoác áo bão tố, đua tài với sóng,

Trước ngã bảy tự do đi theo ý muốn 

Bao giờ tôi được chạy nhảy tự do?

Đã đến ngày rời bờ bến sầu lo,

Nơi thời tiết với tôi luôn gây khó,

Mong đùa rỡn trên biển Nam đầy sóng gió

Dưới bầu trời châu Phi quý giá của tôi,

Vẫn thở dài nhớ nước Nga tăm tối muôn đời 

Nơi tôi khổ đau, còn tình yêu ở lại,

Nơi có trái tim tôi đã vùi sâu mãi mãi.


LI

Онегин был готов со мною
Увидеть чуждые страны;
Но скоро были мы судьбою
На долгой срок разведены.
Отец его тогда скончался.
Перед Онегиным собрался
Заимодавцев жадный полк.
У каждого свой ум и толк:
Евгений, тяжбы ненавидя,
Довольный жребием своим,
Наследство предоставил им,
Большой потери в том не видя
Иль предузнав издалека
Кончину дяди старика.


LI.

Ônhêghin đã cùng tôi lo xong sẵn

Sẽ cất bước lên đường thăm nhiều nước lắm;

Nhưng rất nhanh, số phận đã ra tay

Chia cách hai chúng tôi đôi ngả lâu ngày.

Cha chàng đã qua đời ngay dạo đó.

Đến vây kín nhà chàng có từng đoàn, từng lũ,

Đám người cho vay nặng lãi, tham lam.

Ai chả đều tính toán, nghĩ suy riêng:

Evghênhi tức giận trước tai ương ập lại,

Dùng tiền của trong nhà, trả nợ luôn cả lãi

Chàng hài lòng nhận số vận đời mình,

Cứ coi như là không thiệt hại gì,

Hoặc chàng biết trước mọi điều từ rất sớm,

Ông bác của chàng quy tiên là chắc chắn.

 


LII

Вдруг получил он в самом деле
От управителя доклад,
Что дядя при смерти в постеле
И с ним проститься был бы рад.
Прочтя печальное посланье,
Евгений тотчас на свиданье
Стремглав по почте поскакал
И уж заранее зевал,
Приготовляясь, денег ради,
На вздохи, скуку и обман
(И тем я начал мой роман);
Но, прилетев в деревню дяди,
Его нашел уж на столе,
Как дань готовую земле.

LII.

Và đúng thật, chợt chàng xem thư báo
Từ viên quản lý điền trang của bác,
Rằng bác chàng đang thập tử nhất sinh,
Rất muốn chàng về gặp bác thật nhanh.
Đọc xong thư - tin không vui vừa nhận,
Chàng lập tức lên đường theo bác dặn,
Chàng vội vàng đi xe trạm chở thư,
Ngay từ đầu đã thể hiện chán ghê,
Chuẩn bị phải về chỉ vì tiền của bác,
Vẫn thở vắn than dài, buồn dối lừa như trước
(Vậy cho nên tôi mới viết chuyện này);
Nhưng vừa bay về nhà bác ở làng đây,
Thấy ngay cảnh trên bàn bác đã mất,
Như đồ tế phải giao cho thần đất.

LIII

Нашел он полон двор услуги;
К покойнику со всех сторон
Съезжались недруги и други,
Охотники до похорон.
Покойника похоронили.
Попы и гости ели, пили
И после важно разошлись,
Как будто делом занялись.
Вот наш Онегин — сельский житель,
Заводов, вод, лесов, земель
Хозяин полный, а досель
Порядка враг и расточитель,
И очень рад, что прежний путь
Переменил на что-нибудь.

LIII.

Chàng vừa thấy: người làm đông rối rít
Đang hối hả lo lễ tang người chết,
Đến dự tang đủ hết bạn và thù,
Cả những người rình cỗ đám mò về.
Người chết đã mả đẹp mồ yên là sướng
Các cha cố, khách vừa ăn và uống,
Ăn uống xong, mặt vênh váo, ra về,
Cứ như làm xong công việc cần thiết ghê.
Giờ Evghênhi của ta thành người làng thật sự ,
Làm chủ xưởng, ao hồ, rừng cây, đồng ruộng,
Chủ hoàn toàn, vì từ trước tới nay ,
Chàng là quân phá hoại, hay phí phạm tiêu pha,
Chàng sung sướng: con đường đi ngày trước
Giờ được đổi bằng cái gì rất khác.

LIV

Два дня ему казались новы
Уединенные поля,
Прохлада сумрачной дубровы,
Журчанье тихого ручья;
На третий роща, холм и поле
Его не занимали боле;
Потом уж наводили сон;
Потом увидел ясно он,
Что и в деревне скука та же,
Хоть нет ни улиц, ни дворцов,
Ни карт, ни балов, ни стихов.
Хандра ждала его на страже,
И бегала за ним она,
Как тень иль верная жена.

LIV.

Tất mọi thứ, hai ngày đầu, chàng coi mới cả,
Những đồng đất đứng riêng nhìn rộng quá
Cảnh rừng xanh mát mẻ lúc chiều tà,
Dòng suối con róc rách vui tai ta;
Ngày thứ ba thì rừng, đồi và đồng đất
Không hấp dẫn, chẳng khiến chàng say thật
Thậm chí làm chàng vạ vật tỉnh tỉnh mê mê
Và cuối cùng chàng nhận ra vấn đề:
Ở quê cũng lại buồn ghê buồn gớm,
Dù phố xá, lâu đài, quê không có lắm,
Không bạc, bài, không vũ hội, với hội thơ,
Buồn nẫu lòng bám chặt chàng từng phút từng giờ
Buồn đeo bám đuổi theo chàng áp sát
Như hình với bóng hay vợ hiền chung tình nhất.

💖


LV

Я был рожден для жизни мирной,
Для деревенской тишины;
В глуши звучнее голос лирный,
Живее творческие сны.
Досугам посвятясь невинным,
Брожу над озером пустынным,
И far nientе мой закон.
Я каждым утром пробужден
Для сладкой неги и свободы:
Читаю мало, долго сплю,
Летучей славы не ловлю.
Не так ли я в былые годы
Провел в бездействии, в тени
Мои счастливейшие дни?

 

LV.

Tôi sinh ra để sống đời yên ả,
Để tận hưởng sự thanh bình nơi thôn dã;
Tiếng huyền cầm chốn thanh vắng quá ngân nga,
Những giấc mơ sáng tạo sinh động ra.
Do chỉ thích kiểu giải khuây vô hại,
Tôi đi dạo ven hồ đang thanh vắng mãi,
Far riente là lựa chọn của tôi.
Mới sáng ra, tôi đã thức dậy rồi
Để thụ hưởng tự do và hoan lạc:
Chỉ mỗi việc ngủ nhiều, tôi ít đọc,
Không kiếm tìm thứ danh vọng thoảng qua.
Có đúng không những năm tháng đã xa
Tôi đã sống, không làm gì, luôn ở ẩn,
Những ngày tháng yên vui nhất đời tôi hẳn?


LVI

Цветы, любовь, деревня, праздность,
Поля! я предан вам душой.
Всегда я рад заметить разность
Между Онегиным и мной,
Чтобы насмешливый читатель
Или какой-нибудь издатель
Замысловатой клеветы,
Сличая здесь мои черты,
Не повторял потом безбожно,
Что намарал я свой портрет,
Как Байрон, гордости поэт,
Как будто нам уж невозможно
Писать поэмы о другом,
Как только о себе самом.

LVI.
 
Ơi hoa lá, tình yêu, thôn quê, sự dỗi dãi!
Lòng tôi sắt son, thủy chung cùng bạn mãi.
Tôi luôn vui khi nhận ra nét khác nhau
Giữa Evghênhi và bản thân tôi là ở đâu,
Để bạn đọc quen thói mau giễu cợt
Hay ai đó chuyên đưa tin thất thiệt,
Mưu mô gieo tin vu khống, bôi nhọ lôi thôi,
Hay so đo những tính cách của tôi,
Rồi sau đó không nhắc hoài vô liêm sỉ,
Rằng tôi vẽ bẩn hình ảnh tôi đang giữ
Như Bairơn, nhà thơ kiêu hãnh hơn người,
Dường như ta chỉ có một cách trên đời
Hễ cứ viết thơ ca về người nào khác,
Đều lấy mẫu là mình ra khai thác.


LVII

Замечу кстати: все поэты —
Любви мечтательной друзья.
Бывало, милые предметы
Мне снились, и душа моя
Их образ тайный сохранила;
Их после муза оживила:
Так я, беспечен, воспевал
И деву гор, мой идеал,
И пленниц берегов Салгира.
Теперь от вас, мои друзья,
Вопрос нередко слышу я:
«О ком твоя вздыхает лира?
Кому, в толпе ревнивых дев,
Ты посвятил ее напев?


 

LVII.


 Nhân thể nói, các nhà thơ hầu hết
Đều chìm đắm trong tình yêu như mơ tất.
Và nhiều khi, có đối tượng đáng yêu thôi
Tôi nằm mơ được gặp và lòng tôi
Giữ thật kín hình ảnh riêng của họ;
Nàng thơ thức họ dậy,  rồi sau đó:
Và tôi vô tư cất giọng ngợi ca
Cả cô nàng sơn cước, lí tưởng của tôi mà,
Cả người nữ tù nhân bên bờ sông Calgira đấy,
Thưa các bạn, giờ tôi hay nghe thấy,
Có lắm khi các bạn cứ hỏi hoài:
“Nàng Thơ anh thương thầm, nhớ vụng ai?
Giữa cả đám những nàng ghen tuông nhất
Anh sáng tác tặng riêng ai, mau thú thật?


LVIII

Чей взор, волнуя вдохновенье,
Умильной лаской наградил
Твое задумчивое пенье?
Кого твой стих боготворил?»
И, други, никого, ей-богу!
Любви безумную тревогу
Я безотрадно испытал.
Блажен, кто с нею сочетал
Горячку рифм: он тем удвоил
Поэзии священный бред,
Петрарке шествуя вослед,
А муки сердца успокоил,
Поймал и славу между тем;
Но я, любя, был глуп и нем.

 

LVIII.


Ai có ánh mắt làm tim ta phát sốt,
Đã ban thưởng yêu thương bằng ve vuốt
Những bài thơ giầu suy ngẫm của anh?
Viết trong thơ, anh đã thần tượng ai?”
Và bạn ạ, có ai đâu, trời hỡi!
Từng yêu đấy, mà thấy lo lắng mãi
Chẳng có gì vui sướng nghĩ đến yêu.
Hạnh phúc thay những ai biết hoà đều
Tình yêu với vần thơ thiêu nóng bỏng:
Cơn say đắm thi ca tăng gấp đôi hứng khởi,
Cứ theo chân thi sĩ Petrak mà noi,
Giúp tim mình lắng xuống khổ đau rồi,
Và giành được vinh quang là nhờ đó;
Nhưng vì yêu, tôi ngu đần, câm không nói.

LIX

Прошла любовь, явилась муза,
И прояснился темный ум.
Свободен, вновь ищу союза
Волшебных звуков, чувств и дум;
Пишу, и сердце не тоскует,
Перо, забывшись, не рисует,
Близ неоконченных стихов,
Ни женских ножек, ни голов;
Погасший пепел уж не вспыхнет,
Я все грущу; но слез уж нет,
И скоро, скоро бури след
В душе моей совсем утихнет:
Тогда-то я начну писать
Поэму песен в двадцать пять.


LIX.

Tình yêu hết, thì Nàng thơ bước tới,
Đầu óc tối tăm lại trở nên sáng chói.
Được tự do, tôi lại cố pha đều
Âm nhạc, suy nghĩ , cảm xúc đầy diệu huyền;
Tôi ngồi viết, con tim ngừng đau khổ,
Quên hết cả, cây bút đâu cần vẽ đủ
Bên cạnh bài thơ đang bỏ dở dang,
Không hình đầu, chân thiếu nữ trên trang;
Tro tắt ngấm không sao bùng cháy lại,
Lòng buồn bã: nhưng lệ rơi khô cạn mãi,
Và nhanh thôi, dấu vết của bão giông
Trong lòng tôi cũng tan biến vào hư không:
Vào lúc đó, tôi bắt tay ngồi viết
Trường ca lớn phải hai nhăm chương mới hết.

LX

Я думал уж о форме плана
И как героя назову;
Покамест моего романа
Я кончил первую главу;
Пересмотрел все это строго:
Противоречий очень много,
Но их исправить не хочу.
Цензуре долг свой заплачу
И журналистам на съеденье
Плоды трудов моих отдам:
Иди же к невским берегам,
Новорожденное творенье,
И заслужи мне славы дань:
Кривые толки, шум и брань!

LX.

Tôi đã nghĩ chọn số chương, bố cục
Và cả việc đặt tên cho nhân vật thực;
Trong thời gian, tôi viết thật xong xuôi
Chương đầu tiên của tiểu thuyết thơ tôi;
Tôi đọc lại từ đầu nghiêm túc hẳn
Trong nhân vật, tính cách mang rất nhiều mâu thuẫn,
Nhưng giờ đây, tôi chưa muốn sửa ngay.
Xin nhường cho kiểm duyệt lo việc này,
Mặc báo chí điểm sách xuống tay nuốt sống
Tôi cống hiến thành quả mình lao động:
Ơi sách thơ tôi vừa viết xong rồi,
Hãy ra bờ sông Nhêva, tìm người đọc thơ tôi
Hãy mang lại cho tôi món quà danh tiếng:
Nào phê phán, ồn ào và chửi mắng!




CHÚ THÍCH 

Chương Một

(Số La Mã là khổ thơ, số thường là thứ tự dòng

I.

Lời đề từ: Sống gấp mà cảm xúc cũng gấp. 

                                  Viademxki 

Động từ “ чувствовать» có nhiều nghĩa, nhưng không có nghĩa “yêu”. Danh từ”чувство» có nghĩa “tình yêu” là nghĩa thuộc văn phong hội thoại, suồng sã.

Tham khảo bản tiếng Anh, chúng tôi thấy vài bản chúng tôi đọc qua, đều dùng từ “to feel”, nên “ чувствовать» dịch là “cảm xúc”.

 

II.

5.друзья Людмилы и Руслана là cách gọi bạn đọc Evghênhi Ônhêghin của Puskin. Ruslan và Lyudmila là một trường ca của Puskin, Xuất bản năm 1820.

14.Но вреден….Ngầm ý nhắc về cuộc đi đầy ở phương Nam. Puskin ghi chú: viết tại Bessarabia, vùng đất lịch sử giữa hai dòng Prust và Dniester, ngày nay nằm trên lãnh thổ Moldava và Ukraina

 

III.

1.Mẫu ngôn ngữ văn phòng đánh giá quan chức thời đó: đã tận tâm phụng sự công việc.

14.Летний сад - Công viên ở trung tâm Peterburg , buổi sáng là chỗ đi chơi của trẻ em.

IV.

7.Dandy- sành điệu, sành mốt.

VI.

 

2.Ямб-Thể thơ, trọng âm đặt ở các âm tiết chẵn:
Мой дЯдя сАмых чЕстных прАвил…”.
(А.С. Пушкин)
2.Хорей-Thể thơ, trọng âm nằm ở các âm tiết lẻ:
БУря мглОю нЕбо крОет
Вихри снежные крутя
(А.С. Пушкин)
2.1.Vần đực hay vần nam (мужская рифма) - hai từ hiệp vần với nhau, cùng có trọng âm đặt ở âm tiết cuối của từ.. Thí dụ:
На заре ты её не будИ,
На заре она сладко так спИт;
Утро дышит у ней на грудИ,
Ярко пышет на ямках ланИт.
(Афанасий Фет)
2.2.Vần cái hay vần nữ (Женская рифма) - hai từ hiệp vần với nhau, cùng có trọng âm đặt ở âm tiết trước âm tiết cuối cùng. Thí dụ:
Засверкал огонь зарнИцы,
На гнезде умолкли птИцы,
Тишина леса объЕмлет,
Не качаясь, колос дрЕмлет;
(Афанасий Фет)

 

5.Huvenal- (sinh khoảng năm 42, mất khoảng năm 125 sau Công nguyên ) nhà thơ trữ tình La Mã .

6.Vale- lời chúc giữ sức khỏe, bảo trọng.

13.Romul - nhà sáng lập và vị vua đầu tiên của La Mã, thế kỷ VIII trước Công nguyên

VII.

5.Gomer nhà thơ dân gian cổ Hy Lạp, theo phỏng đoán, ông sống từ tk.XII tới VII trước Công nguyên 

5.Pheôcrit (tk. III, trước Công nguyên)  nhà thơ Hy Lạp cổ.

6.Adam Smith (1723-1790) nhà kinh tế Anh.

VIII.

10.Nadon Ôvidi nhà thơ La Mã (năm 43 trước Công nguyên, tới năm 16 sau công nguyên.)

XII.

9.фоблас là nhân vật trong tiểu thuyết của Luve-đe-Kuvre (1760-1797) “Cuộc phiên lưu của Phoblat” .Tên của nhân vật chuyên quyến rũ phụ nữ.

XV.

11.Bulvar-Đại lộ có trồng cây ở dải đất giữa hai chiều đường. Đại lộ Nhepski ở Peterburg trước mùa xuân 1820, dải đất giữa trồng cây gia, có lúc được mọi người gọi là bulvar.

XVI.

5.Talon - tên khách sạn có trước mùa xuân 1825, trên đại lộ Nhepski, Peterburg .

6.Kaverin Piôtr Páplôvích (1794-1855) bạn của Puskin thời học sinh và ở Peterburg .

XVII.

3-4.Giờ mở màn bắt đầu đêm diễn ở nhà hát thời đó là 18 h.

12-13.Федра - nhân vật vở opera được chuyển thể lại từ bi kịch cùng tên của Rasin.

Клеопатра - người đời sau không xác định được vai nào mà Puskin nhắc tới.

Моина- nhân vật nữ trong bi kịch của Ôdêrôv “ фингал».

XVIII.

Фонвизин Денис Иванович (1745-1792) nhà văn Nga thời Ekaterina, nhà ngôn ngữ, “ông tổ hài kịch Nga”

Княжнин Яков Борисович (1742-1791) kịch gia, tác giả bi kịch “Росслав «

Озеров Владислав Александрович (1761-1816) kịch gia, tác giả “Эдир в Афинах”.

Катенин Павел Александрович (1792-1853) người tích cực tham gia phong trào tháng Chạp.

Шаховской А А (1777-1846), kịch gia, đạo diễn sân khấu.

Дидло Карл (1767-1837) diễn viên múa balet nổi tiếng ở Peterburg thời đó.

XIX.

Терпсихора  theo thần thoại cổ Hy Lạp, là thần nhảy múa.

XX.

Истомина Авдотья Ильинична (1799-1848) diễn viên chính Đoàn balet Peterburg.

XXIV.

1.Tên Царьград là tên thành phố Konstantinopol. Từng là thủ đô đế quốc La Mã, từ năm 330 tới 395, đế quốc Bidantin và Đông La Mã, từ 395 tới 1204, và 1261 tới 1453, đế quốc Ôsman từ 1453 tới 1922. Nằm trên vị trí chiến lược giữa châu Âu và Á. Suốt thời trung cổ, là thành phố giàu có và lớn nhất.

Người Slavơ quen gọi là Tsaregrad hay Stambul. Stambul có chính thức từ năm 1930.

9-14.

Russo Gian Giắc (1712 - 1778), nhà văn, triết gia Pháp.

Grimm Melkhior (1723-1807) nhà văn thuộc giới bách khoa thư.

XXV.

Чаадаев Пётр Яковлевич (1794-1856) nhà hoạt động xã hội, triết gia.

Венера theo thần thoại cổ La Mã, thần tình yêu.

XXVII.

Плошки đĩa phẳng gắn chân đèn nến hay nến.

XXXII.

-Диана - thần mặt trăng,

-Флора - thần cỏ cây, hoa lá,

Елькина -tên ước lệ trong thi ca.

XXXIII.

Armida- nhân vật nữ chính trong trường ca của Torkvato Tacco (1544-1595) “Zeruzalem được giải phóng”.

XXXV.

Oxtinka - phụ nữ vùng Ôkhta, ngoại ô của Peterburg , chuyên cung cấp sữa cho thành phố, chủ yếu là người Phần Lan.

-васисдас - từ gốc Đức nhập vào tiếng Pháp, chỉ cửa sổ mở bán hàng, ( có tác giả lại giải thích là trò chơi chữ: giữa nghĩa từ форточка và biệt danh người Đức trong tiếng Nga: Was ist đas? - Что это?)

 

XXXVIII.

Child-Harod - nhân vật có tâm trạng vỡ mộng, chán đời trong thơ của Bairơn .

XLVIII.

Пиит - nhà thơ, thi sỹ, ý châm biếm: người thơ.

Phố Miliônáia chạy song song đường Bờ sông (Nhêva), ở quận trung tâm Peterburg.

 

XLIX.

Sông Brenta chảy trong khu vực Venesia (Vơnidơ)Ý.

LV.

Far niente (tiếng Ý) -Thú ăn chơi, Thú rong chơi.

 

 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.