|  Hồi ức về Đà Lạt Xưa
 
 Hồi   ức của tôi về xứ sở Sương Mù bắt đầu từ năm 1953, khi đó  mấy  mẹ con tôi từ phi trường Gia Lâm, Hà Nội, bay thẳng vào Đà  Lạt  còn bố thì đã vào trước vì ông phục  vụ trong lực  lượng Ngự Lâm Quân của Vua Bảo Đại tại đất Hoàng  triều Cương  thổ.
 
 Máy  bay nhà binh đáp xuống phi  trường nhỏ ở gần thác Cam Ly cách  thành phố hơn 3km (chứ không  phải là phi trường lớn Liên Khương  ở rất xa) vào một buổi  chiều, vừa mưa  vừa lạnh trong khi bố vẫn chưa đến đón!
 
 
  Thác Cam Ly
 
 Trong   lúc mấy mẹ con còn đang ngỡ ngàng trước khung cảnh mới lạ và đầu óc   còn lâng lâng sau gần 3g bay bổng trên mây thì mẹ tôi bỗng lên  tiếng: “Cậu  kìa!”. (Gia đình tôi vẫn còn giữ phong tục của một số người miền Bắc: Bố được gọi là Cậu, Mẹ là Mợ).
 
 Tôi  chỉ nhìn  thấy mờ mờ trong màn sương một bóng người mặc áo mưa đang tiến  dần về  phía 5 mẹ con. Cuối cùng thì gia đình gặp nhau, mừng mừng tủi  tủi.
 
 Chiếc xe Peugeot màu đen chở chúng tôi vào thành phố. Đầu óc non nớt của tôi thoáng có ý nghĩ: “Cậu  mình có cả ôtô nữa!’. Xe  dừng lại tại một căn nhà của bạn bố tôi  trên đường Cầu Quẹo (hình  như ngày nay đổi tên thành Phan Đình Phùng).  Sau khi nhận tiền, tài xế  lái chiếc Peugeot 203 đi, khi đó tôi mới  nhận ra chiếc xe không phải  của Bố, chỉ là chiếc... Taxi!
 
 
  Bố tôi trong bộ quân phục Ngự Lâm Quân
 
 Những   ngày đầu tiên vào Đà Lạt tôi có dịp khám phá những chuyện thật trẻ  con.  Chúng tôi chơi trốn tìm, tôi đinh ninh là bạn mình trốn sau cánh  cửa  nhưng cu cậu lại xuất hiện sau tấm màn đỏ  và reo lêu: “Lêu lêu mắc  cở!”. Người Bắc không có chữ ‘mắc  cở’ nên tôi suy luận ‘mắc cở’ là...  cái màn cửa màu đỏ.
 
 Sau vài tuần “ở  nhờ” nhà  bạn của  bố, gia đình chúng tôi đã mua được một căn  nhà trên đường Lê  Thái Tổ. Từ nhà nhìn qua phía bên kia thung lũng  là đường rầy xe lửa.  Ngày hai buổi sáng-chiều có chuyến Đà Lạt - Tháp  Chàm chạy qua.
 
 
  Căn nhà xưa đối diện với đường tầu phía bên kia thung lũng
 
 Vì   đây là đoạn cuối của cuộc hành trình nên chiều chiều vào khoảng 4g   chuyến xe lửa từ Tháp Chàm về luôn hú những hồi còi dài trước khi vào ga   Đà Lạt. Bọn trẻ chúng tôi thường vẫy tay  với hành khách trên  tầu, con tầu hình như cũng biết mệt sau khi  từ đồng bằng leo dốc  lên cao nguyên bằng đường sắt răng cưa.
 
 
 .jpg) Ga Đà Lạt (hình chụp năm 1948)
 
 Hằng  ngày chúng tôi dùng cửa sau, leo  một con dốc nhỏ xuyên qua nhà số 7 Lê  Thái Tổ, Câu lạc bộ Sĩ quan Ngự  Lâm Quân. Từ đây có thể đón xe đò Trại  Hầm hoặc Trại Mát để xuống phố,  cách khoảng  3km.
 Trại  Hầm, một cái tên thật bình dân,  mộc mạc như những cư dân sinh sống tại  đây. Từ nhà tôi xuống Trại Hầm  chỉ mất độ hơn 5 phút đi bộ nhưng phải  vượt qua một con dốc dài, quanh  co vì khu  vực này nằm trong một thung lũng. Hai bên đường là những căn  nhà vách  gỗ thông, mái tôn và phía sau nhà là những khu vườn rộng theo  triền dốc  thoai thoải.
 Vào  thời đó, nguồn lợi chính của dân  Trại Hầm là trái mận. Khác với loại mận  dưới miền Tây, mận Đà Lạt trái  nhỏ, có vị hơi chua nhưng khi chín thì  mềm nhũn, ngọt lịm. Mận Trại Hầm  có 2 giống,  vỏ màu đỏ hoặc vàng nhưng hoa lại có chung một màu trắng  toát. Mận vàng  bao giờ cũng ngon hơn mận đỏ và giá bán cũng chênh lệch  nên người ta  chỉ thích trồng loại mận vỏ vàng.
 Đi xe  đò Trại Hầm - Đà Lạt là đoạn  đường tôi đã nhiều lần đi qua: từ nhà vượt  một con dốc lên đường Lê  Thái Tổ, xuống một đoạn dốc ngắn đến đường  Trần Hưng Đạo, nơi có rất  nhiều biệt thự vào lọai đẹp nhất Đà Lạt, trong đó phải kể đến biệt thự của Đại tướng Lê Văn Tỵ chiếm trọn một quả đồi có hàng rào vây quanh.
 Hết  đường Trần Hưng Đạo sẽ gặp cây  xăng Kim Cúc, nếu rẽ trái sẽ hướng về  đèo Prenn, đi thẳng sẽ gặp nhà  thờ Con Gà và nếu rẽ phải là đường Hồ  Tùng Mậu, bắt đầu từ Khách sạn  Sans Souci đổ  dốc xuống Hồ Xuân Hương gặp nhà hàng Thủy Tạ. Đi ven theo  hồ sẽ gặp Cầu  Ông Đạo và cuối cùng lên một con dốc sẽ đến Khu Hòa  Bình, trung tâm  thành phố Đà Lạt.
 
 
  Nhà hàng Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương
 
 Hồ   Xuân Hương, ngày xưa có tên Grand Lac (Hồ Lớn) là một hồ nhân tạo,  được  đào vào năm 1919. Để tạo thành hồ, người ta đắp một cái đập chắn  dòng  suối chảy qua thung lũng, trên mặt đập là một  cây cầu mang tên  Cầu Ông Đạo. Đập này nằm trước dinh Quản Đạo mà vị  Quản đạo bấy giờ là  Phạm Khắc Hòe vẫn được dân địa phương gọi là Ông  Đạo.
 
 
  Hồ Xuân Hương và cầu Ông Đạo ngày xưa
 
 Tôi   bắt đầu vào Lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) tại trường Nam  tiểu  học Đà Lạt, gần khu Hòa Bình. Tôi còn nhớ, cô giáo Lớp Năm có  một  cái tên rất đặc biệt: Huỳnh Bá Thiên  Vân. Có thể nói  tôi là một trong những “học trò cưng” của cô nên hầu như tháng  nào cũng có  Bảng Danh Dự!
 
 
 .jpg) Bảng danh dự (1954)
 
 Năm   tôi trở lại Đà Lạt học lớp Đệ Nhất trường Trần Hưng Đạo tôi   được gặp lại em của cô: Huỳnh Bá Tuệ Dương cùng với Từ Công   Phụng, người Chàm từ Ninh Thuận cũng  trọ học tại Đà Lạt.  Chúng tôi thành lập ban nhạc của trường,  chơi đàn theo phong  cách của ban The Shadows,  và có lần trình diễn trên sân khấu rạp hát Hòa Bình.
 
 
  Ban nhạc trường Trần Hưng Đạo
 
 Chúng   tôi thường ngồi Cà Phê Tùng, một phần không thể thiếu được   của Đà Lạt. Khi mới vào Đà Lạt năm 1953, Tùng đã có mặt   trước đợt di cư năm 54 của những người miền  Bắc.
 Tùng  có một  không gian chật hẹp với những chiếc bàn cũ kỹ, những bức  tranh bạc  màu, ánh đèn mờ mờ. Không sang trọng nhưng Tùng có những  nét riêng  thu hút rất nhiều văn nghệ sĩ  mỗi khi lên cao nguyên. Số 6 khu  Hòa Bình đã trở thành một phần  của Đà Lạt sương mù.
 
 
  Cà Phê Tùng
 
                        Mẹ   tôi có một gian hàng bán mũ nỉ, còn gọi là mũ phớt dành cho nam giới   tại chợ Đà Lạt, khi đó chưa có chợ lầu như ngày nay. Chợ cũ bằng cây,   lợp tôn và được xây dựng từ năm 1929 tại vị  trí rạp chiếu bóng 3 tháng  4, khu Hòa Bình ngày nay.
 
 
  Chợ Hòa Bình ngày ấy
 
 Năm sửa soạn lên Lớp Nhì suốt kỳ hè ông anh lớn của tôi kèn học rất gắt để… “học nhảy”,   có nghĩa là tôi sẽ không học Lớp Nhì mà vào luôn Lớp Nhất.   Cũng vì lý do đó, tôi chuyển sang trường tiểu học Đa Nghĩa, phải  đi  bộ một khoảng khá xa nên phải đem theo ‘gà  mên’ đựng cơm để ăn trưa tại trường rồi tiếp tục học vào buổi chiều.
 Đi học tuy xa nhưng lại có cái thú... ăn trộm dâu tây ‘tại chỗ’ khi   băng qua vườn dâu trên đường đến trường hoặc đi học về. Chỉ cần liếc   thấy trái dâu nào chín đỏ, hơi cúi xuống cho vừa tầm tay là hái liền,   vội vàng bỏ ngay vào miệng. Người ta trồng dâu có khi tưới bằng nước   tiểu pha loãng nhưng chúng tôi cứ thế bỏ vào mồm.  Ngon không thể tả  được!
 Trên đường đi học về phải đi qua đường Cầu Quẹo rồi tới rạp xiné Ngọc Hiệp. Bên cạnh rạp xiné có bến xe và một số hàng quán, nổi bật nhất là quán mì quảng và xe thịt bò khô. Tôi và các bạn vẫn thường ghé xe   thịt bò khô của ông Tàu già. Lúc không có khách, ông dùng cái kéo to   bản, màu đen, cắt vào không khí để tạo tiếng lách cách như một lời rao   hàng mà không phải tốn hơi.
 
 
  Rạp Ngọc Hiệp
 
 Sau   này về Sài Gòn tôi cũng nhiều lần ăn thịt bò khô ở góc đường Lê Lợi -   Pasteur (nơi có nước mía Viễn Đông và phá lấu ghim bằng que tăm) hoặc   đối diện với công viên Lê Văn Tám (xưa là  Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi)  trên đường Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, không nơi  nào có được hương vị thịt  bò khô như ở bên hông rạp Ngọc Hiệp Đà Lạt  ngày còn bé. Có lẽ ấn tượng  ban đầu lúc nào cũng đáng nhớ.
 Chủ  Nhật gia đình tôi thường xuống  phố Hòa Bình ăn trưa tại tiệm ăn Mỹ Hương  có hương vị Bắc hoặc tiệm ăn  Tàu trên cùng đường. Tôi còn nhớ, cả gia  đình đi taxi xuống phố chứ  không đi xe đò  như ngày thường. Xuống phố - đúng ra là lên phố - thật  vui vì được đi  ăn tiệm, được nhìn thiên hạ đi dạo phố trong những bộ  đồ ‘kẻng’ nhất.  Tuần nào tôi cũng mong cho chóng đến Chủ Nhật…
 
 
  Lò bánh mì Vĩnh Chấn đầu dốc Duy Tân
 
 Những   người Bắc mới di cư vào Nam năm 1954 thường có khuynh hướng bắt chiếc   sử dụng những từ ngữ và cách phát âm của miền Nam, chẳng hạn như hột   vịt đọc thành hột ‘dzịt’,  đôi vớ (tất) thành đôi ‘dzớ’.
 Đối với những học sinh di cư từ Bắc vào Nam như tôi cũng không phải là ngọai lệ. Tôi cố theo lối phát âm miền Nam khi ở trường vui chơi với bạn bè nhưng khi về đến nhà tôi lại giữ nguyên giọng Bắc.
 Ngày nay, những người miền Bắc vào sinh sống tại miền Nam hình như, vì nhiều lý do, không cần phải “đổi  giọng”. Ngược lại, “những người thắng cuộc” đem  vào miền Nam rất nhiều từ ngữ lạ với cách phát âm mà nhiều người phải than… không giống ai!
 Riêng gần Đà Lạt có một khu nổi tiếng mang tên Lâm Hà mà báo chí không ngớt lời ca tụng:
 “Hơn   40 năm trước, hàng ngàn thanh niên đã tạm biệt Thủ đô để vào Nam Tây   Nguyên khai hoang mở đất theo tiếng gọi của Đảng đi xây dựng vùng  kinh  tế mới. Hành trang của họ không chỉ là sức trẻ mà còn là cốt cách,  tâm  hồn của quê hương để dựng xây nên một huyện phát triển, một Hà Nội  thu  nhỏ trên cao nguyên.
 …
 “Có   lẽ khó có nơi nào đặc biệt như Lâm Hà vì một vùng đất ở miền Nam mà   người dân chỉ nói tiếng Hà Nội. Thậm chí có những người miền Nam tới   sinh sống ở đây, sinh con ra cũng nói tiếng Bắc. Bởi Lâm Hà như một Hà   Nội thu nhỏ trên cao nguyên”.
 Lâm Hà hiện có trên 142 ngàn người, trong đó trên 61% là dân kinh tế mới Hà Nội. Đó là lý do Lâm Hà thường được nhắc đến như “huyện  thứ 30 của Thủ đô”, là “cửa ô thứ 6”...
 
 
  Trung tâm huyện Lâm Hà ngày nay
 Đà Lạt bây giờ sao khác hẳn ngày xưa!
 
 Hồi ức về Đà Lạt Xưa
 
 Hồi   ức của tôi về xứ sở Sương Mù bắt đầu từ năm 1953, khi đó  mấy  mẹ con tôi từ phi trường Gia Lâm, Hà Nội, bay thẳng vào Đà  Lạt  còn bố thì đã vào trước vì ông phục  vụ trong lực  lượng Ngự Lâm Quân của Vua Bảo Đại tại đất Hoàng  triều Cương  thổ.
 
 Máy  bay nhà binh đáp xuống phi  trường nhỏ ở gần thác Cam Ly cách  thành phố hơn 3km (chứ không  phải là phi trường lớn Liên Khương  ở rất xa) vào một buổi  chiều, vừa mưa  vừa lạnh trong khi bố vẫn chưa đến đón!
 
 
  Thác Cam Ly
 
 Trong   lúc mấy mẹ con còn đang ngỡ ngàng trước khung cảnh mới lạ và đầu óc   còn lâng lâng sau gần 3g bay bổng trên mây thì mẹ tôi bỗng lên  tiếng: “Cậu  kìa!”. (Gia đình tôi vẫn còn giữ phong tục của một số người miền Bắc: Bố được gọi là Cậu, Mẹ là Mợ).
 
 Tôi  chỉ nhìn  thấy mờ mờ trong màn sương một bóng người mặc áo mưa đang tiến  dần về  phía 5 mẹ con. Cuối cùng thì gia đình gặp nhau, mừng mừng tủi  tủi.
 
 Chiếc xe Peugeot màu đen chở chúng tôi vào thành phố. Đầu óc non nớt của tôi thoáng có ý nghĩ: “Cậu  mình có cả ôtô nữa!’. Xe  dừng lại tại một căn nhà của bạn bố tôi  trên đường Cầu Quẹo (hình  như ngày nay đổi tên thành Phan Đình Phùng).  Sau khi nhận tiền, tài xế  lái chiếc Peugeot 203 đi, khi đó tôi mới  nhận ra chiếc xe không phải  của Bố, chỉ là chiếc... Taxi!
 
 
  Bố tôi trong bộ quân phục Ngự Lâm Quân
 
 Những   ngày đầu tiên vào Đà Lạt tôi có dịp khám phá những chuyện thật trẻ  con.  Chúng tôi chơi trốn tìm, tôi đinh ninh là bạn mình trốn sau cánh  cửa  nhưng cu cậu lại xuất hiện sau tấm màn đỏ  và reo lêu: “Lêu lêu mắc  cở!”. Người Bắc không có chữ ‘mắc  cở’ nên tôi suy luận ‘mắc cở’ là...  cái màn cửa màu đỏ.
 
 Sau vài tuần “ở  nhờ” nhà  bạn của  bố, gia đình chúng tôi đã mua được một căn  nhà trên đường Lê  Thái Tổ. Từ nhà nhìn qua phía bên kia thung lũng  là đường rầy xe lửa.  Ngày hai buổi sáng-chiều có chuyến Đà Lạt - Tháp  Chàm chạy qua.
 
 
  Căn nhà xưa đối diện với đường tầu phía bên kia thung lũng
 
 Vì   đây là đoạn cuối của cuộc hành trình nên chiều chiều vào khoảng 4g   chuyến xe lửa từ Tháp Chàm về luôn hú những hồi còi dài trước khi vào ga   Đà Lạt. Bọn trẻ chúng tôi thường vẫy tay  với hành khách trên  tầu, con tầu hình như cũng biết mệt sau khi  từ đồng bằng leo dốc  lên cao nguyên bằng đường sắt răng cưa.
 
 
 .jpg) Ga Đà Lạt (hình chụp năm 1948)
 
 Hằng  ngày chúng tôi dùng cửa sau, leo  một con dốc nhỏ xuyên qua nhà số 7 Lê  Thái Tổ, Câu lạc bộ Sĩ quan Ngự  Lâm Quân. Từ đây có thể đón xe đò Trại  Hầm hoặc Trại Mát để xuống phố,  cách khoảng  3km.
 Trại  Hầm, một cái tên thật bình dân,  mộc mạc như những cư dân sinh sống tại  đây. Từ nhà tôi xuống Trại Hầm  chỉ mất độ hơn 5 phút đi bộ nhưng phải  vượt qua một con dốc dài, quanh  co vì khu  vực này nằm trong một thung lũng. Hai bên đường là những căn  nhà vách  gỗ thông, mái tôn và phía sau nhà là những khu vườn rộng theo  triền dốc  thoai thoải.
 Vào  thời đó, nguồn lợi chính của dân  Trại Hầm là trái mận. Khác với loại mận  dưới miền Tây, mận Đà Lạt trái  nhỏ, có vị hơi chua nhưng khi chín thì  mềm nhũn, ngọt lịm. Mận Trại Hầm  có 2 giống,  vỏ màu đỏ hoặc vàng nhưng hoa lại có chung một màu trắng  toát. Mận vàng  bao giờ cũng ngon hơn mận đỏ và giá bán cũng chênh lệch  nên người ta  chỉ thích trồng loại mận vỏ vàng.
 Đi xe  đò Trại Hầm - Đà Lạt là đoạn  đường tôi đã nhiều lần đi qua: từ nhà vượt  một con dốc lên đường Lê  Thái Tổ, xuống một đoạn dốc ngắn đến đường  Trần Hưng Đạo, nơi có rất  nhiều biệt thự vào lọai đẹp nhất Đà Lạt, trong đó phải kể đến biệt thự của Đại tướng Lê Văn Tỵ chiếm trọn một quả đồi có hàng rào vây quanh.
 Hết  đường Trần Hưng Đạo sẽ gặp cây  xăng Kim Cúc, nếu rẽ trái sẽ hướng về  đèo Prenn, đi thẳng sẽ gặp nhà  thờ Con Gà và nếu rẽ phải là đường Hồ  Tùng Mậu, bắt đầu từ Khách sạn  Sans Souci đổ  dốc xuống Hồ Xuân Hương gặp nhà hàng Thủy Tạ. Đi ven theo  hồ sẽ gặp Cầu  Ông Đạo và cuối cùng lên một con dốc sẽ đến Khu Hòa  Bình, trung tâm  thành phố Đà Lạt.
 
 
  Nhà hàng Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương
 
 Hồ   Xuân Hương, ngày xưa có tên Grand Lac (Hồ Lớn) là một hồ nhân tạo,  được  đào vào năm 1919. Để tạo thành hồ, người ta đắp một cái đập chắn  dòng  suối chảy qua thung lũng, trên mặt đập là một  cây cầu mang tên  Cầu Ông Đạo. Đập này nằm trước dinh Quản Đạo mà vị  Quản đạo bấy giờ là  Phạm Khắc Hòe vẫn được dân địa phương gọi là Ông  Đạo.
 
 
  Hồ Xuân Hương và cầu Ông Đạo ngày xưa
 
 Tôi   bắt đầu vào Lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) tại trường Nam  tiểu  học Đà Lạt, gần khu Hòa Bình. Tôi còn nhớ, cô giáo Lớp Năm có  một  cái tên rất đặc biệt: Huỳnh Bá Thiên  Vân. Có thể nói  tôi là một trong những “học trò cưng” của cô nên hầu như tháng  nào cũng có  Bảng Danh Dự!
 
 
 .jpg) Bảng danh dự (1954)
 
 Năm   tôi trở lại Đà Lạt học lớp Đệ Nhất trường Trần Hưng Đạo tôi   được gặp lại em của cô: Huỳnh Bá Tuệ Dương cùng với Từ Công   Phụng, người Chàm từ Ninh Thuận cũng  trọ học tại Đà Lạt.  Chúng tôi thành lập ban nhạc của trường,  chơi đàn theo phong  cách của ban The Shadows,  và có lần trình diễn trên sân khấu rạp hát Hòa Bình.
 
 
  Ban nhạc trường Trần Hưng Đạo
 
 Chúng   tôi thường ngồi Cà Phê Tùng, một phần không thể thiếu được   của Đà Lạt. Khi mới vào Đà Lạt năm 1953, Tùng đã có mặt   trước đợt di cư năm 54 của những người miền  Bắc.
 Tùng  có một  không gian chật hẹp với những chiếc bàn cũ kỹ, những bức  tranh bạc  màu, ánh đèn mờ mờ. Không sang trọng nhưng Tùng có những  nét riêng  thu hút rất nhiều văn nghệ sĩ  mỗi khi lên cao nguyên. Số 6 khu  Hòa Bình đã trở thành một phần  của Đà Lạt sương mù.
 
 
  Cà Phê Tùng
 
                        Mẹ   tôi có một gian hàng bán mũ nỉ, còn gọi là mũ phớt dành cho nam giới   tại chợ Đà Lạt, khi đó chưa có chợ lầu như ngày nay. Chợ cũ bằng cây,   lợp tôn và được xây dựng từ năm 1929 tại vị  trí rạp chiếu bóng 3 tháng  4, khu Hòa Bình ngày nay.
 
 
  Chợ Hòa Bình ngày ấy
 
 Năm sửa soạn lên Lớp Nhì suốt kỳ hè ông anh lớn của tôi kèn học rất gắt để… “học nhảy”,   có nghĩa là tôi sẽ không học Lớp Nhì mà vào luôn Lớp Nhất.   Cũng vì lý do đó, tôi chuyển sang trường tiểu học Đa Nghĩa, phải  đi  bộ một khoảng khá xa nên phải đem theo ‘gà  mên’ đựng cơm để ăn trưa tại trường rồi tiếp tục học vào buổi chiều.
 Đi học tuy xa nhưng lại có cái thú... ăn trộm dâu tây ‘tại chỗ’ khi   băng qua vườn dâu trên đường đến trường hoặc đi học về. Chỉ cần liếc   thấy trái dâu nào chín đỏ, hơi cúi xuống cho vừa tầm tay là hái liền,   vội vàng bỏ ngay vào miệng. Người ta trồng dâu có khi tưới bằng nước   tiểu pha loãng nhưng chúng tôi cứ thế bỏ vào mồm.  Ngon không thể tả  được!
 Trên đường đi học về phải đi qua đường Cầu Quẹo rồi tới rạp xiné Ngọc Hiệp. Bên cạnh rạp xiné có bến xe và một số hàng quán, nổi bật nhất là quán mì quảng và xe thịt bò khô. Tôi và các bạn vẫn thường ghé xe   thịt bò khô của ông Tàu già. Lúc không có khách, ông dùng cái kéo to   bản, màu đen, cắt vào không khí để tạo tiếng lách cách như một lời rao   hàng mà không phải tốn hơi.
 
 
  Rạp Ngọc Hiệp
 
 Sau   này về Sài Gòn tôi cũng nhiều lần ăn thịt bò khô ở góc đường Lê Lợi -   Pasteur (nơi có nước mía Viễn Đông và phá lấu ghim bằng que tăm) hoặc   đối diện với công viên Lê Văn Tám (xưa là  Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi)  trên đường Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, không nơi  nào có được hương vị thịt  bò khô như ở bên hông rạp Ngọc Hiệp Đà Lạt  ngày còn bé. Có lẽ ấn tượng  ban đầu lúc nào cũng đáng nhớ.
 Chủ  Nhật gia đình tôi thường xuống  phố Hòa Bình ăn trưa tại tiệm ăn Mỹ Hương  có hương vị Bắc hoặc tiệm ăn  Tàu trên cùng đường. Tôi còn nhớ, cả gia  đình đi taxi xuống phố chứ  không đi xe đò  như ngày thường. Xuống phố - đúng ra là lên phố - thật  vui vì được đi  ăn tiệm, được nhìn thiên hạ đi dạo phố trong những bộ  đồ ‘kẻng’ nhất.  Tuần nào tôi cũng mong cho chóng đến Chủ Nhật…
 
 
  Lò bánh mì Vĩnh Chấn đầu dốc Duy Tân
 
 Những   người Bắc mới di cư vào Nam năm 1954 thường có khuynh hướng bắt chiếc   sử dụng những từ ngữ và cách phát âm của miền Nam, chẳng hạn như hột   vịt đọc thành hột ‘dzịt’,  đôi vớ (tất) thành đôi ‘dzớ’.
 Đối với những học sinh di cư từ Bắc vào Nam như tôi cũng không phải là ngọai lệ. Tôi cố theo lối phát âm miền Nam khi ở trường vui chơi với bạn bè nhưng khi về đến nhà tôi lại giữ nguyên giọng Bắc.
 Ngày nay, những người miền Bắc vào sinh sống tại miền Nam hình như, vì nhiều lý do, không cần phải “đổi  giọng”. Ngược lại, “những người thắng cuộc” đem  vào miền Nam rất nhiều từ ngữ lạ với cách phát âm mà nhiều người phải than… không giống ai!
 Riêng gần Đà Lạt có một khu nổi tiếng mang tên Lâm Hà mà báo chí không ngớt lời ca tụng:
 “Hơn   40 năm trước, hàng ngàn thanh niên đã tạm biệt Thủ đô để vào Nam Tây   Nguyên khai hoang mở đất theo tiếng gọi của Đảng đi xây dựng vùng  kinh  tế mới. Hành trang của họ không chỉ là sức trẻ mà còn là cốt cách,  tâm  hồn của quê hương để dựng xây nên một huyện phát triển, một Hà Nội  thu  nhỏ trên cao nguyên.
 …
 “Có   lẽ khó có nơi nào đặc biệt như Lâm Hà vì một vùng đất ở miền Nam mà   người dân chỉ nói tiếng Hà Nội. Thậm chí có những người miền Nam tới   sinh sống ở đây, sinh con ra cũng nói tiếng Bắc. Bởi Lâm Hà như một Hà   Nội thu nhỏ trên cao nguyên”.
 Lâm Hà hiện có trên 142 ngàn người, trong đó trên 61% là dân kinh tế mới Hà Nội. Đó là lý do Lâm Hà thường được nhắc đến như “huyện  thứ 30 của Thủ đô”, là “cửa ô thứ 6”...
 
 
  
 Trung tâm huyện Lâm Hà ngày nay
 Đà Lạt bây giờ sao khác hẳn ngày xưa!
 
 ***
 * Video “Đà Lạt Xưa”:
 https://youtu.be/rYhsYwAIOuI
 
 * Video “Đà Lạt Xưa & Nay”:
 
                                                   ***https://youtu.be/rYhsYwAIOuI
 
 * Video “Đà Lạt Xưa & Nay”:
 
 
 
 |